BÀI KINH THỨ 5
ANAṄGAṆASUTTAṂ (MN 5)
Thứ Bảy, 03-04-2021
5. Anaṅgaṇasuttaṃ – Kinh Vô Uế/Nhiễm
(Lớp Đọc Hiểu Kinh Trung Bộ Pāḷi do Tỳ-khưu Thiện Hảo giảng dạy)
57. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi – “āvuso, bhikkhave”ti. “Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ. Āyasmā sāriputto etadavoca–
(Tôi đã được nghe như vầy – Một thời, Thế Tôn trú tại Sāvatthī, ở Jetavana, trong khu vườn/chùa của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, tôn giả Sāriputta đã gọi các tỳ-khưu rằng: ‘Này các tỳ-khưu’. Các tỳ-khưu ấy đã đáp lời (với) tôn giả Sāriputta rằng: ‘Này hiền giả’. Tôn giả Sāriputta đã nói điều này–)
“Cattārome, āvuso, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? Idhāvuso, ekacco puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti. Idha panāvuso, ekacco puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti. Idhāvuso, ekacco puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti. Idha panāvuso, ekacco puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti. Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ hīnapuriso akkhāyati. Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ seṭṭhapuriso akkhāyati. Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ hīnapuriso akkhāyati. Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ seṭṭhapuriso akkhāyatī”ti.
(Này chư hiền, bốn hạng/loại người này đang hiện hữu và được tìm thấy ở đời. Gì là bốn (hạng)? Ở đây, này chư hiền, một người đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’. Ở đây, này chư hiền, một người đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’. Ở đây, này chư hiền, một người hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’. Ở đây, này chư hiền, một người hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’. Ở đấy, này chư hiền, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, đối với hai hạng người có cấu uế này, chỉ có (người không biết điều ấy) mới được xem là người hạ liệt. Ở đấy, này chư hiền, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, đối với hai hạng người có cấu uế này, chỉ có (người biết điều ấy) mới được xem là người ưu việt. Ở đấy, này chư hiền, người nào mà không hiện có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, đối với hai hạng người không có cấu uế này, chỉ có (người không biết điều ấy) mới được xem là người hạ liệt. Ở đấy, này chư hiền, người nào mà không hiện có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, đối với hai hạng người không có cấu uế này, chỉ có (người biết điều ấy) mới được xem là người ưu việt.)
58. Evaṃ vutte, āyasmā mahāmoggallāno āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca –
“Ko nu kho, āvuso sāriputta, hetu ko paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyati? Ko panāvuso sāriputta, hetu ko paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyatī”ti?
(Khi được nói như vậy, tôn giả Moggallāna đã nói (với) tôn giả Sāriputta điều này –
Này hiền giả Sāriputta, do nhân gì và duyên gì, trong hai hạng người có cấu uế, một hạng được xem là người hạ liệt, còn một hạng được xem là người ưu việt?)
59. ‘‘Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – na chandaṃ janessati na vāyamissati na vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya; so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā rajena ca malena ca pariyonaddhā. Tamenaṃ sāmikā na ceva paribhuñjeyyuṃ na ca pariyodapeyyuṃ [pariyodāpeyyuṃ (?)], rajāpathe ca naṃ nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena saṃkiliṭṭhatarā assa malaggahitā’’ti? ‘‘Evamāvuso’’ti. ‘‘Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – na chandaṃ janessati na vāyamissati na vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya; so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati.
(Ở đấy, này chư hiền, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, điều này được chờ đợi cho người ấy/điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ không khởi lên ý định, sẽ không cố gắng, sẽ không nhiệt tâm để đoạn trừ cấu uế của mình; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm nhiễm ô, có tham, có sân, có si, có cấu uế. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, bị phủ đầy bụi bặm và ten ố. Những người chủ có thể không dùng đến, không rửa sạch cái bát ấy, và bỏ nó ở chỗ bụi bặm. Như vậy, này hiền giả, phải chăng cái bát ấy chắc chắn sau đó có thể bị ô nhiễm và bị bám đầy bụi hơn không?’ ‘Đúng vậy, thưa hiền giả.’ ‘Cũng vậy, này hiền giả, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, điều này được chờ đợi cho người ấy/điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ không khởi lên ý định, sẽ không cố gắng, sẽ không nhiệt tâm để đoạn trừ cấu uế của mình; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm nhiễm ô, có tham, có sân, có si, có cấu uế.’)
‘‘Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – chandaṃ janessati vāyamissati vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya; so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā rajena ca malena ca pariyonaddhā. Tamenaṃ sāmikā paribhuñjeyyuñceva pariyodapeyyuñca, na ca naṃ rajāpathe nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena parisuddhatarā assa pariyodātā’’ti? ‘‘Evamāvuso’’ti. ‘‘Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo sāṅgaṇova samāno ‘atthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – chandaṃ janessati vāyamissati vīriyaṃ ārabhissati tassaṅgaṇassa pahānāya; so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati.
(Ở đấy, này chư hiền, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ khởi lên ý định, sẽ cố gắng, sẽ nhiệt tâm để đoạn trừ cấu uế của mình; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm thanh tịnh, vô tham, vô sân, vô si, vô uế nhiễm. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, bị phủ đầy bụi bặm và ten ố. Những người chủ có thể dùng đến, rửa sạch cái bát ấy, và không bỏ nó ở chỗ bụi bặm. Như vậy, này hiền giả, phải chăng cái bát ấy chắc chắn sau đó có thể được thanh tịnh và được sạch sẽ hơn không?’ ‘Đúng vậy, thưa hiền giả.’ ‘Cũng vậy, này hiền giả, người nào mà đang có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Có cấu uế bên trong ta’, điều này được chờ đợi cho người ấy/điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ khởi lên ý định, sẽ cố gắng, sẽ nhiệt tâm để đoạn trừ cấu uế của mình; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm thanh tịnh, vô tham, vô sân, vô si, vô uế nhiễm.’)
‘‘Tatrāvuso , yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – subhanimittaṃ manasi karissati, tassa subhanimittassa manasikārā rāgo cittaṃ anuddhaṃsessati; so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā na ceva paribhuñjeyyuṃ na ca pariyodapeyyuṃ, rajāpathe ca naṃ nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena saṃkiliṭṭhatarā assa malaggahitā’’ti? ‘‘Evamāvuso’’ti. ‘‘Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – subhanimittaṃ manasi karissati, tassa subhanimittassa manasikārā rāgo cittaṃ anuddhaṃsessati;so sarāgo sadoso samoho sāṅgaṇo saṃkiliṭṭhacittokālaṃkarissati.
