Catupārisuddhisīla Tứ Thanh Tịnh Giới
Tứ thanh tịnh giới (catupārisuddhisīla) là: giới pātimokkha (là biệt biệt giải thoát, giữ được một giới thì thoát khỏi một tội) (pātimokkha saṃvarasīla); giới thu thúc lục căn (thanh tịnh) (indriya saṃvarasīla); giới nuôi mạng chơn chánh (trong sạch) (ajīva pārisuddhisīla); giới quán tưởng thanh tịnh trong khi thọ dụng bốn món vật dụng (paccaya sannissitasīla).
Ðây xin giảng giải lần lượt theo thứ tự, để cho bậc xuất gia nghiên cứu và học hỏi cho được dễ dàng.
Trước hết giải về giới bổn pātimokkha luôn cả cách làm lễ phát lộ (uposatha) của chư tăng trong nửa tháng một lần để đọc lại và nhắc nhở 227 điều học của mình đã thọ trì.
Những việc phải làm trước khi đọc giới bổn (Pubbakaraṇa – Pubbakicca).
Phải có hai vị tỳ khưu rành mạch cách làm lễ phát lộ vấn đáp với nhau giữa chư tăng (từ bốn vị trở lên luôn cả hai vị vấn đáp) như thế này:
– Vị vấn đọc: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa – Tôi xin đem hết lòng thành kính làm lễ đến đức Bhagavā, Ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được đắc quả Chánh Biến Tri (Tam diệu tam Bồ đề). Rồi đọc trình chư tăng đặng hỏi luật vị khác như vầy: Suṇātu me bhante1 saṅgho, yadi saṅghassa Pattakallaṃ, ahaṃ āyasmantaṃ (itthannāmaṃ)2 vinayaṃ Pucchayyaṃ – Bạch Đại đức tăng, xin chư tăng nghe tôi, nếu tăng sự này hợp thời thì tôi xin hỏi luật vị tỳ khưu (tên…………….. này).
Kế vị đáp đọc: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần) (nghĩa như trên). Rồi đọc trình tăng để trả lời cho vị kia như vầy: Suṇātu me bhante3 saṅgho, yadi saṅghassa pattakallam, ahaṃ āyasmantam (itthannāmena)4 vinayaṃ puṭṭho (vissajjeyyaṃ) – Bạch Đại đức tăng, xin chư tăng nghe tôi, nếu tăng sự này hợp thời thì tôi xin trả lời luật cho vị tỳ khưu (tên……..)
Kế đó người hỏi cứ hỏi tiếp:
Vấn: Sammajjanī padīpoca, udakaṃ āsanena ca upothassa etāni pubbakaraṇanti vuccati. Ukāsa sammajjanī? – Sự quét chùa, đốt đèn, múc nước để sẵn, trải chỗ ngồi, hết thảy bốn điều này gọi là việc phải làm trước khi làm lễ phát lộ. Bạch ngài, thế nào gọi là việc phải quét sạch?
Đáp: Sammajjanakaranañca – Sự quét sạch ‘trong chỗ làm lễ này vậy’.
Vấn: Padīpo ca? – Sự đốt đèn?
Đáp: Padīpa ujjalanañca (idāni suriyā lokassa natthitāya padīpa-kiccaṃ atthi) – Bây giờ không có mặt trời nên phải đốt đèn (là sự đốt đèn cho sáng ‘trong chỗ này’)
Vấn: Udakaṃ āsanena ca? – Nước và chỗ ngồi ‘thế nào’?
Đáp: Āsanena saha pānīya paribhojanīya udakaṭṭhapanañca – Là sự múc nước uống, nước xài để sẵn và sự trải chỗ ngồi.
Vấn: Upothassa etāni bubbakaraṇanti vuccati? – Tất cả phận sự này sao gọi là việc phải làm của lễ phát lộ?
Đáp: Etāni cattāri vattāni sammajjanakaranādīni saṅgha sannipātato pathamaṃ kattabbattā uposathassa uposathakammassa, pubbakarananti vuccati, pubbakaraṇānīti akkātāni – Bốn phận sự này, nhất là phải quét sạch là việc phải làm trước, vì trước khi chư tăng hội họp để làm lễ phát lộ thì phải làm cho xong, nên gọi là việc phải làm trước của sự làm lễ phát lộ.
Vấn: Chandapārisuddhi utukkhānaṃ bhikkhu gaṇanā ca ovādo uposathassa etāni pubbakiccanti vuccati. Chanda pārisuddhi? – Các việc làm như, đem sự ưng thuận, tỏ sự trong sạch, sự kể thời tiết, sự đếm số tăng hội, chỉ dạy cho tỳ khưu ni, đều gọi là phận sự phải làm trước của lễ phát lộ. Vậy chớ thế nào gọi là sự đem sự thỏa thuận và tỏ sự trong sạch?
Đáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ chandapārisuddhi āharaṇañca (idha natthi) – Cách đem sự thỏa thuận và sự trong sạch của các vị tỳ khưu cần phải đem đó (nơi đây không cần).
Vấn: Utukkhānaṃ? – Sự kể mùa tiết?
