PĀRĀYANAVAGGO – PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA (tiếp theo)

Nguồn: Tam Tạng Pāli – Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS), Lời tiếng Việt (dạng văn xuôi): Tỳ khưu Indacanda; Lời tiếng Việt (dạng thơ): Hòa Thượng Thích Minh Châu.

 

6. UPASĪVAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UPASĪVA

(VII) Câu hỏi của thanh niên Upasiva

6-1. Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo) anissito no visahāmi tarituṃ ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.

6-1. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Thưa vị dòng Sakya, một mình con, không nương tựa (nơi nào), con không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng, được nương tựa vào nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”Upasiva:

1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.

6-2. Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā) natthīti nissāya tarassu oghaṃ kāme pahāya virato kathāhi taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.

6-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) trong khi xem xét về Vô Sở Hữu Xứ, có niệm, nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ ngươi hãy vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi hoặc, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái, đêm và ngày.”Thế Tôn:
1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: “không có gì “,
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn.

6-3. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo) ākiñcaññaṃ nissito hitva aññaṃ saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyi.

6-3. (Tôn giả Upasīva nói rằng:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác,[1] đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, phải chăng vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa?”

[1] Pháp (chứng đắc) khác: nói đến sáu loại chứng đắc thấp hơn (SnA. ii, 593-594), tức là sự chứng đắc bốn tầng thiền Sắc Giới và hai tầng thiền Không Vô Biên Xứ và Thức Vô Biên Xứ thuộc Vô Sắc Giới (ND).

Upasiva:
1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

6-4. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā) ākiñcaññaṃ nissito hitvamaññaṃ saññāvimokkhe paramedhimutto tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.

6-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, đã nương tựa vào Vô Sở Hữu Xứ sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc) khác, đã thiên về sự giải-thoát-do-tưởng cao nhất, vị ấy có thể trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa.”Thế Tôn:

1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

6-5. Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī (iccāyasmā upasīvo) yugampi vassānaṃ samantacakkhu tattheva so sītī siyā vimutto cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.

6-5. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi tiếp nữa, thậm chí một số năm, thưa bậc Toàn Nhãn, ngay tại chỗ ấy, vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, có phải thức của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”

Upasiva:
1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?

6-6. Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā) atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ evaṃ munī nāmakāyā vimutto atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.

6-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của làn gió, thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.Thế Tôn:

1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.

6-7. Atthaṃ gato so udavā so natthi (iccāyasmā upasīvo) udāhu ve sassatiyā arogo taṃ me munī sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.

6-7. (Tôn giả Upasīva nói rằng:) “Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy giải thích tường tận điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”Upasiva:

1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.

6-8. Atthaṃ gatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā) yena naṃ vajju taṃ tassa natthi sabbesu dhammesu samūhatesu samūhatā vādapathāpi sabbe ”ti.

6-8. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng. Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên hoàn toàn, ngay cả đường lối của lời nói cũng được bứng lên hoàn toàn.”Thế Tôn:

1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết.

7. NANDAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN NANDA

 (VIII) Các câu hỏi của thanh niên Nanda

7-1. Santi loke munayo (iccāyasmā nando) janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti udāhu ve jīvitenūpapannaṃ.

(Tôn giả Nanda nói rằng:) “‘Các bậc hiền trí hiện hữu ở thế gian,’ dân chúng nói như thế; theo ngài, điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là bậc hiền trí, hay là người đã thực sự thành tựu về lối sống?”Nanda:

1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?

7-2. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (nandāti bhagavā) munīdha nanda kusalā vadanti visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayo ’ti brūmi.

7-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) không phải do thấy, không phải do nghe, không phải do trí, mà các bậc thiện xảo ở nơi đây gọi là bậc hiền trí. Những người nào sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là các bậc hiền trí.”Thế Tôn:

1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.

7-3. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kacci su te bhagavā tattha yathā carantā atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

7-3. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, có phải những vị ấy, thưa đức Thế Tôn, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”  

Nanda:
1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.

7-4. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kiñcāpi te tattha yathā caranti nātariṃsu jātijaranti brūmi.

7-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’”  Thế Tôn:

1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.

7-5. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ.

7-5. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.Nan-da:
1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.

7-6. Te ce munī brūhi anoghatiṇṇe atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.  

7-6. Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
 

Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
Chúng không vượt bộc lưu,
Vậy ai có thể được,
Giữa thế giới Trời, Người,
Có thể vượt qua được,
Sanh và già, thưa Ngài,
Con xin hỏi Thế Tôn
Mong Ngài trả lời con.

7-7. Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) jātijarāya nivutā ’ti brūmi ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇā ’ti brūmi.