(Ở đấy, này chư hiền, người nào mà hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ hướng tâm/chú ý đến tịnh tướng, do chú ý đến tịnh tướng ấy nên tham ái sẽ khấy động tâm lý; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm nhiễm ô, có tham, có sân, có si, có cấu uế. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, được thanh tịnh và trong sạch. Những người chủ có thể không dùng đến, không rửa sạch cái bát ấy, và bỏ nó ở chỗ bụi bặm. Như vậy, này hiền giả, phải chăng cái bát ấy chắc chắn sau đó có thể bị ô nhiễm và bị bám đầy bụi hơn không?’ ‘Đúng vậy, thưa hiền giả.’ ‘Cũng vậy, này hiền giả, người nào mà hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng không biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ hướng tâm/chú ý đến tịnh tướng, do chú ý đến tịnh tướng ấy nên tham ái sẽ khuấy động tâm lý; người ấy sẽ mệnh chung (với) tâm nhiễm ô, có tham, có sân, có si, có cấu uế.’)
‘‘Tatrāvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – subhanimittaṃ na manasi karissati, tassa subhanimittassa amanasikārā rāgo cittaṃ nānuddhaṃsessati; so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā paribhuñjeyyuñceva pariyodapeyyuñca, na ca naṃ rajāpathe nikkhipeyyuṃ. Evañhi sā, āvuso, kaṃsapāti aparena samayena parisuddhatarā assa pariyodātā’’ti? ‘‘Evamāvuso’’ti. ‘‘Evameva kho, āvuso, yvāyaṃ puggalo anaṅgaṇova samāno ‘natthi me ajjhattaṃ aṅgaṇa’nti yathābhūtaṃ pajānāti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ – subhanimittaṃ na manasi karissati, tassa subhanimittassa amanasikārā rāgo cittaṃ nānuddhaṃsessati; so arāgo adoso amoho anaṅgaṇo asaṃkiliṭṭhacitto kālaṃ karissati.
(Ở đấy, này chư hiền, người nào mà hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ không hướng tâm/chú ý đến tịnh tướng, do không chú ý đến tịnh tướng ấy nên tham ái sẽ không khấy động tâm lý; người ấy sẽ mệnh chung (với) thanh tịnh, vô tham, vô sân, vô si, vô uế nhiễm. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, được thanh tịnh và trong sạch. Những người chủ có thể dùng đến, rửa sạch cái bát ấy, và không bỏ nó ở chỗ bụi bặm. Như vậy, này hiền giả, phải chăng cái bát ấy chắc chắn sau đó có thể được thanh tịnh và sạch sẽ hơn không?’ ‘Đúng vậy, thưa hiền giả.’ ‘Cũng vậy, này hiền giả, người nào mà hiện không có cấu uế/ô nhiễm nhưng biết như thật/đúng đắn rằng ‘Không có cấu uế bên trong ta’, điều này sẽ có cho người ấy – (Người ấy) sẽ không hướng tâm/chú ý đến tịnh tướng, do không chú ý đến tịnh tướng ấy nên tham ái sẽ không khấy động tâm lý; người ấy sẽ mệnh chung (với) thanh tịnh, vô tham, vô sân, vô si, vô uế nhiễm.’)
‘‘Ayaṃ kho, āvuso moggallāna , hetu ayaṃ paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ sāṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyati. Ayaṃ panāvuso moggallāna, hetu ayaṃ paccayo yenimesaṃ dvinnaṃ puggalānaṃ anaṅgaṇānaṃyeva sataṃ eko hīnapuriso akkhāyati, eko seṭṭhapuriso akkhāyatī’’ti.
(Này hiền giả Moggallāna, đây là nhân và duyên mà trong hai hạng người có cấu uế, một hạng được xem là người hạ liệt, còn một hạng được xem là người ưu việt. Này hiền giả Moggallāna, đây là nhân và duyên mà trong hai hạng người không có cấu uế, một hạng được xem là người hạ liệt, còn một hạng được xem là người ưu việt.)
Ngữ vựng:
- aṅgaṇa (trut): vết nhơ/bẩn, sự cấu uế/ô nhiễm
- saṃvijjamāna (htpt của saṃvijjati): đang tồn tại/được tìm thấy
- ekacca (tt): một, nào đó
- samāna (htpt của √as): đang có/tồn tại
- yvāyaṃ = yo + ayaṃ
- akkhāyati (ā+√khā+ya+ti): được xem là, giống như
- vutta (qkpt của vatti): được nói
- hetu (nt): lý do, nguyên nhân, điều kiện
- paccaya (nt): nguyên cớ, lý do, động cơ, duyên
- pāṭikaṅkha (tt từ paṭikaṅkhati): được chờ đợi/mong chờ/trông mong
- chanda (nt): nguyện vọng, ý muốn/định
- janeti (√jan+e+ti): khiến khởi sanh, tạo/sanh ra
- vāyamati (vi+ā+√yam+a+ti): cố gắng, nổ lực, ráng
- ārabhati (ā+√rabh+a+ti): đảm trách, thử, cố gắng
- saṃkiliṭṭha (qkpt của saṃkilissati): trở nên ô nhiễm/bất tịnh
- kālaṃ karoti (thng): chết, mệnh chung
- kaṃsapāti = kaṃsa (trut) đồng thiếc + pāti (nut) cái bát/tô
- ābhata (qkpt của ābharati): được mang/đem tới/lấy
- āpaṇa (nt): chợ, cửa hàng
- kammārakulā = kammāra (nt) thợ rèn + kula (trut) nhà, hộ
- raja (nt, trut): bụi, vật dơ bẩn/bất tịnh, phiền não
- mala (trut): vết bẩn, vết ten
- rajāpatha (nt): chỗ đầy bụi
- pariyonaddha (qkpt của pariyonandhati): bị bao phủ/bao bọc/che đậy
- sāmika (nt): chủ nhân
- paribhuñjati (pari+√bhuj+ṃ-a+ti): sử dụng, thưởng thức
- pariyodapeti (pari+ava+√dā+āpe+ti): làm cho sạch sẽ/thanh khiết/trong trắng
- nikkhipati (ni+√khip+a+ti): đặt xuống, để sang bên, từ/vứt bỏ
- anuddhaṃseti (anu+√dhaṃs+e+ti): quấy rối, khuấy động, làm thái hoá
60. ‘‘Aṅgaṇaṃ aṅgaṇan’ti, āvuso, vuccati. Kissa nu kho etaṃ, āvuso, adhivacanaṃ yadidaṃ aṅgaṇa’’nti? ‘‘Pāpakānaṃ kho etaṃ, āvuso, akusalānaṃ icchāvacarānaṃ adhivacanaṃ, yadidaṃ aṅgaṇa’’nti.