Đáp: Hemantādīnaṃ tiṇṇaṃ utūnaṃ ettakam atikkantaṃ, etakkaṃ avasitthanti evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnīdha pana sāsane hemantagiṃhavassānānaṃ vasena tīṇi honti (ayaṃ hemanta utu, asmiṃ utumhi attha uposathā, iminā pakkhena ekouposatho sampatto, eko uposatho atikkanto, eha uposāthā avasitthā1 – Sự kể mùa tiết là: theo Phật giáo một năm có ba mùa là: mùa lạnh, mùa nóng (nắng) và mùa mưa, trong ngày làm lễ phát lộ ấy nhằm mùa nào, mùa ấy có mấy kỳ lễ phát lộ, đã qua hết bao nhiêu, hiện tại và sẽ còn mấy kỳ nữa phải khai rõ (như đây là mùa lạnh, trong mùa này có tám kỳ lễ phát lộ, một kỳ hiện đương làm, một kỳ đã qua rồi, còn sáu kỳ nữa sẽ tới).
Vấn: Bhikkhugaṇanā ca? – Sự đếm số tăng hội có bao nhiêu?
Đáp: Imasmin uposathagge, sannipatitānaṃ bhikkhūnaṃ gaṇanā, (…….) bhikkhu honti – Trong chỗ làm lễ phát lộ đây, số chư tăng hội họp được (……..) vị.
‒ Vấn: Ovādo? – Sự chỉ dạy cho tỳ khưu ni thế nào?
Đáp: Bhikkhuninaṃ ovādo dātabbo (idānipna tāsaṃ natthitāya, so ca ovādo idha natthi) – Vị tỳ khưu phải chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ni (bây giờ sự chỉ dạy ấy không còn nữa, vì không còn tỳ khưu ni).
Vấn: Uposathassa etāni pubbakiccanti vuccati? – Các việc này sao gọi là phận sự phải làm trước lễ phát lộ?
Đáp: Etāni pañca kammāni chandāharaṇadīni patimokkh’uddesato paṭhamaṃ kattabbattā, uposathassa uposathakammassa pubbakiccanti vuccati, pubbakiccānīti akkhatāni – Hết thảy năm công việc, nhất là đem sự trong sạch, gọi là phận sự phải làm trước, vì trước khi chư tăng làm tăng sự là đọc giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, các phận sự ấy phải làm cho xong.
Vấn: Uposatho yāvatikā ca bhikkhū kammappāttā sabhāg’āpattiyo ca na vijjanti, vajjanūya ca puggalā tasmim na honti, pattakallanti vuccati. Uposatho? – Bốn điều nhất định là: ngày làm lễ phát lộ, bao nhiêu vị tỳ khưu hội họp để làm lễ ấy không có phạm chung một tội, trong tăng sự ấy không có người phải xa lánh, như thế thì cuộc lễ phát lộ hợp thời nên làm, vậy chớ ngày lễ phát lộ này thế nào?
Đáp: Tīsu uposatha divasesu, cātuddasīpaṇṇarasī sāmaggīsu, ajj’uposatho (paṇṇaraso) – Ngày làm lễ phát lộ có ba là ngày rằm, ngày 14 và ngày 29 của tháng thiếu, và ngày chư tăng làm lễ hòa hợp như ngày lễ hôm nay thuộc ngày rằm.
Vấn: Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā? – Vậy chớ có mấy vị tỳ khưu mới nên làm lễ phát lộ?
Đáp: Yattakā bhikkhū tassa uposatha kammassa pattāyuttā anurūpā, sabbantimena paricchedena cattāro bhikkhū pakatattā saṅghena anukkhittā te ca kho hatthapāsam avijjāhitvā ekasīmāyaṃ thitā – Tất cả các vị tỳ khưu bao nhiêu cũng có thể làm lễ phát lộ được, nhưng ít nhất là bốn vị trong sạch, không bị chư tăng phạt (ngưng chức) đều ngồi gần sát nhau trong một sīmā.
Vấn: Sabbāg’āpattiyo ca na vijjanti? – Còn về sự phạm đồng một tội thế nào?
Đáp: Vikālabhojan’ ādivatthu sabhāg’ āpattiyo ca na vijjanti – Sự phạm đồng một tội do một việc làm, nhất là ăn sái giờ, không có.
Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃna honti – Người mà phải tránh xa trong khi làm lễ phát lộ là thế nào?
Đáp: Gahatthapaṇḍak’ādayo eka vīsati vajjanīyapuggalā, hatthapāsāto bahikaraṇa vasena vajjetabbā, tasmiṃna honti – Người phải tránh xa có 21 hạng, nhất là người thế và người lại cái, không có ngồi gần sát với chư tăng trong khi làm lễ phát lộ đâu.
Vấn: Pattakallanti vuccati? – Thế nào gọi là lúc nên làm lễ phát lộ?
Đáp: Saṅghassa uposathakammaṃ imehi catūhi lakkhaṇchi saṅgahitaṃ, pattakallanti vuccati, pattakālavantanti akkhātaṃ – Sự nhất định trong bốn điều này gọi là lúc nên làm lễ phát lộ của chư tăng vậy, như thế là thì giờ nên làm.
Hỏi xong vị tỳ khưu vấn luật ấy nên đọc thỉnh như vầy: Pubbakaraṇa pabbakiccāni samāpetvā, desitāpattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā, pātimokkhaṃ uddisituṃ ārādhanaṃ karomi – Theo sự bằng lòng của chư tăng, vì đã làm các việc và phận sự trước khi làm lễ, đã sám hối tội lỗi rồi, và đều bằng lòng ưng thuận với nhau, vậy tôi xin thỉnh ngài đọc giới bổn.