Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung – B. Thiên Cung Nam Giới – 7. Phẩm Khéo Đặt Xuống

TAM TẠNG PĀLI – VIỆT

VIMĀNAVATTHUPĀḶI & CHUYỆN THIÊN CUNG

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

B. THIÊN CUNG NAM GIỚI

7. PHẨM KHÉO ĐẶT XUỐNG

  1. Thiên cung Cittalatā 
  2. Thiên cung Nandana 
  3. Thiên cung có cây trụ bằng ngọc ma-ni
  4. Thiên cung bằng vàng
  5. Thiên cung cây xoài
  6. Thiên cung của người chăn bò
  7. Thiên cung của Kanthaka  
  8. Thiên cung nhiều màu sắc
  9. Thiên cung của Maṭṭakuṇḍalī
  10. Thiên cung của Serissaka  
  11. Thiên cung khéo đặt xuống

7. 1

  1. “Khu vườn Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đã phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Cittalatā.

7. 2

  1. “Khu vườn Nandana và Cittalatā, vườn hoa hạng nhất, tối thượng ở cõi Ba Mươi (Ba) chiếu sáng như thế nào, thì Thiên cung này của ngươi ngự ở không trung, đang chói sáng tương tự như thế ấy.
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã là người làm công nghèo khó, khốn khổ, không nơi nhờ cậy, và tôi đã phụng dưỡng mẹ cha già nua. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Nandana.

7. 3

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã làm lối kinh hành ở đường đi nơi bìa rừng, và tôi đã trồng các cây ở tu viện. Và các bậc có giới hạnh đã được tôi quý mến; có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung có Cây Trụ Bằng Ngọc Ma-ni.

7. 4

  1. Thiên cung, ở ngọn núi bằng vàng, được che phủ với màng lưới bằng vàng, được sắp đặt màng lưới chuông leng keng, đang chiếu sáng khắp mọi nơi.
  1. Các cây cột có tám mặt đã khéo được thực hiện, tất cả được làm bằng ngọc bích, ở mỗi một mặt, bảy loại châu báu đã được hóa hiện ra.
  1. Ngọc bích, vàng, ngọc pha-lê, và ngọc ru-bi, với các viên ngọc mắt mèo, ngọc trai, và các viên ngọc ma-ni màu đỏ.
  1. Mặt nền đa dạng, làm thích ý, ở nơi đó bụi bặm không bốc lên, những cụm đà cong màu vàng, được hóa hiện ra, nâng đỡ mái nhọn.
  1. Và bốn bực cấp được hóa hiện ra ở bốn phía, với các gian phòng có nhiều loại châu ngọc khác nhau, chói sáng tựa như mặt trời.
  1. Ở nơi ấy, bốn rào chắn được phân chia thành từng phần cân xứng. Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, chúng chiếu sáng bốn phương ở xung quanh.
  1. Ở Thiên cung quý cao ấy, vị Thiên tử có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.
  1. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Được tịnh tín, tôi đã tự tay cho xây dựng ở Andhakavinda ngôi trú xá dành cho đức Phật, vị thân quyến của mặt trời, bậc Đạo Sư.
  1. Ở nơi ấy, với tâm ý thanh tịnh tôi đã dâng cúng vật thơm, tràng hoa, dầu thoa giá trị, và ngôi trú xá đến bậc Đạo Sư.
  1. Do việc ấy, điều này đã đạt được cho tôi; tôi vận hành quyền lực ở Nandana. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”

Thiên Cung Bằng Vàng.

7. 5

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Vào tháng cuối cùng của mùa nóng, khi mặt trời đang đốt nóng, người đàn ông, kẻ làm thuê cho những người khác, đã tưới nước vườn xoài.
  1. Khi ấy, vị tỳ khưu nổi tiếng ‘Sāriputta’ đã đi đến nơi ấy, với dáng vẻ mệt nhọc ở cơ thể nhưng không chút mệt nhọc ở tâm ý.
  1. Và sau khi nhìn thấy vị ấy đang tiến đến, người tưới xoài đã nói rằng: ‘Thưa ngài, tốt lành thay (nếu) tôi có thể tắm cho ngài, việc ấy là sự đem lại hạnh phúc cho tôi.’
  1. Vì lòng thương tưởng đến tôi đây, vị ấy đã đặt y và bình bát xuống, rồi đã ngồi xuống ở gốc cây, nơi bóng râm, (mặc) một y.
  1. Và với tâm tịnh tín, người đàn ông, với nước sạch, đã tắm cho vị ấy, (mặc) một y, ở gốc cây, nơi bóng râm.
  1. ‘Cây xoài đã được tưới nước và vị Sa-môn đã được tắm; còn phước báu đã được tôi tạo ra không phải là ít.’ (Suy nghĩ) như thế, người ấy làm lan tỏa toàn bộ cơ thể của bản thân với niềm hỷ lạc.
  1. Trong kiếp sống ấy, tôi đã tạo chính nghiệp ấy chỉ có bấy nhiêu. Sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.
  1. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”