(Này hiền giả, được gọi là ‘cấu uế, cấu uế’. Này hiền giả, đấy là tên gọi cho cái gì, tức là ‘cấu uế’? Này hiền giả, đấy là tên gọi cho các phạm trù/khía cạnh của sự mong muốn ác và bất thiện, tức là ‘cấu uế’.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘āpattiñca vata āpanno assaṃ, na ca maṃ bhikkhū jāneyyuṃ āpattiṃ āpanno’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ bhikkhuṃ bhikkhū jāneyyuṃ – ‘āpattiṃ āpanno’ti. ‘Jānanti maṃ bhikkhū āpattiṃ āpanno’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Nếu ta thật sự có phạm điều giới, mong chư tỳ-khưu đừng có biết ta đã phạm điều giới’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư tỳ-khưu có thể biết vị tỳ-khưu ấy ‘đã phạm điều giới’. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư tỳ-khưu biết ta đã phạm điều giới’. Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘āpattiñca vata āpanno assaṃ, anuraho maṃ bhikkhū codeyyuṃ, no saṅghamajjhe’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ bhikkhuṃ bhikkhū saṅghamajjhe codeyyuṃ, no anuraho. ‘Saṅghamajjhe maṃ bhikkhū codenti, no anuraho’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Nếu ta thật sự có phạm điều giới, chư tỳ-khưu có thể khuyến dạy/khiển trách ta ở nơi riêng tư/kín đáo, chớ không phải giữa chúng Tăng’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư tỳ-khưu có thể khuyến dạy/khiển trách vị tỳ-khưu ấy giữa chúng Tăng, chớ không phải nơi riêng tư/kín đáo. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư tỳ-khưu khuyến dạy/khiển trách vị tỳ-khưu ấy giữa chúng Tăng, chớ không phải nơi riêng tư/kín đáo’. Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘āpattiñca vata āpanno assaṃ, sappaṭipuggalo maṃ codeyya, no appaṭipuggalo’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ taṃ bhikkhuṃ appaṭipuggalo codeyya, no sappaṭipuggalo. ‘Appaṭipuggalo maṃ codeti, no sappaṭipuggalo’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Nếu ta thật sự có phạm điều giới, vị đồng phạm có thể khuyến dạy/khiển trách ta, chớ không phải là vị không đồng phạm’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị không đồng phạm có thể khuyến dạy/khiển trách vị tỳ-khưu ấy, chớ không phải là vị đồng phạm. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị không đồng phạm khuyến dạy/khiển trách ta, chớ không phải là vị không đồng phạm’. Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya, na aññaṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya, na taṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti, na maṃ satthā paṭipucchitvā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ desetī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy bậc Đạo Sư chỉ nên hỏi ta nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu, chớ Ngài đừng hỏi vị tỳ-khưu khác nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu.’ Và này hiền giả, điều này có thể có, tức bậc Đạo Sư có thể hỏi vị tỳ-khưu khác nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu, chớ Ngài không hỏi vị tỳ-khưu ấy nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Bậc Đạo Sư hỏi vị tỳ-khưu khác nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu, chớ Ngài không hỏi ta nhiều lần rồi mới thuyết Pháp cho chúng tỳ-khưu.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyu’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya paviseyyuṃ. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya pavisanti, na maṃ bhikkhū purakkhatvā purakkhatvā gāmaṃ bhattāya pavisantī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chư tỳ-khưu chỉ nên để ta dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực, chớ chư tỳ-khưu đừng để vị tỳ-khưu khác dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực.’ Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư tỳ-khưu có thể để vị tỳ-khưu khác dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực, chớ chư tỳ-khưu không để vị tỳ-khưu ấy dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư tỳ-khưu để vị tỳ-khưu khác dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực, chớ chư tỳ-khưu không để ta dẫn đầu khi đi vào làng để thọ thực. Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva labheyyaṃ bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, na añño bhikkhu labheyya bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍa’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu labheyya bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, na so bhikkhu labheyya bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ. ‘Añño bhikkhu labhati bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍaṃ, nāhaṃ labhāmi bhattagge aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍa’nti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta có thể có chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường, chớ không phải vị tỳ-khưu khác có thể có chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường.’ Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác có thể có chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy có thể có chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác có được chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường, chớ không phải ta có được chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, thực phẩm tốt nhất trong trai đường.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva bhattagge bhuttāvī anumodeyyaṃ, na añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyya, na so bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodeyya. ‘Añño bhikkhu bhattagge bhuttāvī anumodati, nāhaṃ bhattagge bhuttāvī anumodāmī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ, chớ không phải vị tỳ-khưu khác là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ, chớ không phải ta là người đã thọ thực xong mới có thể nói lời tuỳ hỷ.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya, na so bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyya. ‘Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ ārāmagatānaṃ bhikkhūnaṃ dhammaṃ desemī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá.’ Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá, chớ không phải ta thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu đã đến tinh xá.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseyya, na so bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseyya. ‘Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ ārāmagatānaṃ bhikkhunīnaṃ dhammaṃ desemī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy có thể thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá, chớ không phải ta thuyết Pháp đến chư tỳ-khưu ni đã đến tinh xá.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ deseyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ deseyya, na so bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ deseyya. ‘Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ ārāmagatānaṃ upāsakānaṃ dhammaṃ desemī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá, chớ không phải ta thuyết Pháp đến chư cận sự nam đã đến tinh xá.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseyyaṃ, na añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseyyā’ti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseyya, na so bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseyya. ‘Añño bhikkhu ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ deseti, nāhaṃ ārāmagatānaṃ upāsikānaṃ dhammaṃ desemī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá, chớ không phải vị tỳ-khưu ấy có thể thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá, chớ không phải ta thuyết Pháp đến chư cận sự nữ đã đến tinh xá.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ [garukareyyuṃ (sī. syā. pī.)] māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyu’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ bhikkhū sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhū sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti , na maṃ bhikkhū sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjentī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chư tỳ-khưu chỉ nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta, chớ chư tỳ-khưu không nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư tỳ-khưu có thể quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư tỳ-khưu không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu ấy. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư tỳ-khưu quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư tỳ-khưu không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva bhikkhuniyo sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhuniyo sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyu’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhuniyo sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ bhikkhuniyo sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ bhikkhuniyo sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, na maṃ bhikkhuniyo sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjentī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chư tỳ-khưu ni chỉ nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta, chớ chư tỳ-khưu ni không nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư tỳ-khưu ni có thể quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư tỳ-khưu ni không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu ấy. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư tỳ-khưu ni quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư tỳ-khưu ni không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva upāsakā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ upāsakā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyu’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ upāsakā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ upāsakā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ upāsakā sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, na maṃ upāsakā sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjentī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chư cận sự nam chỉ nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta, chớ chư cận sự nam không nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư cận sự nam có thể quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư cận sự nam không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu ấy. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư cận sự nam quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư cận sự nam không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata mameva upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyu’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, na taṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ. ‘Aññaṃ bhikkhuṃ upāsikā sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, na maṃ upāsikā sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjentī’ti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chư cận sự nữ chỉ nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta, chớ chư cận sự nữ không nên quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức chư cận sự nữ có thể quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư cận sự nữ không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu ấy. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Chư cận sự nữ quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến vị tỳ-khưu khác, chớ chư cận sự nữ không có quý mến, tôn trọng, cung kính, và cúng dường đến ta.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ cīvarānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ cīvarāna’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ cīvarānaṃ, na so bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ cīvarānaṃ. ‘Añño bhikkhu lābhī [lābhī assa (ka.)] paṇītānaṃ cīvarānaṃ, nāhaṃ lābhī [lābhī assaṃ (ka.)] paṇītānaṃ cīvarāna’nti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta là người có được các y phục thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu khác không phải là người có được các y phục thượng hạng’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác là người có được các y phục thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu ấy không phải là người có được các y phục thượng hạng. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác là người có được các y phục thượng hạng, chớ không phải ta là người có được các y phục thượng hạng.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ piṇḍapātānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ piṇḍapātāna’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ piṇḍapātānaṃ, na so bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ piṇḍapātānaṃ. ‘Añño bhikkhu lābhī paṇītānaṃ piṇḍapātānaṃ, nāhaṃ lābhī paṇītānaṃ piṇḍapātāna’nti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu khác không phải là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu ấy không phải là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng, chớ không phải ta là người có được các thực phẩm khất thực thượng hạng.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ senāsanānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ senāsanāna’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ senāsanānaṃ, na so bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ senāsanānaṃ. ‘Añño bhikkhu lābhī paṇītānaṃ senāsanānaṃ, nāhaṃ lābhī paṇītānaṃ senāsanāna’nti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta là người có được các trú xứ thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu khác không phải là người có được các trú xứ thượng hạng’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác là người có được các trú xứ thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu ấy không phải là người có được các trú xứ thượng hạng. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác là người có được các trú xứ thượng hạng, chớ không phải ta là người có được các trú xứ thượng hạng.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ idhekaccassa bhikkhuno evaṃ icchā uppajjeyya – ‘aho vata ahameva lābhī assaṃ paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, na añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārāna’nti. Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ añño bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, na so bhikkhu lābhī assa paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ. ‘Añño bhikkhu lābhī paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārānaṃ, nāhaṃ lābhī paṇītānaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhārāna’nti – iti so kupito hoti appatīto. Yo ceva kho, āvuso, kopo yo ca appaccayo – ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ.
(Và này hiền giả, điều này có thể có, tức ở đây, một vị tỳ-khưu có thể có mong muốn như vầy – ‘Ôi, vậy chỉ ta là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu khác không phải là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng’. Và này hiền giả, điều này có thể có, tức vị tỳ-khưu khác là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng, chớ vị tỳ-khưu ấy không phải là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng. Vị ấy bực mình và khó chịu như vậy (vì nghĩ) rằng: ‘Vị tỳ-khưu khác là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng, chớ không phải ta là người có được các dược phẩm trị bệnh thượng hạng.’ Và này hiền giả, sự bực mình và sự khó chịu nào, cả hai đều là cấu uế cả.)
‘‘Imesaṃ kho etaṃ, āvuso, pāpakānaṃ akusalānaṃ icchāvacarānaṃ adhivacanaṃ, yadidaṃ aṅgaṇa’’nti.
(Vậy, này hiền giả, đấy là tên gọi cho các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện ấy, tức là ‘cấu uế’.)
61. ‘‘Yassa kassaci, āvuso, bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti āraññiko pantasenāsano piṇḍapātiko sapadānacārī paṃsukūliko lūkhacīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī na ceva sakkaronti na garuṃ karonti na mānenti na pūjenti. Taṃ kissa hetu? Te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva sūyanti ca. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā ahikuṇapaṃ vā kukkurakuṇapaṃ vā manussakuṇapaṃ vā racayitvā aññissā kaṃsapātiyā paṭikujjitvā antarāpaṇaṃ paṭipajjeyyuṃ. Tamenaṃ jano disvā evaṃ vadeyya – ‘ambho, kimevidaṃ harīyati jaññajaññaṃ viyā’ti? Tamenaṃ uṭṭhahitvā apāpuritvā [avāpuritvā (sī.)] Tassa sahadassanena amanāpatā ca saṇṭhaheyya, pāṭikulyatā [paṭikūlatā (ka.), pāṭikūlyatā (syā.)]ca saṇṭhaheyya, jegucchatā ca [jegucchitā ca (pī. ka.)] saṇṭhaheyya; jighacchitānampi na bhottukamyatā assa, pageva suhitānaṃ. Evameva kho, āvuso, yassa kassaci bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti āraññiko pantasenāsano piṇḍapātiko sapadānacārī paṃsukūliko lūkhacīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī na ceva sakkaronti na garuṃ karonti na mānenti na pūjenti. Taṃ kissa hetu? Te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā appahīnā dissanti ceva sūyanti ca.
