TRƯỞNG LÃO KỆ

PHẨM THỨ NĂM

161.

  1. “Ôi chư Phật! Ôi các Pháp (Giải Thoát)! Ôi các sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Với Ngài, vị đệ tử sẽ chứng ngộ Giáo Pháp như thế ấy.
  2. Trải qua nhiều kiếp không thể đếm được, họ đã tự thân chứng đắc. Đối với các vị ấy, đây là lần cuối cùng, đây là xác thân sau chót có sự luân hồi sanh tử, giờ đây không còn tái sanh nữa.”

Đại đức trưởng lão Kumārakassapa đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kumārakassapa.  

162.

  1. “Hiển nhiên, vị tỳ khưu trẻ tuổi, nỗ lực theo lời dạy của đức Phật, là người tỉnh thức giữa những kẻ ngủ say; mạng sống của vị ấy không phải rỗng không.
  2. Bởi vậy, bậc thông minh, trong khi ghi nhớ lời dạy của chư Phật, nên ra sức về đức tin, về giới, về niềm hoan hỷ, và về việc nhận thức Giáo Pháp.”

Đại đức trưởng lão Dhammapāla đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Dhammapāla.  

163.

  1. “Các giác quan của vị nào đã đi đến sự yên lặng, giống như những con ngựa đã khéo được huấn luyện bởi người đánh xe, vị ấy có ngã mạn đã được dứt bỏ, không còn lậu hoặc, ngay cả chư Thiên cũng yêu mến vị có đức tính như thế ấy.
  2. Các giác quan của tôi đã đi đến sự yên lặng, giống như những con ngựa đã khéo được huấn luyện bởi người đánh xe, tôi có ngã mạn đã được dứt bỏ, không còn lậu hoặc, ngay cả chư Thiên cũng yêu mến tôi, là người có đức tính như thế ấy.”

Đại đức trưởng lão Brahmāli đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Brahmāli.

164.

  1. “Này Mogharāja, này kẻ có xác thân xấu xa, này kẻ có tâm tính hiền thiện, ngươi thường xuyên được định tĩnh. Trong mùa đông, có những đêm vào thời điểm lạnh lẽo, ngươi là vị tỳ khưu, ngươi sẽ làm thế nào?
  2. ‘Toàn thể những người dân xứ Magadha có thóc lúa được thành tựu,’ là điều con đã được nghe. Được che phủ bởi rơm rạ, con có thể nằm xuống, giống như những người khác có cuộc sống thoải mái.”

Đại đức trưởng lão Mogharāja đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mogharāja.  

165.

  1. “Chớ nâng mình lên, và chớ gây khó dễ những người khác, chớ nên bôi nhọ, chớ nên nhục mạ vị đã đi đến bờ kia, và chớ nên nói lời ca ngợi bản thân ở giữa các đám đông, không tự kiêu, có lời nói chừng mực, là người có sự hành trì tốt đẹp.
  2. Với vị có sự nhìn thấy ý nghĩa vô cùng vi tế, vi diệu, là vị thiện xảo về sự suy nghĩ, có cách cư xử khiêm tốn, có giới được rèn luyện và tăng trưởng, với vị ấy Niết Bàn không hẳn là điều khó đạt được.” [7]

Đại đức trưởng lão Visākhapañcālaputta đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Visākhapañcālaputta.  

166.

  1. “Những con chim công kêu réo, có mồng xinh, có lông đuôi xinh, có cổ màu xanh xinh xinh, có khuôn mặt đẹp, có những tiếng kêu êm dịu. Và thêm nữa, đại địa cầu này có thảm cỏ đẹp có nước khéo tưới ướt đẫm, bầu trời có những áng mây xinh xắn.
  2. Với dáng vóc vô cùng thích hợp của người có tâm ý tốt đẹp, ngươi hãy suy nghiệm về điều ấy. Lành thay sự ra đi tốt đẹp ở Giáo Pháp của đức Phật Toàn Giác! Ngươi hãy chạm đến vị thế vô cùng trong sạch và tinh khiết, tế nhị, rất khó nhìn thấy, tối thượng, vĩnh cửu ấy.”

Đại đức trưởng lão Cūḷaka đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Cūḷaka.

167.

  1. “Trong lúc vui thú, tâm đi đến nơi đang dựng đứng các cọc nhọn. Nơi nào là cọc nhọn là chỗ hành quyết, thì ngươi tiến đến chính nơi ấy.
  2. Ta gọi ngươi là tâm tội lỗi, ta gọi ngươi là tâm bội bạc, đấng Đạo Sư là bậc khó gặp được, nay ngươi đã được gặp; ngươi chớ xúi giục ta những việc không phải là mục đích.”

Đại đức trưởng lão Anūpama đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Anūpama.

168.

  1. “Trong khi luân hồi trên con đường dài xa thẳm, tôi đã lăn lóc qua nhiều cảnh giới tái sanh, trong khi không nhìn thấy các Chân Lý cao thượng, là kẻ phàm phu, bị mù lòa.
  2. Tôi đây không bị xao lãng, các sự luân hồi của tôi đã bị phá hủy, tất cả các cảnh giới tái sanh đã được trừ tuyệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.”

Đại đức trưởng lão Vajjita đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Vajjita.

169.

  1. “Ở cội cây Assattha, mặc dầu đang phát triển, cũng có khoảng không gian màu xanh, có niệm tôi đã đạt được một suy tưởng hướng về đức Phật.
  2. Sự suy tưởng ấy tôi đã đạt được trước đây ba mươi mốt kiếp, do nhờ tác động của sự suy tưởng ấy, tôi đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”

Đại đức trưởng lão Sandhita đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sandhita.

Phẩm thứ năm.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

“Vị trưởng lão Kumārakassapa, vị Dhammapāla, và vị Brahmāli, vị Mogharājā và vị Visākha, vị Cūḷaka và vị Anūpama, vị Vajjita, vị trưởng lão Sandhita có sự mang đi phiền não luyến ái.”

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

“Có chín mươi tám câu kệ ở nhóm hai, bốn mươi chín vị trưởng lão là những vị thuyết giảng, là những vị rành rẽ về phương thức.”

Nhóm Hai được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app