Thiên Cung Cây Xoài.

7. 6

  1. Sau khi nhìn thấy vị Thiên nhân có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, ở tòa lâu đài cao ráo, có sự tồn tại lâu dài, cũng giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời, vị tỳ khưu đã hỏi rằng:
  1. “Ngươi đã được trang điểm, có mang vòng hoa, có y phục xinh đẹp, có bông tai khéo, có tóc râu đã được sửa soạn, có đồ trang sức ở bàn tay đã được trau chuốt, có danh tiếng, giống như mặt trăng ở Thiên cung thuộc cõi Trời.
  1. Còn có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào. Có tám nhóm, mỗi nhóm tám cô tiên nữ, sống ở cõi Ba Mươi (Ba), cao sang, đã được học tập, có dáng vóc nghiêm trang, nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển.
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, đã gom lại các con bò cái của những người khác rồi canh giữ. Và sau đó, có vị Sa-môn đã đi đến gần tôi. Và các con bò đã đi đến để ăn những cây đậu.
  1. ‘Hôm nay, có hai phận sự, và cả hai đều cần phải làm.’ Thưa ngài, khi ấy tôi đã suy nghĩ y như thế. Kế đó, sau khi đã đạt được ý nghĩ đúng đắn, tôi đã đặt mảnh giẻ (gói miếng bánh, nói rằng): ‘Thưa ngài, tôi xin dâng.’
  1. Tôi đây đã vội vã đi xuống ruộng đậu trước khi con bò này làm hư hại tài sản này của ai đó. Và kế đó, có con rắn màu đen có nọc độc dữ tợn đã cắn ở bàn chân của tôi trong khi tôi đang vội vã.
  1. Tôi đây bị đau đớn, bị hành hạ bởi khổ đau. Và vị tỳ khưu sau khi tự thân mở ra mảnh giẻ (gói miếng bánh) ấy, đã nuốt vào miếng bánh kem, vì lòng thương tưởng đối với tôi. Từ nơi ấy, tôi đã chết, đã từ trần, và trở thành Thiên nhân.
  1. Chính hành động thiện ấy đã được tôi tạo ra, và tôi thọ hưởng nghiệp an lạc tự chính mình. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.
  1. Ở thế gian luôn cả chư Thiên và luôn cả Ma Vương, không có vị hiền trí nào khác là người có lòng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.
  1. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, không có vị hiền trí nào khác là người có lòng thương tưởng hơn ngài. Thưa ngài, bởi vì tôi đã được ngài thương tưởng thật nhiều, tôi xin đảnh lễ (ngài) với lòng tri ân.”

Thiên Cung của Người Chăn Bò.