(Này hiền giả, đối với vị tỳ-khưu nào, các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện được thấy và nghe là chưa được đoạn trừ, cho dù vị ấy là người sống ở rừng, người sống ở trú xứ xa vắng, người đi khất thực, người khất thực tuần tự, người mặc y phấn tảo/y từ vải bị quăng bỏ, người mặc y thô ráp, thì các bạn đồng tu không quý mến, không tôn trọng, không cung kính, không cúng dường vị tỳ-khưu ấy. Tại sao vậy? Vì họ được thấy và được nghe về các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện của tôn giả ấy chưa được đoạn trừ. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, được thanh tịnh và trong sạch. Các chủ nhân có thể đặt xác rắn hoặc xác chó hoặc xác người vào cái bát ấy, đậy lại bằng cái bát khác, và đi vào chợ. Dân chúng có thể thấy cái bát ấy và bảo rằng: ‘Ôi, cái gì mà được bạn mang theo trông có vẻ đẹp thế?’ Rồi có thể cầm cái bát lên, mở nắp ra, và nhìn vào. Đối với người ấy, do nhìn thấy vậy nên trạng thái bất mãn, gớm ghiếc, kinh tởm có thể khởi lên; đối với những người đói còn không muốn ăn, huống chi là đối với những người đã no. Cũng vậy, này hiền giả, đối với vị tỳ-khưu nào, các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện được thấy và nghe là chưa được đoạn trừ, cho dù vị ấy là người sống ở rừng, người sống ở trú xứ xa vắng, người đi khất thực, người khất thực tuần tự, người mặc y phấn tảo/y từ vải bị quăng bỏ, người mặc y thô ráp, thì các bạn đồng tu không quý mến, không tôn trọng, không cung kính, không cúng dường vị tỳ-khưu ấy. Vì họ được thấy và được nghe về các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện của tôn giả ấy chưa được đoạn trừ.)
Ngữ vựng:
- adhivacana (trut): tên gọi, thuộc ngữ
- icchāvacara = icchā (nut) sự thèm muốn/khao khát, dục vọng + avacara (nt) cảnh giới, giới vức
- ṭhānaṃ vijjati (thng): có lý do là, có thể là, thật hợp lý là [ṭhāna (trut) lý do, điều kiện; vijjati (√vid+ya+ti) có, tồn tại, được tìm thấy]
- āpatti (nut): sự phạm tội/vi phạm (giới)
- vata (bbt): chắc chắn, dĩ nhiên, quả thực
- āpanna (qkpt của āpajjati): có, phạm phải, bị rơi vào
- assaṃ (khnc, ngôi 1, si): nếu/có thể ta có
- kupita (qkpt của kuppati): giận, tức giận, bực mình
- appatīta (tt): khó chịu, bất mãn
- kopa (nt): sự cáu gắt/tức giận/hận thù
- appaccaya (nt: sự khó chịu/bất mãn
- ubhaya (tt): cả hai
- anuraho (trt): bí mật/riêng tư
- codeti (√cud+e+ti): khuyên nhủ, khuyến dạy; khiển trách
- majjha (tt) giữa, ở giữa
- sappaṭipuggala = sa + paṭipuggala (nt) người đồng đẳng/ngang nhau, bạn bè
- aho (tht chỉ ngạc nhiên): ôi, ồ
- paṭipucchati (paṭi+√pucch+a+ti): hỏi, vấn
- purakkharoti (purā+√kar+o+ti): đặt/để ở trước
- bhatta (trut): bữa/thức ăn, sự cúng dường thực phẩm
- pavisati (pa+√vis+a+ti) đi vào, vào trong
- bhattagga (trut): trai/thí đường
- aggāsana = agga (tt) cao/tốt/trước nhất + āsana (trut) chỗ ngồi, ngai vàng
- aggodaka = agga + odaka (trut) nước
- aggapiṇḍa = agga + piṇḍa (nt) vắt/nắm thức ăn
- bhuttāvin (tt): (người) đã ăn xong
- anumodati (anu+√mud+a+ti): cảm kích, vui thích
- bhikkhunī (nut): nữ tu sĩ, tỳ-khưu ni
- upāsikā (nut): nữ cư sĩ, cận sự nữ
- sakkaroti (saṃ+√kar+o+ti): quý mến/trọng
- garu (tt): nặng, to lớn
- māneti (√mān+e+ti): cung/tôn kính
- pūjeti (√pūj+e+ti): kính ngưỡng, cung phụng
- paṇīta (tt): thượng hảo, cao cấp
- cīvarāna (trut): quần áo, y phục
- piṇḍapāta = piṇḍa (nt) nắm/vắt thức ăn, đồ khất thực + pāta (nt) sự thả/đặt/thảy vào
- senāsana (trut): chỗ ở, trú
- gilānappaccayabhesajjaparikkhāra = gilāna (tt) bị bệnh, ốm + paccaya (nt) ủng hộ, trợ giúp + bhesajja (trut) thuốc chữa bệnh, dược phẩm + parikkhāra (trut) nhu yếu phẩm, vật cần thiết
- sūyati (thđt của suṇāti): được nghe
- kiñcāpi (bbt): mặc dù, dù cho
- āraññika, āraññaka (tt): thuộc về sự độc cư/rừng, sống trong rừng, sống như ẩn sĩ
- pantasenāsana = panta (tt) xa vắng, quạnh hiu, cô độc + senāsana
- piṇḍapātika (tt): đi khất thực
- sapadānacārī = sapadāna (tt) thứ lớp, liên tục + cārī (tt) đi
- paṃsukūlika (tt): mặc y bị quăng bỏ
- lūkhacīvaradhara = lūkha (tt) thô, cứng + cīvara + dhara (tt) mặc, giữ
- sabrahmacārī (nt): bạn đồng tu/Phạm hạnh
- sāmika (nt): chủ nhân
- ahikuṇapa = ahi (nt) con rắn + kuṇapa (nt) xác chết, tử thi
- kukkura (nt) con chó
- racayati (√rac+aya+ti): sắp đặt, làm đầy
- paṭikujjeti (paṭi+√kuj+e+ti): đậy lên, che phủ
- antarāpaṇa (nt): chợ
- paṭipajjati (paṭi+√pad+ya+ti): đi theo, nhập vào
- ambho (tht): ô này, xem này
- jaññajañña = jañña (tt) xuất sắc, đẹp đẽ, quyến rũ
- uṭṭhahati (u+√ṭhā+ti): đứng lên, nhấc lên
- apāpurati (pa+ā+√pur+a+ti): mở, mở ra
- oloketi (ava+√lok+e+ti): nhìn, xem xét
- amanāpata = na + manāpa (tt) quyến rũ, vừa ý, hài lòng + ta
- saṇṭhahati (saṃ+√ṭhā+a+ti): đứng dậy, khởi lên
- pāṭikulya (trut): sự ghê tởm/gớm guốc
- jeguccha (tt) kinh tởm, đáng ghét/khinh
- jighacchita (qkpt của jigacchati): bị đói
- bhottukamyatā = bhottuṃ (ngm) để ăn + kamyatā (nut) sự mong muốn/khao khát
- pageva (bbt): quá sớm, nhiều hơn hoặc ít hơn
- suhita (tt): được thoả mãn/hài lòng
- gāmantavihārī = gāma + anta (trut) ranh giới, rìa, lề + vihārī (tt) sống
- nemantanika, nimantanika (tt) được mời thỉnh
- gahapaticīvaradhara = gahapati (nt) gia chủ, người chủ nhà + cīvara + dhara
- sāli (nt): gạo, tên loại gạo tốt
- odana (trut, nt): cơm
- vicitakāḷaka = vicita (qkpt của vicināti) được tách/lựa ra + kāḷaka (nt) hạt gạo đen
- anekasūpa = aneka (tt) nhiều, đa dạng + sūpa (nt) súp, canh, cà-ri
- byañjana (trut): thức ăn
62. ‘‘Yassa kassaci, āvuso, bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti gāmantavihārī nemantaniko gahapaticīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti. Taṃ kissa hetu ? Te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti ca. Seyyathāpi, āvuso, kaṃsapāti ābhatā āpaṇā vā kammārakulā vā parisuddhā pariyodātā. Tamenaṃ sāmikā sālīnaṃ odanaṃ vicitakāḷakaṃ [vicinitakāḷakaṃ (ka.)]anekasūpaṃ anekabyañjanaṃ racayitvā aññissā kaṃsapātiyā paṭikujjitvā antarāpaṇaṃ paṭipajjeyyuṃ. Tamenaṃ jano disvā evaṃ vadeyya – ‘ambho, kimevidaṃ harīyati jaññajaññaṃ viyā’ti? Tamenaṃ uṭṭhahitvā apāpuritvā olokeyya. Tassa saha dassanena manāpatā ca saṇṭhaheyya, appāṭikulyatā ca saṇṭhaheyya, ajegucchatā ca saṇṭhaheyya; suhitānampi bhottukamyatā assa, pageva jighacchitānaṃ. Evameva kho, āvuso, yassa kassaci bhikkhuno ime pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti ca, kiñcāpi so hoti gāmantavihārī nemantaniko gahapaticīvaradharo, atha kho naṃ sabrahmacārī sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti . Taṃ kissa hetu? Te hi tassa āyasmato pāpakā akusalā icchāvacarā pahīnā dissanti ceva sūyanti cā’’ti.