7-7. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”Thế Tôn:

1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.

7-8. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando) sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇā ’ti brūmī ”ti.

7-8. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Thưa ngài Gotama, con thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, con cũng nói rằng ‘những vị ấy đã vượt qua dòng lũ.’”Nanda:

1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu.

 Nandamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda.

8. HEMAKAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN HEMAKA

 (IX) Các câu hỏi của thanh niên Hemaka

8-1. Ye me pubbe vyākaṃsu (iccāyasmā hemako) huraṃ gotamasāsanā iccāsi iti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ nāhaṃ tattha abhiramiṃ.

8-1. (Tôn giả Hemaka nói rằng:) “Những người nào trước đây đã giải thích cho con khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy nghĩ, con không thích thú về điều ấy. 

Hemaka:
1084. Tôn giả He-ma-ka:
Những ai trong thời trước,
Ðã trả lời cho con,
Về lời dạy Cù-đàm,
Trước đã như thế nào,
Sau sẽ là như vậy,
Tất cả đều truyền thống,
Tất cả tăng suy tư.
1085. Ðây, con không hoan hỷ,

8-2. Tvaṃ ca me dhammamakkhāhi taṇhānigghātanaṃ muni yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

8-2. Và xin ngài hãy nói ra cho con về pháp diệt trừ tham ái, thưa bậc hiền trí; sau khi hiểu pháp ấy, con có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.

Ngài nói Pháp cho con,
Ôi mong bậc ẩn sĩ,
Nói Pháp đoạn khát ái,
Biết xong, sống chánh niệm,
Vượt ái trước ở đời.

8-3. Idha diṭṭhasutamuta – viññātesu piyarūpesu hemaka chandarāgavinodanaṃ nibbānapadamaccutaṃ.

8-3. “Ở đây, sự xua đi mong muốn và luyến ái ở các vật có vẻ đáng yêu đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận thức, này Hemaka, là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.  

Thế Tôn:
1086. He-ma-ka ở đây,
Ðối các Pháp khả ái,
Ðược nghe và được thấy,
Ðược cảm tưởng, nhận thức,
Tẩy sạch ước muốn tham,
Là Niết-bàn, bất tử.

8-4. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikan ”ti.

8-4. Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và những người ấy luôn luôn yên tịnh, họ đã vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”

1087. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại, đạt mát lạnh,
Vị ấy thường an tịnh,
Vượt chấp trước ở đời.

 Hemakamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka.

9. TODEYYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TODEYYA

 (X) Câu hỏi của thanh niên Todeyya

9-1. Yasmiṃ kāmā na vasanti (iccāyasmā todeyyo) taṇhā yassa na vijjati kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa kīdiso.

9-1. (Tôn giả Todeyya nói rằng:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”

Todeyya:
1088. Tôn giả Tô-đê-ya:
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Giải thoát của vị ấy,
Giải thoát như thế nào?

9-2. Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā) taṇhā yassa na vijjati kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokkho tassa nāparo.

9-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các nỗi nghi hoặc, đối với người ấy không có sự giải thoát nào khác nữa.”Thế Tôn:

1089. Ðây lời nói Thế Tôn:
Hỡi nãy Tô-đê-ya,
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc
Giải thoát của vị ấy
Không có gì là khác.

9-3. Nirāsaso so uda āsasāno (iccāyasmā todeyyo) paññāṇavā so uda paññakappī muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ taṃ me viyācikkha samantacakkhu.

9-3. “Vị ấy không còn mong ước, hay là (vị ấy) đang mong ước? Vị ấy có tuệ hay là có sự sắp đặt nhờ vào tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho con có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho con.” 

Todeyya:
1090. Vị sống không ước vọng
Hay sống có ước vọng,
Vị ấy có trí tuệ,
Hay tác thành trí tuệ,
Ôi kính bậc Biến nhãn,
Hãy trả lời con rõ,
Ðể con có thể biết,
Thế nào là ẩn sĩ,
Ôi kính bậc Thích tử.

9-4. Nirāsaso so na so āsasāno paññāṇavā so na ca paññakappī evampi todeyya muniṃ vijāna akiñcanaṃ kāmabhave asattan ”ti. 

9-4. “Vị ấy không còn mong ước, vị ấy không mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt nhờ vào tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không còn vướng bận, không bị dính mắc ở dục và hữu.” 

Thế Tôn:
1091. Vị sống không ước vọng,
Không có ước vọng nào,
Vị ấy có trí tuệ,
Không tác thành trí tuệ,
Như vậy, Tô-đê-ya,
Hãy biết bậc ẩn sĩ,
Không có sở hữu gì,
Không tham dính dục hữu.