7. 7

  1. “Giống như mặt trăng, chúa tể các vì sao, có hình con thỏ, vào ngày rằm, được vây quanh bởi các vì tinh tú, di chuyển vòng quanh.
  1. Tương tự như thế, Thiên cung này thuộc cõi Trời và ở thành phố của chư Thiên sáng chói vượt trội nhờ vào vẻ đẹp, tựa như mặt trời đang mọc lên.
  1. Ngọc bích, vàng, ngọc pha-lê, và ngọc ru-bi, với các viên ngọc mắt mèo, ngọc trai, và các viên ngọc ma-ni màu đỏ.
  1. Mặt nền đa dạng, làm thích ý, được trải lót bằng ngọc bích, có các ngôi nhà mái nhọn xinh đẹp, đáng yêu; tòa lâu đài của ngươi đã khéo được hóa hiện.
  1. Và các hồ sen của ngươi là đáng yêu, được loài cá puthuloma lai vãng, có nước trong sạch, được yên tĩnh, được trải cát bằng vàng.
  1. Được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng, (các hồ sen) làm hài lòng, được lay động bởi làn gió, tỏa ra hương thơm.
  1. Ở cả hai bên cái hồ ấy của ngươi, có những cụm rừng đã khéo được hóa hiện ra, có đủ cả hai loại với các loại cây bông hoa và các loại cây sinh trái.
  1. Ở chiếc ghế dài có chân bằng vàng, mềm mại, được trải lót lớp vải, các tiên nữ đứng hầu (ngươi) đã ngồi xuống, tựa như vị Thiên Vương.
  1. (Các tiên nữ) được che phủ với tất cả đồ trang sức, được điểm trang với các tràng hoa khác loại, tiêu khiển cho ngươi, người có đại thần lực; ngươi vui thú tựa như vị (Thiên Vương) Vasavatti.
  1. Với các cái trống, các tù và vỏ sò và các trống nhỏ, với các cây đàn vīṇā, và với các xập xõa, được đầy đủ thú vui, ngươi vui thú ở vũ điệu lời ca, ở khúc nhạc hay.
  1. Các sắc thuộc cõi Trời với nhiều hình thức là thuộc về ngươi, các thinh thuộc cõi Trời, rồi các vị, các hương, và các xúc thích ý được dành riêng cho ngươi.
  1. Này vị Thiên tử, ở Thiên cung quý cao ấy, ngươi có ánh sáng vĩ đại, sáng chói vượt trội nhờ vào màu da, tựa như mặt trời đang mọc lên.
  1. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Ở kinh thành Kapilavatthu của những người Sakya, tôi đã là (con ngựa) Kanthaka, được sanh đồng thời với người con trai của (đức vua) Suddhodana.

1187-1188. Vào lúc nửa đêm, vị ấy đã ra đi vì sự Giác Ngộ. Vị ấy, với hai bàn tay mềm mại, có màng lưới, và các móng tay màu đồng, đã vỗ vào đùi của tôi và đã nói rằng: ‘Này bạn, hãy đưa (ta) đi. Đạt được quả vị Giác Ngộ tối thượng, ta sẽ giúp cho thế gian vượt qua.’

  1. Niềm vui bao la đã có cho tôi trong khi tôi đang lắng nghe câu nói ấy. Với tâm phấn khởi, với thiện ý, khi ấy tôi đã mong cầu.
  1. Và sau khi biết được người con trai dòng Sakya, có danh tiếng lớn lao, đã cỡi lên tôi, với tâm phấn khởi, được hoan hỷ, tôi đã đưa bậc tối thượng nhân đi.
  1. Sau khi đi đến lãnh thổ của những người khác, khi mặt trời đã mọc lên, sau khi bỏ lại tôi và Channa, vị ấy đã bỏ đi, không đoái hoài.
  1. Bằng lưỡi, tôi đã liếm quanh hai bàn chân có móng chân màu đồng của vị ấy, và đã khóc lóc nhìn theo vị đại anh hùng đang ra đi.
  1. Do việc không còn nhìn thấy người con trai dòng Sakya vinh quang ấy, tôi đã nhận lấy cơn bệnh trầm trọng; cái chết đã nhanh chóng xảy đến cho tôi.
  1. Do nhờ năng lực của chính việc ấy, tôi trú ngụ tại Thiên cung này, có đủ tất cả các loại dục, và ở thành phố chư Thiên thuộc cõi Trời.
  1. Và việc tôi đã có niềm vui sau khi nghe được âm thanh của từ giác ngộ; do chính thiện căn ấy, tôi sẽ chạm đến sự cạn kiệt các lậu hoặc.
  1. Thưa ngài, bởi vì nếu ngài đi đến gặp đức Phật, bậc Đạo Sư, xin ngài hãy nói với Vị ấy luôn cả lời nói của tôi về việc đê đầu đảnh lễ (của tôi).
  1. Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ; việc gặp gỡ các đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy là điều khó đạt được.”
  1. Vị (Thiên tử) ấy có sự tri ân, có sự hiểu biết về việc đã được làm, đã đi đến gặp bậc Đạo Sư. Sau khi lắng nghe lời nói của đấng Hữu Nhãn, vị ấy đã làm trong sạch Pháp nhãn.
  1. Sau khi đã làm trong sạch việc sa vào (tà) kiến, hoài nghi, và (sự cố chấp vào) các nghi thức, vị ấy đã đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.[1]

Thiên Cung của Kanthaka.

