TRƯỞNG LÃO NI KỆ

NHÓM BỐN

37.

  1. “Kassapa, người con trai, người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, là vị có sự biết được đời sống trong thời quá khứ, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục.
  1. Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự cạn kiệt của tái sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về Thắng Trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có ba Minh.
  1. Tương tự như thế ấy, Bhaddākāpilānī là vị ni có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết, mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.
  1. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Bhaddākāpilānī đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākāpilānī.

Nhóm Bốn được chấm dứt.

–ooOoo–

5. NHÓM NĂM

38.

  1. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đã được xuất gia, tôi đã không chứng đắc sự an tịnh của tâm cho dầu chỉ bằng thời gian của một khảy móng tay.
  1. Không đạt được sự an tịnh của ý, bị đắm nhiễm bởi sự luyến ái ở các dục, trong khi đưa hai cánh tay lên, khóc lóc, tôi đã đi vào trú xá.
  1. Tôi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy; vị ni ấy đối với tôi đã là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
  1. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đã ngồi xuống ở một góc. Tôi biết được đời sống trong thời quá khứ, Thiên nhãn đã được trong sạch.
  1. Trí biết được tâm của người khác, và nhĩ giới đã được trong sạch. Thần thông cũng đã được tôi chứng ngộ, sự cạn kiệt của các lậu hoặc đã được tôi đạt đến, sáu Thắng Trí đã được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”

Một trưởng lão ni nào đó đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó.

39.

  1. “Bị đắm say với màu da, dáng vóc, vẻ đẹp, và tiếng tăm, và kiêu kỳ với tuổi thanh xuân, tôi đã khinh khi những người đàn bà khác.
  1. Sau khi trang điểm thân này vô cùng sặc sỡ, khiến những kẻ ngu trầm trồ, tôi đã đứng ở cửa lớn của tiệm buôn hươngbán phấn, tựa như người thợ săn giăng ra bẫy mồi.
  1. Trong khi phô bày sự chưng diện, bộ phận kín được bộc lộ nhiều nơi, tôi đã làm nhiều trò ma mãnh trong khi cười giỡn với đám đông người.
  1. Hôm nay, tôi đây, sau khi đi khất thực, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, ngồi xuống ở gốc cây, có sự đạt được trạng thái vô tầm (nhị thiền).
  1. Tất cả các sự ràng buộc thuộc về cõi trời và thuộc về loài người đã được trừ tuyệt. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Vimalā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Vimalā.

 40.

  1. “Có sự tác ý không theo đúng đường lối, bị khổ sở vì sự luyến ái ở các dục, trước đây tôi đã tự kiêu, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm.
  1. Bị xâm nhập bởi các phiền não, có khuynh hướng nhận biết về nét đẹp (tịnh tướng), có sự chiều theo tác động của tâm luyến ái, tôi đã không đạt được sự bình lặng của tâm.
  1. Bị ốm o, vàng vọt, và xuống sắc, tôi đã sống bảy năm. Tôi đã không tìm thấy sự an lạc vào ban ngày hoặc ban đêm, vô cùng khổ sở.
  1. Do đó, tôi đã cầm lấy sợi dây thừng rồi đã đi vào bên trong khu rừng. Ở đây, việc treo lên (tự vẫn) đối với tôi là cao quý hơn việc tôi trở lại thực hành đời sống thấp kém (của người tại gia).
  1. Sau khi đã thực hiện cái thòng lọng chắc chắn, sau khi đã buộc ở cành cây, tôi đã quàng cái thòng lọng vào cổ, khi ấy tâm của tôi đã được giải thoát (khỏi các lậu hoặc).”

Trưởng lão ni Sīhā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sīhā.

 41.

  1. “‘Này Nandā, cô hãy nhìn thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hãy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi.[5]
  1. Thân này như thế nào thì xác kia như vậy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nó bốc mùi khó chịu, hôi thối, lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
  1. Trong khi xem xét xác thân này như thế, không biếng nhác, cả ngày lẫn đêm, từ đó, với trí tuệ của mình, sau khi đã phân thích thấu đáo, cô sẽ nhìn thấy.’
  1. Tôi đây, không bị xao lãng, trong lúc đang suy xét theo đúng đường lối, đã nhìn thấy thân này đúng theo bản thể, cả bên trong lẫn bên ngoài.
  1. Rồi tôi đã nhàm chán xác thân, và tôi đã không còn luyến ái ở nội phần. Không bị xao lãng, không còn bị ràng buộc, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Sundarīnandā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarīnandā.