 Todeyyamāṇavapucchā niṭṭhitā. 

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Todeyya.

 10. KAPPAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN KAPPA

 (XI) Câu hỏi của thanh niên Kappa

10-1. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (iccāyasmā kappo) oghe jāte mahabbhaye jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūhi mārisa tvaṃ ca me dīpamakkhāhi yathayidaṃ nāparaṃ siyā.

10-1. (Tôn giả Kappa nói rằng:) “Thưa ngài, xin ngài hãy nói về hòn đảo cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và tử, cho những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra. Và xin ngài hãy nói ra cho con về hòn đảo để cho cái (khổ) khác giống như cái (khổ) này không thể xảy ra.”Kappa:

1092. Tôn giả Káp-pa nói:
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Thưa Ngài hãy nói lên,
Hòn đảo cho những kẻ,
Bị già chết chinh phục,
Ngài nói con hòn đảo,
Ðể không có khổ khác,
Giống như đau khổ này
(Kinh Tập, chương V)

10-2. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhitaṃ (kappāti bhagavā) oghe jāte mahabbhaye jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūmi kappa te.

10-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kappa,) Ta sẽ nói với ngươi về hòn đảo cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và tử, cho những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, này Kappa.Thế Tôn:

1093. Thế Tôn nói Kap-pa,
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Ta nói Ông hòn đảo,
Cho những ai đang bị,
Già và chết chinh phục.

10-3. Akiñcanaṃ anādānaṃ etaṃ dīpaṃ anāparaṃ nibbānaṃ iti naṃ brūmi jarāmaccuparikkhayaṃ.

10-3. Hòn đảo này là không vướng bận, không nắm giữ, không có cái nào khác, Ta gọi cái ấy là ‘Niết Bàn,’ sự đoạn diệt hoàn toàn sanh và tử.

1094. Hòn đảo vô song này,
Không sở hữu, chấp trước,
Ta nói Ông Niết-bàn,
Già chết được đoạn diệt,

10-4. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā na te māravasānugā na te mārassa paddhagū ”ti.

10-4. Sau khi hiểu thông điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, những người ấy không đi theo quyền lực của Ma Vương, những người ấy không là nô bộc của Ma Vương.”

1095. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại đạt mát lạnh,
Không rơi vào ma lực,
Không tùy tùng theo ma.

 Kappamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa.

 11. JATUKAṆṆĪMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN JATUKAṆṆĪ

 (XII) Câu hỏi của thanh niên Jatukanni

11-1. Sutvānahaṃ vīramakāmakāmiṃ (iccāyasmā jātukaṇṇī ) oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ santipadaṃ brūhi sahajanetta yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.

11-1. (Tôn giả Jatukaṇṇī nói rằng:) “Thưa bậc anh hùng, sau khi con nghe về vị không có ham muốn các dục, con đã đi đến để hỏi vị đã vượt qua dòng lũ, không có ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (trí Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho con về điều này đúng theo sự thật.Jatukanni:

1096. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.

11-2. Bhagavā hi kāme abhibhuyya irīyati ādiccova paṭhaviṃ tejī tejasā parittapaññassa me bhūripañña ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

11-2. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành xử (các oai nghi) ví như thái dương có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với con là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để con có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1097. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
Ở đây, con đoạn được,
Kể cả sanh và già.

11-3. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā) nekkhammaṃ daṭṭhu khemato uggahitaṃ niratthaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.

11-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇī,) ngươi hãy dẹp bỏ sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Dầu đã được nắm bắt hay đã được vứt bỏ, sự vướng bận chớ có hiện diện đối với ngươi.Thế Tôn:

1098. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.

11-4. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.

11-4. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều (ô nhiễm) gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.

1099. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
Ở phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.

11-5. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vaje ”ti.

11-5. Này Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị này các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng, con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”

1100. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.

 Jatukaṇṇīmāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukaṇṇī.

12. BHADRĀVUDHAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN BHADRĀVUDHA

(XIII) Câu hỏi của thanh niên Bhadràvudha

12-1. Okaṃ jahaṃ taṇhacchidaṃ anejaṃ (iccāyasmā bhadrāvudho) nandiṃ jahaṃ oghatiṇṇaṃ vimuttaṃ
kappaṃ jahaṃ abhiyāce sumedhaṃ sutvāna nāgassa apanamissanti ito.