7. 8

  1. “Sau khi đã đạt đến Thiên cung được tô điểm theo nhiều cách, có nhiều màu sắc, có sự tiêu diệt nỗi buồn bực và sầu muộn, ngươi được tùy tùng bởi đoàn tiên nữ, vui sướng tựa như Sunimmita, vị chúa tể của chúng sinh.
  1. Không có vị sánh bằng như vậy; hơn nữa người vượt trội về danh tiếng, phước báu, và thần thông thì từ đâu mà có?
  1. Và tất cả chư Thiên, các nhóm ở cõi Ba Mươi (Ba), sau khi tụ hội lại sẽ lễ bái ngươi đây, tựa như chư Thiên lễ bái mặt trăng. Và ngươi có các tiên nữ này nhảy múa, ca hát, làm trò tiêu khiển ở xung quanh.
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Thưa ngài đại đức, vào thời quá khứ tôi đã là đệ tử của đấng Chiến Thắng tên Sumedha. Tôi còn là phàm nhân, chưa được giác ngộ; tôi đây đã xuất gia bảy năm.
  1. Lúc đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Sumedha, vị đã vượt qua các dòng lũ như thế ấy, viên tịch Niết Bàn, tôi đây, sau khi đảnh lễ khối châu báu được che phủ bởi mạng lưới bằng vàng, đã làm cho tâm ý được tịnh tín ở ngôi bảo tháp.
  1. Sự bố thí của tôi là không có, tôi không có gì để bố thí. Tuy nhiên, tại nơi ấy tôi đã khuyến khích những người khác rằng: ‘Quý vị hãy cúng dường xá-lợi ấy của bậc xứng đáng cúng dường, như vậy nghe nói quý vị sẽ từ nơi đây đi đến cõi Trời.’
  1. Chính nghiệp thiện ấy đã được tạo ra bởi tôi. Và tôi thụ hưởng sự an lạc thuộc cõi Trời bởi chính bản thân. Tôi vui sướng giữa nhóm (chư Thiên) ở cõi Ba Mươi (Ba). Tôi còn chưa đi đến sự cạn kiệt của phước báu ấy.”

Thiên Cung Nhiều Màu Sắc.

7. 9

  1. “Ngươi đã được trang điểm, có bông tai đã được đánh bóng, có mang tràng hoa, có bôi xức trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”[2]
  1. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi sẽ từ bỏ mạng sống.”
  1. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, hay làm bằng bạc? Này người thanh niên hiền thiện, ngươi hãy nói với ta. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”
  1. Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy; cỗ xe của tôi, làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”
  1. “Này người thanh niên, ngươi quả thật cũng khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”
  1. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất của cả hai là theo trình tự. Trái lại, người chết, đã qua đời, không được nhìn thấy. Vậy ở đây, trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”
  1. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đã qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.
  1. Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
  1. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.
  1. Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi tôi không sầu muộn, không khóc lóc.
  1. Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Ngươi là ai, hay là con trai của ai, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”
  1. “Đứa con trai nào mà ông đã tự mình thiêu đốt ở nơi hỏa táng, rồi than vãn và khóc lóc, người ấy chính là tôi; sau khi làm việc thiện, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
  1. “Chúng tôi đã không nhìn thấy vật thí ít hay nhiều của ngươi trong khi ngươi bố thí ở nhà mình, hay việc làm vào ngày trai giới tương tự như thế ấy; do nghiệp nào mà ngươi đã đi đến thế giới của chư Thiên?”
  1. “Tôi là người có bệnh, bị khổ sở, là người bệnh, có dáng vóc bệnh hoạn ở trong căn nhà của mình. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã xa lìa ô nhiễm, vị đã vượt qua hoài nghi, đấng Thiện Thệ, có trí tuệ tuyệt vời.
  1. Chính tôi đây, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, đã thực hiện việc chắp tay đến đức Như Lai. Sau khi làm việc thiện ấy, tôi đã đạt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”
  1. “Thật là kỳ diệu, phi thường! Quả thành tựu này của việc chắp tay là như thế. Tôi cũng vậy, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, tôi đi đến nương nhờ đức Phật ngay ngày hôm nay.”
  1. “Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín ông hãy đi đến nương nhờ đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương tự y như thế, ông hãy thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.
  1. Ông hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
  1. “Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đẹp cho tôi. Thưa vị Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho tôi. Tôi thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của tôi.
  1. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
  1. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”

Thiên Cung của Maṭṭakuṇḍalī.