42.

  1. “Tôi đã lễ bái ngọn lửa, mặt trăng, mặt trời, và chư Thiên. Sau khi đi đến các bến nước ở dòng sông, tôi đã lội xuống nước.
  1. Với sự thọ trì nhiều phận sự, tôi đã cạo một nửa đầu tóc, tôi sắp xếp việc nằm ở mặt đất, tôi đã không thọ dụng thức ăn vào ban đêm.
  1. Ưa thích việc trang sức và tô điểm, với các việc tắm rửa và thoa bóp, tôi đã hầu hạ thân xác này, bị khổ sở vì sự luyến ái ở các dục.
  1. Sau đó, khi đã đạt được niềm tin, tôi đã xuất gia sống đời không nhà, sau khi nhìn thấy xác thân đúng theo bản thể, sự luyến ái ở các dục đã được xóa sạch.
  1. Tất cả các hữu, các sự ước muốn, và các điều mong mỏi đã được trừ tuyệt. Không còn bị ràng buộc bởi tất cả các điều ràng buộc, tôi đã đạt được sự an tịnh của tâm.”

Trưởng lão ni Nanduttarā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Nanduttarā.

43.

  1. “Sau khi xuất gia vì lòng tin, rời nhà sống không nhà, tôi đã đi lang thang đó đây, năng nổ về lợi lộc và sự tôn vinh.
  1. Sau khi đã bỏ bê mục đích tối hậu, tôi đã đeo đuổi mục đích thấp kém. Sau khi đi đến khu rừng của các phiền não, tôi đã không thấu hiểu được mục đích của đời sống Sa-môn.
  1. Khi đã ngồi xuống ở trong trú xá nhỏ, tôi đây đã có sự chấn động. Tôi đã thực hành đường lối sái quấy, đã đi vào sự kiểm soát của tham ái.
  1. Mạng sống của tôi là ít ỏi. Già và bệnh dẫm đạp nó. Thân thể bị tan vỡ bởi sự già, tôi không còn thời gian để xao lãng.
  1. Trong khi xem xét đúng theo bản thể về sự sanh và diệt của các uẩn, với tâm đã được giải thoát, tôi đã đứng lên; lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”

Trưởng lão ni Mittākāḷi đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittākāḷi.

44.

  1. “Trong khi sống tại gia, tôi đã lắng nghe Pháp của vị tỳ khưu, tôi đã nhìn thấy pháp xa lìa luyến ái, Niết Bàn, vị thế Bất Hoại.
  1. Sau khi lìa bỏ con trai, con gái, tài sản, và lúa gạo, sau khi nhờ người cạo tóc, tôi đây đã xuất gia sống đời không nhà.
  1. Trong khi là cô ni tu tập sự, trong khi tu tập Đạo Lộ thẳng tắp, tôi đã dứt bỏ luyến ái và sân hận, luôn cả các lậu hoặc đồng sanh với chúng.
  1. Sau khi đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu ni, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây. Thiên nhãn đã được trong sạch, không vết nhơ, đã được tu tập tốt đẹp.
  1. Sau khi nhìn thấy các hành là vô ngã, được sanh lên do nhân, (có bản chất) bị tan rã, tôi đã dứt bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”

Trưởng lão ni Sakulā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Sakulā.

45.

  1. “Sau khi sanh ra mười người con trai ở sắc thân này, vì thế, bị yếu sức, già nua, tôi đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni.
  1. Vị ni ấy đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đã cạo tóc, và đã xuất gia.
  1. Trong khi tôi đây là cô ni tu tập sự, Thiên nhãn (của tôi) được trong sạch, tôi biết đời sống trước đây, nơi tôi đã sống trước đây.
  1. Và tôi tu tập về vô tướng, được chuyên nhất, khéo được định tĩnh. Liền khi đó, tôi đã được giải thoát, chứng được Niết Bàn, không còn chấp thủ.
  1. Năm uẩn đã được biết toàn diện, chúng tồn tại với gốc rễ đã được chặt đứt. Này bà già đáng thương, thật xấu hổ cho ngươi! Giờ đây không còn tái sanh nữa.”

Trưởng lão ni Soṇā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Soṇā.

46.