12-1. (Tôn giả Bhadrāvudha nói rằng:) “Con khẩn cầu bậc khôn ngoan, bậc từ bỏ chỗ trú ngụ, bậc cắt đứt tham ái, bậc không còn dục vọng, bậc từ bỏ niềm vui, bậc đã vượt qua dòng lũ, bậc đã được giải thoát, bậc từ bỏ sự sắp đặt (do tham ái và tà kiến). Sau khi lắng nghe bậc Long Tượng, từ đây họ sẽ ra đi.  Bhadràvudha:

1101. Bha-đra-vu-đa nói:
Con có lời yêu cầu,
Bậc Thiện Tuệ nói lên,
Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
Bất động, bỏ hỷ ái,
Giải thoát, vượt bộc lưu,
Thời gian, không chi phối,
Nghe xong, bậc Long tượng,
Từ đây, họ ra đi.

12-2. Nānā janā janapadehi saṅgatā tava vīra vākyaṃ abhikaṅkhamānā tesaṃ tuvaṃ sādhu viyākarohi tathā hi te vidito esa dhammo.

12-2. Trong khi mong mỏi lời nói của Ngài, thưa bậc anh hùng, vô số người từ các xứ sở đã tụ hội lại. Xin Ngài hãy khéo léo giải thích cho họ, bởi vì pháp này đã được Ngài biết đúng theo bản thể.”  

1102. Quần chúng sai biệt ấy,
Từ quốc độ tụ họp,
Họ ao ước khát vọng,
Ðược nghe lời của Ngài,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Ngài hãy khéo trả lời,
Pháp Ngài dạy thế này,
Như vậy họ hiểu biết.

12-3. Ādānataṇhaṃ vinayetha sabbaṃ (bhadrāvudhāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe yaṃ yaṃ hi lokasmiṃ upādiyanti teneva māro anveti jantuṃ. 

12-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Bhadrāvudha,) nên dẹp bỏ mọi sự nắm giữ và tham ái ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa. Bởi vì, mỗi một điều gì họ chấp thủ ở thế gian, do chính điều ấy Ma Vương theo đuổi loài người.  Thế Tôn:

1103. Thế Tôn nói như sau:
Này Bha-đra-vu-đa!
Hãy nhiếp phục tất cả,
Mọi tham ái chấp thủ,
Trên, dưới cả bề ngang,
Và kể luôn chặng giữa,
Những ai có chấp thủ,
Sự gì ở trong đời,
Chính do sự việc ấy,
Ác ma theo người ấy.

12-4. Tasmā pajānaṃ na upādiyetha bhikkhu sato kiñcanaṃ sabbaloke ādānasatte iti pekkhamāno pajaṃ imaṃ maccudheyye visattan ”ti.

12-4. Bởi vậy, trong khi nhận biết, vị tỳ khưu, có niệm, không nên chấp thủ bất cứ điều gì ở khắp thế gian, trong khi xem xét chúng sanh bị dính mắc ở sự nắm giữ, nhân loại này bị vướng mắc ở lãnh địa của Thần Chết.”

1104. Do vậy, bậc hiểu biết,
Không có chấp thủ gì,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Trong tất cả thế giới,
Phàm có sở hữu gì,
Vị ấy không mong ước,
Nhìn xem quần chúng này,
Là chúng sanh chấp thủ,
Trong lãnh vực của Ma,
Bị tham dính chấp trước.

 Bhadrāvudhamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Bhadrāvudha. 

13. UDAYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UDAYA

(XIV) Câu hỏi của thanh niên Udaya 

13-1. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo) katakiccaṃ anāsavaṃ pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.  

13-1. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, con đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn bụi bặm, đang ngồi, bậc đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh. Udaya:

1105. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.

13-2. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā) domanassāna cūbhayaṃ thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ. 

13-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với những mong muốn về dục và những nỗi ưu phiền, cả hai loại, việc xua đi sự dã dượi, và việc che lấp các trạng thái hối hận.

Thế Tôn:

1106. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.

13-3. Upekkhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ. 

13-3. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm hoàn toàn trong sạch, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”

1107. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.

13-4. Kiṃ su saṃyojano loko (iccāyasmā udayo) kiṃ su tassa vicāraṇaṃ kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.

13-4. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì, đối với nó, là phương tiện xem xét? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”

Udaya:
1108. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đoạn được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?

13-5. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā) vitakkassa vicāraṇā taṇhāya vippahānena nibbānaṃ iti vuccati.

13-5. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) Thế gian có vui thích là sự ràng buộc. Suy tầm, đối với nó, là phương tiện xem xét. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”

Thế Tôn:

1109. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đoạn được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.

13-6. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayo) viññāṇaṃ uparujjhati bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.

13-6. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Như thế nào đối với vị có niệm, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ? Chúng con đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng con nghe lời nói ấy của Ngài.”Udaya:

1110. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.

13-7. Ajjhattaṃ ca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandato evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatī ”ti.