7. 10

  1. Chúng ta hãy lắng nghe về sự gặp gỡ của vị Dạ-xoa và các người thương buôn đã xảy ra vào lúc ấy. Câu chuyện đã khéo được trao đổi bởi người này với người kia như thế nào, xin tất cả hãy lắng nghe câu chuyện ấy.
  1. Vị vua ấy tên là Pāyāsi, có danh tiếng, đã đi đến cộng trú với chư Thiên địa cầu. Ngay trong lúc đang vui thích ở Thiên cung của mình, vị phi nhân ấy đã nói với loài người rằng:[3]
  1. “Ở khu rừng hiểm trở, nơi không có loài người, ở sa mạc, thiếu nước, thiếu thức ăn, nơi vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, nhiều người bị mất trí vì nỗi sợ hãi sự hiểm trở.
  1. Ở nơi đây, không có các trái cây, và các loại cây có rễ, không có củi lửa, lấy đâu ở đây có thức ăn, ngoại trừ nhiều bụi bặm, lắm cát, các sự thiêu đốt, các sự nóng bức, và các sự khắc nghiệt?
  1. Vùng sa mạc tựa như cái chảo đã được đốt nóng, không có lợi ích, tương đương với thế giới khác (địa ngục); chỗ trú ngụ này là của những kẻ hung dữ trước đây, là vùng đất bị nguyền rủa.
  1. Còn các người, vì nguyên nhân gì, trong khi đang mong mỏi điều gì, lại vội vã tập hợp rồi đi vào chính khu vực này, do lòng tham, do sự sợ hãi, hay là đã bị lầm lẫn?”
  1. “Các chủ đoàn xe ở xứ sở Magadha và Aṅga sau khi cho chất lên hàng hoá với số lượng dồi dào, những người ấy đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận.
  1. Vào ban ngày, do không chịu đựng được cơn khát và mãi quan tâm đến sự thương xót đối với các con vật kéo xe, tất cả chúng tôi di chuyển với tốc độ này và đến được con đường vào ban đêm, không đúng thời điểm.
  1. Đã khởi hành chậm trễ, đã bị lạc đường, bị rối loạn như người mù, đã bị lạc lối trong khu rừng, ở chỗ vô cùng khó đi, ở giữa đầm cát, chúng tôi đây không nhận ra phương hướng, có tâm bị hoang mang.
  1. Và thưa vị Dạ-xoa, sau khi nhìn thấy việc này, việc chưa được thấy trước đây, là Thiên cung hạng nhất và ngài, trong khi đang mong mỏi về mạng sống sau này, đến lúc nhìn thấy (ngài), chúng tôi trở nên mừng rỡ, có tâm ý vui vẻ, phấn khởi.”
  1. “Vì nguyên nhân của cải, quý vị đi đến những phương trời khác biệt, đến bờ bên kia của biển cả và đầm cát này, đến con đường có sự di chuyển với gậy chống và lối đi có cắm cọc, đến những con sông, thêm nữa là những con đường hiểm trở ở các ngọn núi.
  1. Này quý vị, sau khi tiến vào lãnh thổ của những người khác, trong khi ngắm nhìn những con người thuộc nhiều quốc độ, điều nào đã được quý vị nghe, hoặc nhìn thấy, hãy cho chúng tôi nghe điều kỳ diệu ấy từ quý vị.”
  1. “Thưa Thiên tử, điều kỳ diệu hơn thế này chúng tôi không được nghe hoặc nhìn thấy, tất cả đều vượt trội (thế giới) loài người, sau khi nhìn thấy chúng tôi chưa được thỏa mãn về vẻ đẹp tuyệt vời.
  1. Ở không trung có những hồ sen với vô số bông hoa, với nhiều sen trắng, và những cây cối này được trổ quả thường xuyên, có những hương thơm tỏa ra cực kỳ thơm ngát.
  1. Có những cây cột bằng ngọc bích vươn cao một trăm (ratana),[4] có bề mặt trải dài làm bằng đá và san hô, có các viên ngọc mắt mèo và các viên hồng ngọc, và những trụ cột này làm bằng ngọc như ý.
  1. Có ngàn cây cột có năng lực không sánh bằng, phía trên chúng là Thiên cung tốt đẹp này, ở bên trong có châu báu, được kết hợp với hành lang bằng vàng, và được che phủ một cách khéo léo với những tấm lợp bằng vàng.
  1. (Thiên cung) này chói sáng với vàng từ sông Jambu đã được tinh luyện. (Khu vực ấy) khéo được đánh bóng, được hiện hữu với các tòa lâu đài, các cầu thang, các sân thượng, vững chãi, dễ thương, có dáng xinh xắn, khéo được phối hợp, vô cùng cuốn hút sự nhìn ngắm, làm hài lòng.
  1. Ở bên trong (Thiên cung) châu ngọc, có nhiều thức ăn thức uống, được tháp tùng bởi đoàn tiên nữ, được vang vang tiếng trống con, trống lớn, và các nhạc cụ, ngài được tôn vinh với sự ngợi ca và lễ bái.
  1. Ở tòa lâu đài nơi Thiên cung cao quý, làm thích ý, với sự đánh thức bởi các nhóm phụ nữ, ngài đây, không thể nghĩ bàn, có đủ mọi đức tính, vui sướng giống như đức vua Vessavaṇa ở Nalinī.
