TRƯỞNG LÃO KỆ

PHẨM THỨ NHÌ

11.

  1. “Vị tỳ khưu có nhiều hân hoan trong Giáo Pháp đã được đức Phật công bố, có thể chứng đắc trạng thái an tịnh, sự yên lặng của các pháp tạo tác, an lạc.”

Đại đức trưởng lão Cūḷavaccha đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Cūḷavaccha.

12.

  1. “Có năng lực về trí tuệ, đã thành tựu về giới và phận sự, được định tĩnh, thích thú về thiền, có niệm, trong khi thọ dụng vật thực theo nhu cầu, vị đã xa lìa luyến ái chờ đợi thời điểm ở nơi đây.”[1]

Đại đức trưởng lão Mahāvaccha đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mahāvaccha.  

13.

  1. “Màu sắc của bầu trời xanh, ưng ý, dòng suối trong sạch, có nước mát lạnh, những tảng núi đá ấy, được che kín bởi những con mối đỏ, khiến tôi thích thú.”

Đại đức trưởng lão Vanavaccha đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Vanavaccha.  

14.

  1. “Thầy tế độ đã nói với tôi rằng: ‘Này Sīvaka, chúng ta hãy đi khỏi nơi đây.’ Thân của tôi ngụ ở làng, tâm của tôi đã đi đến rừng. Mặc dầu là người đang nằm, tôi cũng đi; không có sự bám víu đối với những người đang nhận thức.”  

Vị sa-di của đại đức trưởng lão Vanavaccha đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của vị sa-di của trưởng lão Vanavaccha.  

15.

  1. “Nên cắt đứt năm (pháp), nên từ bỏ năm (pháp), và nên phát triển thêm nữa về năm (pháp), vị tỳ khưu đã vượt lên trên năm điều bám víu[2] được gọi là: ‘Vị đã vượt qua dòng nước lũ.’”

Đại đức trưởng lão Kuṇḍadhāna đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kuṇḍadhāna.  

16.

  1. “Cũng tựa như con bò giống tốt lành, có sừng, với việc kéo vòng quanh cái cày, di chuyển ít nhọc nhằn, tương tự như thế đối với tôi ngày và đêm trôi qua ít nhọc nhằn, khi sự an lạc không liên quan vật chất đã đạt được.”

Đại đức trưởng lão Bellaṭṭhisīsa đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Bellaṭṭhisīsa.

17.

  1. “Vào lúc buồn ngủ và có sự ăn nhiều, kẻ nằm ngủ có trạng thái nằm lăn qua lăn lại, tựa như con heo mập được nuôi bằng các loại hạt, kẻ ngu xuẩn còn tiếp tục đi đến bào thai nhiều lần nữa.”

Đại đức trưởng lão Dāsaka đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Dāsaka.  

18.

  1. “Đã là kẻ thừa tự của đức Phật, vị tỳ khưu trong khu rừng Bhesakalā đã tỏa khắp cả trái đất này với sự niệm tưởng về bộ xương. Tôi nghĩ rằng vị ấy sẽ dứt bỏ sự luyến ái ở các dục một cách rất mau lẹ.”

Đại đức trưởng lão Sigālapitā đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sigālapitā.  

19.

  1. “Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những người làm tên uốn thẳng cây tên, những người thợ mộc uốn nắn thanh gỗ, những vị có sự hành trì tốt đẹp huấn luyện bản thân.”[3]

Đại đức trưởng lão Kuṇḍala đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kuṇḍala.  

20.

  1. “Tôi không có sợ hãi về sự chết, không có ham muốn về sự sống, tôi sẽ buông bỏ thân xác của mình, có sự nhận biết rõ, có niệm.”

Đại đức trưởng lão Ajita đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Ajita.  

Phẩm thứ nhì.  

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY  

“Vị Cūḷavaccha, vị Mahāvaccha, vị Vanavaccha và vị Sīvaka, vị Kuṇḍadhāna và vị Belaṭṭhi, và thêm vào đó là vị Dāsaka, trưởng lão Sigālapitika, vị Kuṇḍala, và vị Ajita là mười.”

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app