13-7. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị có niệm như vậy, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ.”Thế Tôn:
1111. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt.

Udayamāṇavapucchā niṭṭhitā.

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya.

14. POSĀLAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN POSĀLA

(XV) Câu hỏi của thanh niên Posàla

14-1. Yo atītaṃ ādisati (iccāyasmā posālo) anejo chinnasaṃsayo pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.

14-1. (Tôn giả Posāla nói rằng:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, con đã đi đến gặp bậc đã ngự đến bờ kia của tất cả các pháp, vị chỉ ra thời quá khứ, không còn dục vọng, đã cắt đứt sự nghi ngờ.Posàla:

1112. Tôn giả Po-sa-la:
Vị nói về quá khứ,
Bất động nghi hoặc đoạn,
Ðã đến bờ bên kia,
Con đến với câu hỏi
Hỏi về hết thảy pháp.

(Kinh Tập, chương V)

14-2. Vibhūtarūpasaññissa sabbakāyappahāyino ajjhattaṃ ca bahiddhā ca natthi kiñcīti passato ñāṇaṃ sakkānupucchāmi kathaṃ neyyo tathāvidho.

14-2. Đối với vị có sắc tưởng đã không còn, có sự dứt bỏ toàn bộ về thân, đang nhìn thấy nội phần và ngoại phần là ‘không có gì,’ thưa vị dòng Sakya, con hỏi thêm về trí (của vị ấy); vị thuộc hạng như thế ấy nên được hướng dẫn thế nào?”

1113. Với ai, sắc tưởng diệt,
Ðoạn tận hết thảy thân,
Nhìn thấy nội và ngoại,
Thật sự không có gì,
Con hỏi bậc Thích-ca,
Thế nào người như vậy,
Có thể bị dắt dẫn?

14-3. Viññāṇaṭṭhitiyo sabbā (posālāti bhagavā) abhijānaṃ tathāgato tiṭṭhantamenaṃ jānāti dhimuttaṃ tapparāyaṇaṃ.

14-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Posāla,) trong khi biết rõ tất cả các chỗ trú của thức, đức Như Lai biết vị ấy đang trú (ở đâu), bị thiên về (điều gì), có điều ấy là mục tiêu.Thế Tôn:

1114. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pô-sa-la,
Như Lai được thắng trí,
Tất cả nhờ thức trú,
Rõ biết vị an trú,
Giải thoát, đạt cứu cánh.

14-4. Ākiñcaññā sambhavaṃ ñatvā nandi saṃyojanaṃ iti evametaṃ abhiññāya tato tattha vipassati etaṃ ñāṇaṃ tathā tassa brāhmaṇassa vusīmato ”ti.

14-4. Sau khi biết được nguồn sanh khởi của Vô Sở Hữu, (biết được) rằng: ‘sự ràng buộc bởi vui thích,’ sau khi biết rõ điều ấy như vậy, từ đó nhìn thấy rõ nơi ấy; đây là trí như thật của vị ấy, của vị Bà-la-môn đã sống hoàn hảo.”

1115. Biết được sự tác thành,
Thuộc về vô sở hữu,
Biết hỷ là kiết sử,
Do thắng tri như vậy,
Tại đấy, thấy như vậy,
Ðây là trí như thật,
Của vị Bà-la-môn,
Ðã thành tựu Phạm hạnh.

Posālamāṇavapucchā niṭṭhitā.

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Posāla.

15. MOGHARĀJAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN MOGHARĀJA

(XVI) Câu hỏi của thanh niên Mogharàja

15-1. Dvāhaṃ sakkaṃ apucchissaṃ (iccāyasmā mogharājā) na me vyākāsi cakkhumāyāva tatiyaṃ ca devisī vyākarotīti me sutaṃ. 

15-1. (Tôn giả Mogharāja nói rằng:) “Con đã hỏi vị dòng Sakya hai lần. Bậc Hữu Nhãn đã không giải đáp cho con. Và con đã được nghe rằng: ‘(Được hỏi) đến lần thứ ba, bậc Thiên Nhân Ẩn Sĩ (sẽ) giải đáp.’

Mogharàja:
1116. Mo-gha-rà-ja nói:
Ðã hai lần con hỏi,
Bậc có mắt, họ Thích,
Ngài chưa trả lời con,
Nhưng con được nghe rằng,
Cho đến lần thứ ba,
Vị Thiên nhân ẩn sĩ,
Sẽ trả lời cho con.

15-2. Ayaṃ loko paro loko brahmaloko sadevako diṭṭhinte nābhijānāti gotamassa yasassino.