  1. Ngài là Thiên nhân, hay ngài là Dạ-xoa, là Chúa của chư Thiên, hay là bản thể nhân loại? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài. Xin ngài hãy nói tên (của ngài) là gì, có phải ngài là Dạ-xoa?”
  1. “Tôi chính là Dạ-xoa tên Serissaka, sống ở sa mạc, là người canh giữ đầm cát. Tôi hộ trì khu vực này, là người thực thi mệnh lệnh của đức Vua Vessavaṇa.”
  1. “(Công việc này) được nhận lãnh bởi ngài một cách ngẫu nhiên, được nảy sanh do sự phát triển, tự mình tạo ra, hay được chư Thiên giao cho? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được công việc hài lòng này?”
  1. “(Công việc này) không được nhận lãnh bởi tôi một cách ngẫu nhiên, không được nảy sanh do sự phát triển, không tự mình tạo ra, cũng không được chư Thiên giao cho. Công việc hài lòng này tôi đã đạt được nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện của chính mình.”
  1. “(Trước đây) phận sự của ngài là gì? Còn có hạnh kiểm cao đẹp gì? Quả thành tựu này là của việc gì đã khéo được thực hành? Những người thương buôn, các chủ đoàn xe hỏi ngài: Bằng cách nào mà ngài đã đạt được Thiên cung này?”
  1. “Vào lúc tôi cai quản vương quốc Kosala, Pāyāsi đã là danh hiệu của tôi. Lúc ấy tôi đã là người có quan điểm hư vô, bỏn xẻn, có bản tính xấu xa, và là người tuyên bố về đoạn kiến.
  1. Và rồi đã có vị Sa-môn Kumārakassapa, đa văn, có sự thuyết giảng sinh động, cao thượng. Khi ấy, vị ấy đã thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, đã xua đuổi những sự méo mó về quan điểm cho tôi.
  1. Tôi đây, sau khi lắng nghe sự thuyết giảng Giáo Pháp của vị ấy, đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình.
  1. Việc ấy là phận sự của tôi, việc ấy còn là hạnh kiểm cao đẹp. Quả thành tựu này là của việc đã khéo được thực hành ấy. Nhờ vào những nghiệp không xấu xa, nhờ vào những phước thiện ấy đấy, mà tôi đã đạt được Thiên cung này.”
  1. “Nghe rằng những người có trí tuệ đã nói sự thật; lời nói của các bậc hiền trí là không sai khác. Người có nghiệp phước thiện đi đến bất cứ nơi nào đều vui sướng ở tại nơi ấy, là người có dục lạc theo như ước muốn.
  1. Bất cứ nơi nào có sự sầu muộn và than vãn, có sự giết chóc và sự giam cầm, có sự chướng ngại, kẻ có ác pháp đi đến nơi ấy, không khi nào được thoát khỏi cảnh giới khổ đau.”
  1. “Tập thể (chư Thiên) tựa như có vẻ bị bối rối, tựa như đã bị làm vẩn đục vào giây phút này. Thưa Thiên tử, vậy thì do điều gì mà tập thể này và ngài đã có sự thất vọng?”
  1. “Thưa quý vị, từ khu rừng sirīsa kế cận những hương thơm này thuộc cõi Trời tỏa ra thơm ngát; sau khi đã tiêu diệt bóng tối vào ban ngày và ban đêm chúng tự tỏa đến Thiên cung này.
  1. Và khi đã trải qua một trăm năm, chỉ một quả của những cây này được kết trái. Kể từ khi tôi được sanh ra ở tập thể (chư Thiên) tại nơi này thì một trăm năm nhân loại đã trôi qua.
  1. tôi đã nhìn thấy tôi sẽ tồn tại ở Thiên cung này năm trăm năm, do sự cạn kiệt của tuổi thọ, do sự cạn kiệt của phước báu, tôi sẽ chết; chính vì nỗi sầu muộn ấy tôi bị hoảng loạn.”
  1. “Bằng cách nào mà vị ấy, thuộc thành phần như thế, sau khi đạt được Thiên cung không thể sánh bằng một cách lâu dài, lại có thể sầu muộn? Chỉ có những người nào đã được sanh lên một cách ngắn ngủi, phải chăng những người ấy, với phước báu ít ỏi, mới có thể sầu muộn?”
  1. “Việc quý vị nói lời nói yêu mến với tôi (nghĩa là) điều khuyên bảo của tôi thích hợp đối với quý vị. Thưa quý vị, quý vị đã được tôi hộ trì theo như ước muốn, vì thế quý vị hãy lên đường một cách an toàn.”
  1. “Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, chúng tôi với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự hào phóng đầy đủ theo như kế hoạch, sẽ làm lễ hội cao sang cho Serissa.”