(Này hiền giả, đối với vị tỳ-khưu nào, các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện được thấy và nghe là đã được đoạn trừ, cho dù vị ấy là người sống cận làng, người nhận lời mời thỉnh, và người mặc y do gia chủ cúng, thì các bạn đồng tu đều quý mến, tôn trọng, cung kính, cúng dường vị tỳ-khưu ấy. Tại sao vậy? Vì họ được thấy và nghe về các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện của tôn giả ấy đã được đoạn trừ. Giống như, này hiền giả, cái bát mà được mang từ chợ hay nhà của thợ rèn về, được thanh tịnh và trong sạch. Các chủ nhân có thể đặt cơm của gạo Sāli mà đã được tách các hạt đen ra, các loại súp, và thức ăn vào cái bát ấy, đậy lại bằng cái bát khác, và đi vào chợ. Dân chúng có thể thấy cái bát ấy và bảo rằng: ‘Ôi, cái gì mà được bạn mang theo trông có vẻ đẹp thế?’ Rồi có thể cầm cái bát lên, mở nắp ra, và nhìn vào. Đối với người ấy, do nhìn thấy vậy nên trạng thái hài lòng, không gớm ghiếc, không kinh tởm có thể khởi lên; đối với những người đã no còn muốn ăn, huống chi là đối với những người đói. Cũng vậy, này hiền giả, đối với vị tỳ-khưu nào, các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện được thấy và nghe là đã được đoạn trừ, cho dù vị ấy là người sống cận làng, người nhận lời mời thỉnh, và người mặc y do gia chủ cúng, thì các bạn đồng tu đều quý mến, tôn trọng, cung kính, cúng dường vị tỳ-khưu ấy. Tại sao vậy? Vì họ được thấy và nghe về các khía cạnh mong muốn ác và bất thiện của tôn giả ấy đã được đoạn trừ.)
63. Evaṃ vutte, āyasmā mahāmoggallāno āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘upamā maṃ, āvuso sāriputta, paṭibhātī’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, āvuso moggallānā’’ti. ‘‘Ekamidāhaṃ, āvuso, samayaṃ rājagahe viharāmi giribbaje. Atha khvāhaṃ, āvuso, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisiṃ. Tena kho pana samayena samīti yānakāraputto rathassa nemiṃ tacchati. Tamenaṃ paṇḍuputto ājīvako purāṇayānakāraputto paccupaṭṭhito hoti. Atha kho, āvuso, paṇḍuputtassa ājīvakassa purāṇayānakāraputtassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘aho vatāyaṃ samīti yānakāraputto imissā nemiyā imañca vaṅkaṃ imañca jimhaṃ imañca dosaṃ taccheyya, evāyaṃ nemi apagatavaṅkā apagatajimhā apagatadosā suddhā assa [suddhāssa (sī. pī.), suddhā (ka.)]sāre patiṭṭhitā’ti . Yathā yathā kho, āvuso, paṇḍuputtassa ājīvakassa purāṇayānakāraputtassa cetaso parivitakko hoti, tathā tathā samīti yānakāraputto tassā nemiyā tañca vaṅkaṃ tañca jimhaṃ tañca dosaṃ tacchati. Atha kho, āvuso, paṇḍuputto ājīvako purāṇayānakāraputto attamano attamanavācaṃ nicchāresi – ‘hadayā hadayaṃ maññe aññāya tacchatī’ti.
(Khi được nói như vậy, tôn giả Mahāmogallāna đã nói điều này với tôn giả Sāriputta – ‘Này hiền giả Sāriputta, một ví dụ khởi lên cho tôi’. ‘Vậy hãy nói lên, hiền giả Moggallāna’. ‘Này hiền giả, một thời tôi sống tại Giribaja. Rồi, này hiền giả, vào buổi sáng, tôi đã đắp y, cầm lấy y và bát, và đi vào thành Rājagaha để khất thực. Lúc bấy giờ, Samīti, con trai của người đóng xe, đang đẽo một niềng/vành xe. Loã thể sư Paṇḍuputta, con trai của một gia đình đóng xe trước đây, đã đến gần và đứng đó. Rồi, này hiền giả, ý nghĩ như vầy đã khởi lên cho loã thể sư Paṇḍuputta, con trai của một gia đình đóng xe trước đây – ‘Ôi, mong Samīti, con trai của người đóng xe, hãy đẽo (chỗ) bị cong, bị xoắn, và bị lỗi này của niềng xe này, (như vậy) niềng xe không còn bị cong, không còn bị xoắn, không còn bị lỗi, và được đặt ở giữa trục chính.’ Này hiền giả, ý nghĩ nào đã khởi lên cho loã thể sư Paṇḍuputta, con trai của một gia đình đóng xe trước đây, thì Samīti, con trai của người đóng xe, đẽo (chỗ) bị cong, bị xoắn, và bị lỗi ấy của niềng xe đó như vậy. Rồi, này hiền giả, loã thể sư Paṇḍuputta, con trai của một gia đình đóng xe trước đây, có hoan hỷ và thốt lên lời nói hoan hỷ rằng: ‘Dường như (người này) đẽo (niềng xe) khi đã biết được tâm (của ta) bằng tâm (của mình).’)