15-2. Thế giới này, thế giới khác, thế giới Phạm Thiên luôn cả chư Thiên không (thể) biết rõ quan điểm của Ngài, của vị Gotama có danh tiếng.

1117. Ðời này và đời sau,
Phạm thiên giới, thiên giới,
Con không rõ quan điểm,
Gotama lừng danh.

15-3. Evaṃ abhikkantadassāviṃ atthi pañhena āgamaṃ kathaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passati.

15-3. Con đã đi đến bậc có nhãn quan vượt trội như vậy với ý định (hỏi) câu hỏi: Người đang xem xét thế gian như thế nào thì Tử Thần không nhìn thấy (người ấy)?”

1118. Vị thầy được thù diệu,
Con đến với câu hỏi,
Cần nhìn đời thế nào,
Ðể thần chết không thấy.

15-4. Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato attānudiṭṭhiṃ ūhacca evaṃ maccutaro siyā evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatī ”ti.

Thế Tôn:
1119. Này Mô-gha-ra-ja,
Hãy nhìn đời trống không,
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Nhô lên ngã tùy kiến,
Như vậy vượt tử vong,
Hãy nhìn đời như vậy,
Thần chết không thấy được.

Mogharājamāṇavapucchā niṭṭhitā.

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Mogharāja.

16. PIṄGIYAMĀṆAVAPUCCHĀ – CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PIṄGIYA

(XVII) Câu hỏi của thanh niên Pingiya

16-1. Jiṇṇo ’hamasmi abalo vītavaṇṇo (iccāyasmā piṅgiyo) nettā na suddhā savaṇaṃ na phāsu māhaṃ nassaṃ momuho antarāva ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

Pingiya:
1120. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đã già, yếu đuối,
Không còn có dung sắc,
Mắt không thấy rõ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Ðể con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.

16-2. Disvāna rūpesu vihaññamāne (piṅgiyāti bhagavā) ruppanti rūpesu janā pamattā tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu rūpaṃ apunabbhavāya.

Thế Tôn:
1121. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.

16-3. Disā catasso vidisā catasso (iccāyasmā piṅgiyo) uddhaṃ adho dasadisā imāyo na tuyhaṃ adiṭṭhaṃ asutaṃ amutaṃ atho aviññātaṃ kiñci natthi loke ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

Pingiya:
1122. Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vậy có mười phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc gì,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hãy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Ðoạn tận được sanh già.

16-4. Taṇhādhipanne manuje pekkhamāno (piṅgiyāti bhagavā) santāpajāte jarasā parete tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto jahassu taṇhaṃ apunabbhavāyā ”ti.

Thế Tôn:
1123. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh.

Piṅgiyamāṇavapucchā niṭṭhitā.

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Piṅgiya.

(XVIII) Kết luận

Idamavoca bhagavā magadhesu viharanto pāsāṇake cetiye paricārakasoḷasānaṃ brāhmaṇānaṃ ajjhiṭṭho puṭṭho puṭṭho pañhaṃ vyākāsi. Ekamekassa cepi pañhassa atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammaṃ paṭipajjeyya gaccheyyeva jarāmaraṇassa pāraṃ. Pāraṃ gamanīyā ime dhammā ti tasmā imassa dhammapariyāyassa pārāyanaṃtveva adhivacanaṃ.

Thế Tôn nói như vậy. Trong khi ở tại Magadha, tại điện Phà-xa-na-ka, Thế Tôn được mười sáu Bà-la-môn đệ tử của Bàvani tìm đến, được hỏi nhiều câu hỏi và Ngài đã trả lời. Nêu từng câu hỏi một, sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp, thì có thể đi đến bờ bên kia của già chết. Những pháp này có thể đưa người qua bờ bên kia, cho nên pháp môn này cũng được gọi là Pàràyanam: “Con đường đưa đến bờ bên kia”.
(Kinh Tập, chương V)

1. Ajito tissametteyyo – puṇṇako atha mettagū dhotako upasīvo ca – nando ca atha hemako.

1124. Phạm chí Ajita,
Tissa-Met-tayya,
Phạm chí Pun-na-ka,
Cùng với Met-ta-gù,
Thanh niên Dhotaka,
Và Upasiva,
Nan-đa, He-ma-ka,
Cả hai vị thanh niên.

2. Todeyyakappā dubhayo – jatukaṇṇī ca paṇḍito bhadrāvudho udayo ca – posālo cāpi brāhmaṇo mogharājā ca medhāvī – piṅgiyo ca mahāisi.

1125. To-dey-ya, Kap-pà;
Và Ja-tu-kha-ni,
Với Bhad-rà-vu-dha
Phạm chí U-da-ya
Phạm chí Po-sà-la,
Với Mo-gha-rà-ja
Là bậc đại Hiền trí,
Cùng với bậc đại sĩ,
Tên là Pin-gi-ya.