  1. “Quý vị chớ có làm lễ hội cho Serissa, và tất cả sẽ trở thành hiện thực cho quý vị theo điều quý vị nói. Quý vị hãy tránh xa hẳn các nghiệp ác xấu, và hãy phát nguyện gắn bó với Giáo Pháp.
  1. Ở tập thể này, có người cận sự nam đa văn, được đầy đủ giới hạnh và phận sự, có đức tin, có sự hào phóng, và vô cùng tốt lành, có sự suy xét, tự hài lòng, có sự thận trọng.
  1. Là người không cố tình nói lời dối trá, không suy nghĩ đến việc hãm hại người khác, không gây ra sự chia rẽ, đâm thọc, và nói lời mềm mỏng, tử tế.
  1. Có sự tôn kính, có sự phục tùng, đã được huấn luyện, không độc ác, thanh tịnh về giới bậc thượng, có hạnh kiểm thánh thiện, con người ấy nuôi dưỡng mẹ và luôn cả cha đúng theo Pháp.
  1. Tôi nghĩ rằng vị ấy tầm cầu của cải vì lý do (phụng dưỡng) mẹ cha, không vì nguyên nhân của bản thân. Với sự qua đời của mẹ và cha, người ấy, với khuynh hướng xuất ly, sẽ thực hành Phạm hạnh.
  1. Là người ngay thẳng, không khúc mắc, không gian trá, không xảo quyệt, và không phát biểu theo lối viện cớ. Vị ấy, như thế ấy, là người tạo nên hành động đã được thực hiện một cách tốt đẹp, đứng vững trong Giáo Pháp, sao lại nhận lãnh sự khổ đau?
  1. Bởi lý do người ấy, tôi tự thân hiện ra. Vì thế, quý vị thương buôn hãy nhận thức Giáo Pháp. Ở đây, không có người ấy, quý vị có thể trở thành tro bụi, bị rối loạn như người mù, bị lạc lối trong khu rừng; (bởi vì) đối với kẻ đang xử tệ người ấy, như thế ấy hay việc khác nữa là điều dễ dàng. Quả vậy, việc kết giao với người tốt lành là hạnh phúc.”
  1. “Người ấy tên là gì, làm nghề nghiệp gì, tên gọi là gì, hơn nữa họ của người ấy là gì? Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng có mong muốn được gặp người ấy, vì lòng thương tưởng người ấy mà ngài đã đi đến nơi đây, bởi vì người nào mà ngài yêu quý thì lợi ích là thuộc về người ấy.”
  1. “Người nào là thợ cạo, có tên gọi là Sambhava, là người cận sự nam, có sự nuôi mạng bằng lược và dao cạo, quý vị biết người ấy, người ấy là người sai vặt của quý vị. Đúng vậy, chớ khinh chê người ấy, người ấy vô cùng tốt lành.”
  1. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi biết người mà ngài nói, nhưng chúng tôi quả không biết người ấy là người như thế ấy. Thưa vị Dạ-xoa, chúng tôi cũng sẽ tôn vinh người ấy sau khi lắng nghe lời nói cao cả của ngài.”
  1. “Bất cứ người nào ở đoàn xe này, thanh niên, lão niên, luôn cả trung niên, hết thảy tất cả những người ấy hãy bước lên Thiên cung, những kẻ keo kiệt hãy nhìn xem quả báo của các việc phước thiện.”
  1. “Tại đó, sau khi đã đưa người thợ cạo ấy lên phía trước tại nơi ấy, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước,’ hết thảy tất cả những người ấy đã bước lên Thiên cung tựa như (Thiên cung) Masakkasāra của vị Vāsava (Chúa Trời Sakka).[5]
  1. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Họ đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, họ đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
  1. Không có việc uống chất say, và họ đã không nói lời dối trá, họ đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình. Tại đó, hết thảy tất cả những người ấy (đã nói rằng): ‘Tôi trước’ và đã tuyên bố bản thân là người cư sĩ. Trong khi đang tùy hỷ với thần thông của vị Dạ-xoa đợt này đến đợt khác, đoàn xe, được cho phép, đã khởi hành.
  1. Sau khi đi đến vùng đất Sindhu và Sovīra, những người ấy với mục đích về tài sản, với mong mỏi về lợi nhuận, có sự đạt được đầy đủ theo như kế hoạch, đã trở về lại Pāṭaliputta không bị tổn hại.
  1. Những người ấy, sau khi đi về đến căn nhà của mình, có sự an toàn, được gần gũi với những người con và những người vợ, có sự vui thích, hớn hở, có tâm ý vui vẻ, trở nên mừng rỡ, đã làm lễ hội cao sang cho Serissa.
  1. Những người ấy đã cho xây dựng tòa nhà Serissakā. Sự thân cận với những người tốt lành là như thế ấy, sự thân cận với những đức tính của Giáo Pháp là có lợi ích lớn, nhờ vào sự lợi ích của một cận sự nam, hết thảy tất cả chúng sanh đã có trạng thái hạnh phúc.”