  1. “Trước đây, tôi đã đi lang thang, tóc được cạo, mang bùn đất, mặc một mảnh y phục, với sự suy nghĩ là có tội ở việc không tội, và với sự nhận thức là không tội ở việc có tội.
  1. Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, được tôn vinh bởi Hội Chúng tỳ khưu.
  1. Sau khi quỳ gối xuống, đảnh lễ, tôi đã (đứng) đối diện, chắp tay lại. Ngài đã nói với tôi rằng: ‘Này Bhaddā, hãy đến;’ việc ấy đã là sự tu lên bậc trên của tôi.[6]
  1. (Tôi đã) du hành qua (các xứ sở) Aṅga, Magadha, Vajjī, Kāsī, và Kosala. Trong năm mươi năm, tôi đã thọ dụng vật thực của các quốc độ, không có nợ nần.
  1. Quả thật, ông ta đã tạo được nhiều phước báu! Quả thật, nam cư sĩ này có trí tuệ! Ông ta đã bố thí y đến Bhaddā, vị ni đã được giải thoát khỏi các sự cột trói.”

Trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā.

47.

  1. “Trong khi cày thửa ruộng với những cái cày, trong khi gieo những hạt giống ở đất, trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.
  1. Được đầy đủ giới, là người thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, không biếng nhác, không loạn động, tại sao tôi không chứng đắc Niết Bàn?
  1. Sau khi rửa hai bàn chân, tôi chú ý ở những chỗ nước (đã được đổ xuống), và tôi đã nhìn thấy nước rửa chân từ đất cao đi đến chỗ thấp.
  1. Do đó, tôi đã khiến tâm được định, tựa như (người xa phu điều khiển) con ngựa hiền thiện thuần chủng. Sau đó, tôi đã cầm lấy cây đèn rồi đi vào trú xá.
  1. Sau khi xem xét chỗ nằm, tôi đã ngồi xuống chiếc giường nhỏ. Sau đó, tôi cầm lấy cây kim khều cái tim đèn. Sự giải thoát của tâm đã xảy ra, tựa như sự lụi tàn của cây đèn.”

Trưởng lão ni Paṭācārā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Paṭācārā.

48.

  1. “Sau khi cầm lấy những cái chày, những người thanh niên giã thóc. Trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên tìm kiếm tài sản.
  1. ‘Các cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi làm điều ấy thì không phải hối tiếc. Các cô hãy nhanh chóng rửa các bàn chân rồi hãy ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự bình lặng của tâm, các cô hãy thực hành lời dạy của đức Phật.’
  1. Sau khi lắng nghe lời nói, lời chỉ dạy của vị ni Paṭācārā ấy, (ba mươi) vị ni ấy đã nhanh chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự bình lặng của tâm, các cô đã thực hành lời dạy của đức Phật.
  1. Vào canh thứ nhất của đêm, họ đã nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, họ đã làm trong sạch Thiên nhãn. Vào canh cuối của đêm, họ đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).
  1. Sau khi đứng lên, họ đã (đi đến gặp và đã) đảnh lễ các bàn chân (của vị ni Paṭācārā và thưa rằng): ‘Các lời chỉ dạy của ni sư đã được thực hành. Chúng tôi sẽ tôn vinh và sẽ sống (với ni sư), tựa như chư Thiên cõi Ba Mươi đối với vị Trời Inda không bị đánh bại ở chiến trường. Chúng tôi có ba Minh, không còn lậu hoặc.’”

Các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng ba mươi vị đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của ba mươi vị tỳ khưu ni trưởng lão.

49.

  1. “Trước đây, tôi đã bị lâm cảnh bất hạnh, góa phụ và không con cái, không có các bạn bè thân quyến, tôi đã không đạt được thức ăn và y phục.
  1. Sau khi cầm lấy cái bình bát và cây gậy, trong khi xin ăn từ nhà này sang nhà khác, trong khi bị thiêu đốt bởi lạnh và nóng, tôi đã sống bảy năm.
  1. Về sau, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni có sự nhận được cơm ăn và nước uống, tôi đã đi đến gần và đã nói rằng: ‘Hãy cho tôi xuất gia sống đời không nhà.’
  1. Và vị ni Paṭācarā ấy, vì lòng bi mẫn, đã cho tôi xuất gia, sau đó đã giáo huấn và đã khuyến khích tôi về mục đích cao cả.
  1. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, tôi đã làm theo lời chỉ dạy. Lời giáo huấn của ni sư là không vô ích; tôi có ba Minh, không còn lậu hoặc.’”

Trưởng lão ni Candā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão ni Candā.

Nhóm Năm được chấm dứt.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO NI KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app