3. Ete buddhaṃ upāgañchuṃ – sampannacaraṇaṃ isiṃ pucchantā nipuṇe pañhe – buddhaseṭṭhaṃ upāgamuṃ.

1126. Những vị này đi đến,
Ðức Phật, bậc Tiên nhân,
Bậc hạnh đức đầy đủ,
Những vị này đi đến,
Bậc giác ngộ tối thượng,
Hỏi câu hỏi tế nhị.

4. Tesaṃ buddho vyākāsi – pañhe puṭṭho yathātathaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena – tosesi brāhmaṇe muni.

1127. Ðức Phật đã như thật,
Trả lời các vị ấy,
Tùy theo các câu hỏi,
Và bậc đại ẩn sĩ
Trả lời những câu hỏi,
Khiến các Bà-la-môn,
Ðược hoan hỷ vui thích.

5. Te tositā cakkhumatā – buddhenādiccabandhunā brahmacariyamacariṃsu – varapaññassa santike.

1128. Họ được vui, hoan hỷ,
Nhờ Phật, bậc có mắt,
Nhờ bà con mặt trời,
Họ hành trì Phạm hạnh,
Dưới chỉ đạo hướng dẫn,
Bậc trí tuệ tuyệt diệu.

6. Ekamekassa pañhassa – yathā buddhena desitaṃ tathā yo paṭipajjeyya – gacche pāraṃ apārato.

1129. Theo từng câu hỏi một,
Tùy đức Phật thuyết giảng,
Ai như vậy hành trì,
Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia.

7. Apārā pāraṃ gaccheyya – bhāvento maggamuttamaṃ maggo so pāraṃ gamanāya – tasmā pārāyanaṃ iti.

1130. Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia,
Tu tập đạo vô thượng,
Và chính con đường ấy,
Ðưa đến bờ bên kia,
Do vậy được tên gọi,
Con đường đến bờ kia.

Rồi Tôn giả Pingiya đi về Godhàvari và nói lại với Bà-la-môn Bàvari những điều đã xảy ra.

8. Pārāyanamanugāyissaṃ (iccāyasmā piṅgiyo) yathā addakkhi tathā akkhāsi vimalo bhūrimedhaso nikkāmo nibbano nāgo kissa hetu musā bhaṇe.

Pingiya:
1131. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con sẽ đọc tụng lên
Con đường đến bờ kia,
Ngài được thấy thế nào,
Ngài nói lên thế ấy,
Bậc vô cấu, quảng trí,
Bậc lãnh đạo không dục,
Bậc Niết-bàn an tịnh,
Làm sao do nhân gì,
Ngài nói điều không thật.

9. Pahīnamalamohassa mānamakkhappahāyino handāhaṃ kittayissāmi giraṃ vaṇṇūpasaṃhitaṃ.

1132. Bậc đã đoạn trừ hết,
Uế nhiễm và si mê,
Bậc đã diệt trừ sạch,
Kiêu mạn và gièm pha,
Con sẽ nói tán thán,
Âm thanh vi diệu ấy.

10. Tamonudo buddho samantacakkhu lokantagū sabbabhavātivatto anāsavo sabbadukkhappahīno saccavhayo brahme upāsito me.

1133. Bậc quét sạch u ám,
Phật-đà, bậc Biến nhãn,
Ðã đến, tận cùng đời,
Ðã vượt qua sanh hữu,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðoạn tận mọi đau khổ,
Vị được gọi sự thật,
Hỡi vị Bà-la-môn,
Con được hầu vị ấy.

11. Dvijo yathā kubbanakaṃ pahāya bahupphalaṃ kānanamāvaseyya evaṃ pahaṃ appadasse pahāya mahodadhiṃ haṃsarivajjhapatto.

1134. Như chim bỏ rừng hoang,
Ðến ở rừng nhiều trái,
Cũng vậy con từ bỏ,
Những bậc thấy nhỏ nhen,
Con đạt đến biển lớn,
Chẳng khác con thiên nga.

12. Ye me pubbe viyākaṃsu huraṃ gotamasāsanā iccāsīti bhavissati sabbaṃ taṃ itihītihaṃ sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ.

1135. Những ai trong đời khác,
Ðã nói cho con nghe,
Lời dạy bậc Cù-đàm
Như vậy đã xảy ra,
Như vậy sẽ xảy đến,
Tất cả là tin đồn,
Chỉ làm tăng nghi ngờ.