Thiên Cung của Serissaka.

7. 11

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Sau khi khéo đặt xuống tràng hoa đã được đặt xuống cẩu thả, sau khi sắp đặt nó ở ngôi bảo tháp của đấng Thiện Thệ, tôi trở nên có đại thần lực và có đại oai lực, được thọ hưởng các dục ở cõi Trời.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Khéo Đặt Xuống.

Phẩm Khéo Đặt Xuống là thứ bảy.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

(Chuyện) hai người nghèo khó, hai trú xá, kẻ làm thuê, người chăn bò, con ngựa Kanthaka, (Thiên cung) nhiều màu sắc, Maṭṭakuṇḍalī, Serissaka, (Thiên cung) khéo đặt xuống; là phẩm thứ ba của những người nam.”

TỤNG PHẨM THỨ TƯ.

CHUYỆN THIÊN CUNG ĐƯỢC CHẤM DỨT.

–ooOoo–

 

[1] Hai câu kệ cuối, 1198 và 1199, là của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 317).

[2] Thanh niên Maṭṭakuṇḍalī, sau khi chết sanh về cõi Trời, nhìn thấy người cha đang than khóc vì sự lìa đời của đứa con trai nên đã về lại nhân gian nhằm giúp cho cha vượt qua nỗi sầu muộn. Câu chuyện này cũng được ghi lại ở Jātaka-Aṭṭhakathā (Chú Giải Bổn Sanh) câu chuyện 449, và Dhammapada-Aṭṭhakathā (Chú Giải Pháp Cú) câu kệ số 2.

[3] Hai câu kệ đầu là lời giới thiệu của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 332).

[4] 1 ratana = 0.25 mét; như vậy 100 ratana = 25 mét.

[5] Sáu câu kệ cuối cùng, 1278-1283, là của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 350).

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Ngạ Quỷ ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc CHUYỆN THIÊN CUNG - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app