‘‘Evameva kho, āvuso, ye te puggalā assaddhā, jīvikatthā na saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, saṭhā māyāvino ketabino [keṭubhino (bahūsu)] uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā, indriyesu aguttadvārā, bhojane amattaññuno, jāgariyaṃ ananuyuttā, sāmaññe anapekkhavanto, sikkhāya na tibbagāravā, bāhulikā sāthalikā, okkamane pubbaṅgamā, paviveke nikkhittadhurā, kusītā hīnavīriyā muṭṭhassatī asampajānā asamāhitā vibbhantacittā duppaññā eḷamūgā, tesaṃ āyasmā sāriputto iminā dhammapariyāyena hadayā hadayaṃ maññe aññāya tacchati.
(Cũng vậy, này hiền giả, những người mà không có đức tin, đã xuất gia sống đời độc cư không phải vì đức tin mà vì nuôi mạng, là những kẻ gian dối, lừa đảo, lừa đảo thành thạo, dao động, kiêu ngạo, hay thay đổi, (có lời) thô tục, có lời nói phóng túng, không có cảnh giác trong các giác quan, không có tiết độ/chừng mực trong sự ăn uống, không có tỉnh thức, không có tha thiết trong sa-môn pháp, không có tôn trọng trong các học giới, sống sung túc, phóng túng, được dẫn đầu trong đoạ xứ, bỏ rơi trách nhiệm viễn ly, biếng nhác, kém tinh tấn, thất niệm/lơ đễnh, không thận trọng/tỉnh giác, không định tĩnh, có tâm lang thang, thiểu trí, đần độn; tôn giả Sāriputta dường như uốn nắn (người khác) bằng pháp thoại này, sau khi đã biết được tâm (của họ) bằng tâm (của mình).)
‘‘Ye pana te kulaputtā saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, asaṭhā amāyāvino aketabino anuddhatā anunnaḷā acapalā amukharā avikiṇṇavācā, indriyesu guttadvārā, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā, sāmaññe apekkhavanto, sikkhāya tibbagāravā, na bāhulikā na sāthalikā, okkamane nikkhittadhurā, paviveke pubbaṅgamā, āraddhavīriyā pahitattā upaṭṭhitassatī sampajānā samāhitā ekaggacittā paññavanto aneḷamūgā, te āyasmato sāriputtassa imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā pivanti maññe, ghasanti maññe vacasā ceva manasā ca – ‘sādhu vata, bho, sabrahmacārī akusalā vuṭṭhāpetvā kusale patiṭṭhāpetī’ti. Seyyathāpi, āvuso, itthī vā puriso vā daharo yuvā maṇḍanakajātiko sīsaṃnhāto uppalamālaṃ vā vassikamālaṃ vā atimuttakamālaṃ [adhimuttakamālaṃ (syā.)] vā labhitvā ubhohi hatthehi paṭiggahetvā uttamaṅge sirasmiṃ patiṭṭhapeyya, evameva kho, āvuso, ye te kulaputtā saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, asaṭhā amāyāvino aketabino anuddhatā anunnaḷā acapalā amukharā avikiṇṇavācā, indriyesu guttadvārā, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā, sāmaññe apekkhavanto, sikkhāya tibbagāravā, na bāhulikā na sāthalikā, okkamane nikkhittadhurā, paviveke pubbaṅgamā, āraddhavīriyā pahitattā upaṭṭhitassatī sampajānā samāhitā ekaggacittā paññavanto aneḷamūgā, te āyasmato sāriputtassa imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā pivanti maññe, ghasanti maññe vacasā ceva manasā ca – ‘sādhu vata, bho, sabrahmacārī akusalā vuṭṭhāpetvā kusale patiṭṭhāpetī’ti. Itiha te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ samanumodiṃsū’’ti.
(Còn các thiện gia nam tử nào mà đã xuất gia sống đời độc cư vì đức tin, là những người không gian dối, không lừa đảo, không lừa đảo thành thạo, không dao động, không kiêu ngạo, kiên định, không có (lời) thô tục, không có lời nói phóng túng, có cảnh giác trong các giác quan, có tiết độ/chừng mực trong sự ăn uống, có tỉnh thức, có tha thiết trong sa-môn pháp, có tôn trọng trong các học giới, không có sống sung túc, không có phóng túng, không có dẫn đầu trong đoạ xứ, không có bỏ rơi trách nhiệm viễn ly, có quyết cần, có kiên quyết, có niệm được an trú, có tỉnh giác, có chú tâm, có tâm an tĩnh, có trí, không có đần độn; sau khi nghe pháp thoại này của tôn giả Sāriputta, dường như họ đang uống với lời nói (khi đang thốt ra lời vui mừng) và đang nếm với tâm ý (khi đang hoan hỉ) – ‘Tốt đẹp thay, này hiền giả, (hiền giả) đã khiến cho các bạn đồng tu xua tan khỏi bất thiện và đã an trú vào thiện pháp’. Cũng giống như, này hiền giả, thanh nữ hoặc thanh nam, còn niên thiếu, ưa thích trang điểm, có thể tắm, nhận được vòng hoa súng, vòng hoa nhài, vòng hoa Atimuttaka, cầm lấy chúng bằng hai, rồi đặt lên đầu. Cũng vậy, này hiền giả, các thiện gia nam tử nào mà đã xuất gia sống đời độc cư vì đức tin, là những người không gian dối, không lừa đảo, không lừa đảo thành thạo, không dao động, không kiêu ngạo, kiên định, không có (lời) thô tục, không có lời nói phóng túng, có cảnh giác trong các giác quan, có tiết độ/chừng mực trong sự ăn uống, có tỉnh thức, có tha thiết trong sa-môn pháp, có tôn trọng trong các học giới, không có sống sung túc, không có phóng túng, không có dẫn đầu trong đoạ xứ, không có bỏ rơi trách nhiệm viễn ly, có quyết cần, có kiên quyết, có niệm được an trú, có tỉnh giác, có chú tâm, có tâm an tĩnh, có trí, không có đần độn; sau khi nghe pháp thoại này của tôn giả Sāriputta, dường như họ đang uống với lời nói (khi đang thốt ra lời vui mừng) và đang nếm với tâm ý (khi đang hoan hỉ) – ‘Thật tốt thay, này hiền giả, (hiền giả) đã khiến cho các bạn đồng tu xua tan khỏi bất thiện và đã an trú vào thiện pháp’. Như vậy, ở đây, hai vị đại Thánh nhân đã đồng hoan hỉ lẫn nhau về lời thiện thuyết ấy.
Anaṅgaṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ pañcamaṃ.
(Dứt Kinh thứ năm ‘Vô uế’).
Ngữ vựng:
- upamā (nut): ví dụ, sánh dụ
- paṭibhāti (paṭi+√bhā+a+ti): xuất hiện, hiện lộ, khởi lên trong tâm
- pubbaṇha (nt): buổi sáng
- nivāseti (ngnh của nivasati): tự mặc, mặc vào
- ādāya (bbqkpt của ādāti): sau khi lấy/cầm
- piṇḍāya (tc, si của piṇḍa): để khất thực
- pavisati (pa+√vis+a+ti): đi vào, vào trong
- yānakāraputta = yāna (trut) xe ngựa/cộ + kāra (nt): làm, tạo tác + putta
- ratha (nt): xe ngựa
- nemi (nut): vành/niềng xe
- tacchati (√tacch+a+ti): làm, chế tác, đẽo
- ājīvaka (nt): khổ hạnh/loã thể sư
- purāṇa (tt): trước, xưa, cổ
- paccupaṭṭhita (qkpt của paccupaṭṭhāti): được hiện lộ, xảy ra
- parivitakka (nt): ý nghĩ, sự lưu tâm/suy ngẫm
- udapādi (bđk của uppajjati): đã khởi/sanh lên
- vaṅka (tt): bị uốn cong
- jimha (tt): bị xoắn/khúc khuỷu
- dosa (tt): có khuyết điểm, bị lỗi
- suddha (qkpt của sujjhati): sạch sẽ, cân đối, đẹp
- sāre patiṭṭhita (thng): được đặt ở trọng tâm/trục chính
- attamana (tt): vui mừng, hài lòng
- vācā (nut): lời/lối nói
- nicchāreti (ngnh của niccharati): khiến cho phát/nói ra
- hadaya (trut): tim, tâm ý
- aññāya (bbqkpt của ājānāti): sau khi biết
- assaddhā = na + saddhā (nut): đức tin, sự tín nhiệm
- jīvikattha = jīvikā (nut) đời/mạng sống + attha (trut, xxc) vì, để
- saṭha (tt): xảo trá, gian dối
- māyāvin (tt): lừa đảo, dối trá
- keṭubhin (tt): rất lừa đảo/dối trá, lừa đảo thành thạo
- uddhata (qkpt của uddharati): bối rối, dao động, bất cân xứng
- unnaḷa (tt): kiêu ngạo, ngạo mạn
- capala (tt): rung động, không vững, di chuyển tới lui
- mukhara (tt): ba hoa; tục tĩu, thô lỗ
- vikiṇṇavāca (tt): thuộc lời nói phóng túng
- gutta (qkpt của gopeti): thận trọng, ý tứ, cảnh giác, được hộ trì
- mattaññū (tt): vừa phải, có mức độ, tiết độ
- jāgariya (trut): sự sáng suốt/tỉnh thức
- anuyutta (qktp của anuyuñjati): đi/kèm theo
- sāmañña (trut): sa-môn tánh, phẩm vị sa-môn
- apekkhavant (tt): mong mỏi, tha thiết, khao khát
- sikkhā (nut): sự học tập/tự huấn; kỷ luật, học giới
- tibbagārava = tibba (tt) dày đặc, nặng + gārava (nt) sự tôn kính/trọng
- bāhulika (tt): sống một cách đầy đủ/sung túc
- sāthalika (tt): lỏng lẻo, không nghiêm, phóng túng
- okkamana (trut): sự đi vào/dẫn đến/đạt đến
- pubbaṅgama (tt): được dẫn đầu
- paviveka (nt): sự ẩn cư/viễn ly
- nikkhittadhura = nikkhitta (qkpt của nikkhipati) đặt xuống, bỏ rơi + dhura (nt, trut) gánh nặng, phận sự, trách nhiệm
- kusīta (tt): biếng nhác, thụ động
- hīnavīriya = hīna (tt) yếu, kém + vīriya (trut) sự cố gắng/tinh tấn, nghị lực
- muṭṭhassati (tt): lơ đểnh, cẩu thả, thất niệm
- sampajāna (tt): lưu tâm, chú ý, thận trọng, tỉnh giác
- samāhita (qkpt của samādahati): định tĩnh, vững chắc, ổn định
- vibbhanta (qkpt của vibbhamati): lang thang, lạc, dong ruỗi
- duppañña (tt): dại dột, khờ khạo, thiểu trí
- eḷamūga (tt): ngu si, đần độn
- pahitatta = pahita (qkpt của pahiṇāti) đã gởi/cho, kiên quyết + ta
- upaṭṭhitassati = upaṭṭhita (qkpt của upaṭṭhahati, upatiṭṭhāti) đã xuất hiện/đến, hiện hữu + sati
- ekagga (tt): điềm tĩnh, yên lặng
- pivati (√pā+a+ti): uống
- ghasati (√ghas+a+ti): ăn, thưởng thức
- vuṭṭhāpeti (ngnh của vuṭṭhahati): đánh thức, khuấy động, xua tan
- patiṭṭhāpeti (ngnh của patiṭṭhahati): sắp đặt, thiết lập, an trú
- itthi (nut): nữ nhân, phụ nữ
- dahara (tt): trẻ, nhỏ
- yuva (nt): thanh niên
- maṇḍanakajātiko = maṇḍanaka (trut) sự trang điểm/sức/trí + jātika (tt) thích
- sīsaṃnhāta = sīsa + nhāta (qkpt của nahāyati) sau khi tắm
- uppalamālā = uppala (trut) hoa súng + mālā (nut) vòng hoa
- vassikā (nut): hoa nhài
- uttamaṅga (trut): phần quan trọng nhất, cái đầu
- nāga (nt): anh hùng, vị Thánh
- aññamañña (tt): lẫn nhau
* Bản kinh Pāḷi trích từ bộ Majjhimanikāya >> Suttapiṭaka >> Tipiṭaka (Mūla), nguồn Tipitaka.org.
* Bản dịch tiếng Việt và videos trích từ lớp học Đọc Hiểu Trung Bộ Kinh Pāḷi do Sư Thiện Hảo giảng dạy.