13. Eko tamanudāsīno jutimā so pabhaṅkaro gotamo bhūripaññāṇo gotamo bhūrimedhaso.

1136. Chỉ một vị an trú,
Quét sạch các hắn ám,
Sanh trưởng gia đình quý,
Vị ấy chiếu hào quang,
Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
Cù-đàm, bậc quảng trí.

14. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1137. Ai thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

15. Kinnu tamhā vippavasasi muhuttamapi piṅgiya gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.

Bàvari:
1138. Hỡi này Pin-gi-ya,
Sao Ông lại không thể,
Sống xa lánh vị ấy,
Chỉ trong một chốc lát,
Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
Bậc Cù-đàm quảng trí,

16. Yo te dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1139. Vị thuyết pháp cho người,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

17. Nāhaṃ tamhā vippavasāmi muhuttamapi brāhmaṇa gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā. Pingiya:

1140. Hỡi này Bà-la-môn,
Con không có thể được,
Sống xa lánh vị ấy
Chỉ trong một chốc lát,
Gotama quảng tuệ,
Gotama quảng trí.

18. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1141. Vị thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

19. Passāmi naṃ manasā cakkhunā va rattiṃ divaṃ brāhmaṇa appamatto namassamāno vivasemi rattiṃ teneva maññāmi avippavāsaṃ.

1142. Chính con thấy vị ấy,
Với ý, với con mắt,
Ngày đêm không phóng dật,
Kính thưa Bà-la-môn,
Con trải qua suốt đêm
Ðảnh lễ, kính vị ấy,
Do vậy con nghĩ rằng,
Con không xa vị ấy.

20. Saddhā ca pītī ca mano satī ca nāpenti me gotamasāsanamhā yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño sa tena teneva natohamasmi.

1143. Với tín và với hỷ,
Với ý luôn chánh niệm,
Không làm con xa rời,
Lời dạy Gotama!
Chính tại phương hướng nào,
Bậc quảng tuệ đi đến,
Chính ở phương hướng ấy,
Con được dắt dẫn đến.

21. Jiṇṇassa me dubbalathāmakassa teneva kāyo na paleti tattha saṃkappayattāya vajāmi niccaṃ. mano hi me brāhmaṇa tena yutto.

1144. Với con tuổi đã già,
Yếu đuối, không sức mạnh,
Do vậy thân thể này,
Không đến được chỗ ấy,
Với tâm tư quyết chí,
Con thường hằng đi đến.
Vì rằng thưa Phạm chí,
Ý con cột vị ấy.

22. Paṅke sayāno pariphandamāno dīpā dīpaṃ uppalaviṃ athaddasāsiṃ sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.

1145. Nằm dài trong vũng bùn,
Vùng vẫy, vật qua lại,
Con đã bơi qua lại,
Ðảo này đến đảo khác,
Con đã thấy đức Phật,
Vượt bộc lưu, vô lậu.

Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:

23. Yathā ahu vakkali muttasaddho bhadrāvudho āḷavi gotamo ca evameva tvampi pamuñcassu saddhaṃ gamissasi tvaṃ piṅgiya maccudheyyassa pāraṃ. 

Thế Tôn:

1146. Cũng như Vak-ka-li
Nhờ tin, được giải thoát,
Với Bhad-rà-vu-dha,
A-la-vi, Cù-đàm,
Cũng vậy, Ông đã được,
Giải thoát nhờ lòng tin.
Hỡi này Pin-gi-ya,
Ông sẽ đi đến được,
Ðến được bờ bên kia,
Của thế giới thần chết.

24. Esa bhīyo pasīdāmi sutvāna munino vaco vivattacchaddo sambuddho akhilo paṭibhānavā.

Pingiya:
1147. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
Con tăng trưởng tịnh tín,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Ðã vén lên tấm màn,
Không cứng cỏi, biện tài.

25. Adhideve abhiññāya sabbaṃ vedi parovaraṃ pañhānantakaro satthā kaṅkhīnaṃ paṭijānataṃ.

1148. Thắng tri các chư Thiên,
Biết tất cả cao thấp,
Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
Tất cả các câu hỏi,
Với những ai tự nhận,
Còn có chỗ nghi ngờ.

26. Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ yassa natthi upamā kvaci addhā gamissāmi na mettha kaṅkhā evaṃ maṃ dhārehi adhimuttacittan ”ti.

1149. Không run rẩy, dao động,
Không ai có thể sánh,
Chắc chắn con sẽ đi,
Tại đây, con không nghi,
Như vậy, thọ trì Ta
Như tâm người tín giải.

 Piṅgiyasuttantaṃ soḷasi.

Pārāyanavaggo niṭṭhito.

 Phẩm “Con đường đi đến bờ bên kia ” đã xong.

 

* Thuộc TIỂU DIỄN GIẢI - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net
Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời