Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung – B. Thiên Cung Nam Giới – 5. Phẩm Cỗ Xe Lớn

TAM TẠNG PĀLI – VIỆT

VIMĀNAVATTHUPĀḶI & CHUYỆN THIÊN CUNG

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

B. THIÊN CUNG NAM GIỚI

5. PHẨM CỖ XE LỚN

  1. Thiên cung của thiên tử ếch 
  2. Thiên cung của Revatī    
  3. Thiên cung của thanh niên Bà-la-môn Chatta
  4. Thiên cung của người bố thí xúp cua   
  5. Thiên cung của người giữ cửa
  6. Thiên cung do việc nên làm
  7. Thiên cung do việc nên làm thứ nhì     
  8. Thiên cung do cây kim
  9. Thiên cung do cây kim thứ nhì 
  10. Thiên cung long tượng     
  11. Thiên cung long tượng thứ nhì
  12. Thiên cung long tượng thứ ba 
  13. Thiên cung cỗ xe nhỏ
  14. Thiên cung cỗ xe lớn

5. 1

  1. “Người nào, trong khi đang chói sáng nhờ vào thần lực và danh tiếng, trong khi đang làm cho khắp các phương sáng rực lên nhờ vào màu da nổi bật, mà đảnh lễ các bàn chân của Ta?”
  1. “Trước đây, con đã là con ếch ở nước, là loài có sự kiếm ăn ở nước. Trong khi con đang lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, có người chăn bò đã hại chết con.
  1. Xin Ngài hãy nhìn xem thần lực và danh tiếng của con, xin Ngài hãy nhìn xem năng lực của con, và xin Ngài hãy nhìn xem màu da và sự sáng chói của con, kẻ có niềm tịnh tín ở tâm trong chốc lát.
  1. Bạch đức Gotama, còn những người nào đã lắng nghe Giáo Pháp trong thời gian lâu dài, những người ấy đã đạt đến vị thế không bị dao động, là nơi không sầu muộn sau khi đi đến.”

Thiên Cung của Thiên tử Ếch.

5. 2

  1. “Đối với người có cuộc sống xa nhà lâu dài đã trở về an toàn từ phương xa, thân quyến bạn bè và người quen mừng vui đón người đã trở về.
  1. Tương tự y như thế, (đối với) người đã làm việc phước thiện từ thế gian này sanh đến thế giới khác, các phước báu tiếp đón (người ấy) tựa như các quyến thuộc tiếp đón người thân yêu đã trở về.”[1]
  1. “Này Revatā, này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cô hãy đứng lên. Này cô nàng không có nết hạnh bố thí, cánh cửa (địa ngục) là không bị đóng lại. Chúng tôi sẽ đưa cô đến nơi mà những kẻ bị đọa vào khổ cảnh than khóc, (và) những kẻ địa ngục bị gánh chịu khổ đau.”
  1. Sau khi chỉ nói như thế, các sứ giả cõi Dạ-ma, hai Dạ-xoa ấy, có cặp mắt đỏ ngầu, cao to, mỗi người một cánh tay, đã nắm lấy Revatā rồi đi đến nơi có sự hiện diện của hội chúng chư Thiên.
  1. “Thiên cung xinh đẹp, được che đậy bằng mạng lưới vàng, có màu sắc của mặt trời, đáng yêu, rực rỡ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người nào?[2]
  1. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được sáng chói cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người nào đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung?”
  1. “Ở Bārāṇasī, đã có người cận sự nam tên là Nandiya, không bỏn xẻn, là người thí chủ, là người nhân từ. Thiên cung này, có người đông đảo, đang rực sáng tựa như hào quang của mặt trời, là của người ấy.
  1. Các nhóm phụ nữ, được thoa tinh chất của trầm hương, làm cho cung điện được rực sáng cả hai nơi (bên trong và bên ngoài). Thiên cung được nhìn thấy có màu sắc như là mặt trời. Người ấy đã đạt đến cõi Trời và vui sướng ở Thiên cung.”
  1. “Tôi là người vợ của Nandiya, là nữ gia chủ, có uy quyền đối với tất cả gia đình. Giờ đây, tôi sẽ thích thú ở Thiên cung của chồng, tôi không mong mỏi về việc nhìn thấy địa ngục.”
  1. “Này cô nàng có bản tính vô cùng xấu xa, cái địa ngục ấy là dành cho cô. Việc phước thiện đã không được cô làm khi ở thế giới có cuộc sống. Bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời.”
  1. “Phân và nước tiểu nhơ bẩn được nhìn thấy là cái gì vậy? Cái mùi hôi thối này là cái gì? Cái phân bốc mùi này là cái gì?”
  1. “Này Revatā, cái ấy gọi là địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, là nơi cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.”
  1. “Vậy việc làm ác nào đã được làm do thân, do khẩu, do ý? Vì việc gì mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam?”
  1. “Cô lừa gạt các Sa-môn, các Bà-la-môn, và luôn cả những người khốn khổ khác nữa bằng lời nói dối trá; việc xấu xa ấy đã do cô gây ra.
  1. Này Revatā, do việc ấy mà bị gánh chịu địa ngục Saṃsavaka có độ sâu một trăm lần chiều cao của người nam, ở nơi ấy cô (sẽ) bị nung nấu hàng ngàn năm.
  1. Chúng chặt các bàn tay, rồi luôn cả các bàn chân, chúng xẻo các lỗ tai, rồi luôn cả lỗ mũi, rồi còn có các bầy quạ bu lại, tụ tập lại, ngấu nghiến kẻ đang quằn quại.”
  1. “Quả là tốt đẹp, xin các vị hãy đưa tôi trở về, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện, là việc mà sau khi thực hành, người ta được hạnh phúc và không bị ân hận về sau này.”
  1. “Trước đây cô đã xao lãng rồi bây giờ than van. Cô sẽ gánh chịu quả thành tựu của các nghiệp đã làm của mình.”
  1. “Vị nào, sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến thế giới loài người, được tôi hỏi rồi nói như vầy: ‘Nàng nên dâng cúng vật thí, y phục, chỗ nằm, và cơm nước ở những vị đã buông các gậy gộc xuống, bởi vì người nữ bỏn xẻn, giận dữ, có bản tính xấu xa, không đạt được sự cộng trú với những người đã đi đến cõi Trời?’
  1. Chắc chắn rằng tôi đây, khi đã đi khỏi nơi này, thì sau khi đạt được việc sanh lại làm người, (tôi sẽ) là người nhân từ, đầy đủ giới hạnh, tôi sẽ thực hiện nhiều điều tốt đẹp với việc bố thí, với việc hành thiện, với việc thu thúc, với việc rèn luyện.
  1. Với tâm ý tịnh tín, tôi sẽ cho dựng lên các tu viện, các cây cầu ở chỗ khó đi, nước uống dọc đường, và giếng nước.
  1. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng là có sự thọ trì tốt đẹp về tám giới.
  1. Tôi sẽ hành trì ngày trai giới, luôn luôn thu thúc trong các giới, và sẽ không xao lãng trong việc bố thí; điều này đã được đích thân tôi nhìn thấy.”
  1. Trong khi cô ấy đang rên rỉ như thế, đang quằn quại thế này thế khác, chúng đã ném cô ấy vào địa ngục ghê rợn, chân phía trên, đầu phía dưới.
  1. “Trước đây, tôi đã là người bỏn xẻn, là người mắng nhiếc các vị Sa-môn và Bà-la-môn, và sau khi dối gạt người chồng bằng việc không thật, tôi bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn.”

Thiên Cung của Revatī.

5. 3

  1. “Vị nào là đấng quý cao trong số các bậc thuyết giảng của loài người, là bậc Hiền Trí dòng Sakya, đức Thế Tôn, có phận sự đã làm xong, đã đi đến bờ kia, có được sức mạnh và sự tinh tấn; ngươi hãy đến gần đấng Thiện Thệ ấy với mục đích nương nhờ.[3]
  1. Giáo Pháp này không nhiễm ái luyến, không dục vọng, không sầu muộn, không bị tạo tác, không đáng ghét, ngọt ngào, có sự hoàn thiện, khéo được phân tích; ngươi hãy đến gần Giáo Pháp này với mục đích nương nhờ.
  1. Và nơi nào người ta đã nói vật được bố thí là có quả báo lớn, (tức là) ở bốn đôi của hạng người trong sạch; tám hạng ấy là các cá nhân đã nhìn thấy Giáo Pháp; ngươi hãy đến gần Hội Chúng này với mục đích nương nhờ.”
  1. “Không giống như mặt trời chói sáng ở bầu không gian, mặt trăng và sao Phussa đều không chiếu sáng giống như người này, vị có ánh sáng vĩ đại, không thể đo lường; ngươi là ai mà đã từ cõi Ba Mươi (Ba) đi đến trái đất?[4]
  1. Ánh sáng với sự vượt trội hai mươi do-tuần cắt đứt các ánh hào quang của mặt trời, và làm cho ban đêm cũng giống như ban ngày. Thiên cung là hoàn toàn trong sạch, không bụi bặm, xinh đẹp.
  1. Với nhiều sen trắng, sen hồng nhiều màu sắc, được trộn lẫn với các bông hoa, được tô điểm nhiều màu sắc, được bao phủ bởi mạng lưới vàng không bụi, sạch bụi, (Thiên cung ấy) chói sáng ở không trung cũng giống như mặt trời.
  1. Với các tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng, với các chất bôi thơm như là agaru,piyaṅgu, và trầm hương, với các làn da mềm mại tựa như vàng, (Thiên cung ấy) được hoàn mãn tựa như bầu trời được hoàn mãn nhờ vào các vì sao.
  1. Ở đây, có nhiều người nam người nữ với nhiều sắc thái, ở đây là những người có thiện tâm, có các đồ trang sức được điểm trang với các bông hoa, được tự do theo làn gió, tỏa ra hương thơm, được trải rộng với (dây buộc bằng) vàng (ở bím tóc), có y phục bằng vàng.
  1. Quả thành tựu này là do sự an tịnh và rèn luyện nào? Do kết quả của việc làm nào mà ngươi đã được sanh ra ở nơi đây? Và như thế nào mà ngươi đã được ngự đến cung điện này? Nào, đã được hỏi, ngươi hãy nói về điều ấy theo từng phần một.”
  1. “Bởi vì, tại nơi đây, ở con đường lộ, sau khi gặp gỡ với người thanh niên, bậc Đạo Sư trong khi thương xót đã giáo huấn. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp thuộc về báu vật cao quý của Ngài, Chatta đã nói rằng: ‘Tôi sẽ thực hiện.’
  1. ‘Ngươi hãy đi đến nương nhờ đấng Jina cao quý tối thượng, luôn cả Giáo Pháp nữa, và tương tự y như thế (với) Hội Chúng tỳ khưu.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: – Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
  1. ‘Và ngươi chớ thực hành việc giết hại sanh mạng theo nhiều cách, không trong sạch, bởi vì các bậc thiện trí đã không ngợi khen việc không kiềm chế đối với các sanh mạng.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: – Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
  1. ‘Và ngươi chớ nghĩ đến vật đã được gìn giữ thuộc về người khác, vật không nên được lấy đi, vật không được cho.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
  1. ‘Và ngươi chớ đi đến những người vợ của kẻ khác, những người nữ đã được gìn giữ bởi người nam khác; việc này là không thánh thiện.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
  1. ‘Và ngươi chớ nói việc không đúng sự thật, theo cách thức sai khác, bởi vì các bậc thiện trí đã không ngợi khen lời nói dối trá.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.’
  1. ‘Và do vật nào mà sự nhận biết của con người lìa khỏi, ngươi hãy lánh xa tất cả chất say ấy.’ ‘Thưa Ngài, đầu tiên tôi đã nói: Không; sau đó tôi đã làm đúng theo lời nói của Ngài.
  1. Tôi đây, ở nơi này, sau khi làm theo năm điều học, sau khi thực hành theo Giáo Pháp của đức Như lai, đã đi con đường nối liền hai ngôi làng, ở giữa những kẻ cướp. Chúng đã giết hại tôi ở tại nơi ấy vì nguyên nhân của cải.
  1. Tôi nhớ lại điều tốt đẹp này chỉ có chừng ấy, tôi không biết về điều gì khác hơn thế nữa. Do nghiệp đã khéo được thực hành ấy, tôi đã được sanh lên ở các cảnh giới chư Thiên, có các dục theo sự ao ước.
  1. Xin Ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của sự thu thúc trong giây lát trong phút chốc nhờ vào sự thực hành thuận theo Giáo Pháp. Trong lúc nhìn thấy tôi tựa như đang chói sáng nhờ vào danh tiếng; nhiều người, có nghiệp hạ liệt, ganh tỵ với tôi.
  1. Xin Ngài hãy nhìn xem, nhờ vào sự thuyết giảng chút ít, tôi đã đi đến cõi Trời và đã đạt đến an lạc. Còn những người nào thường xuyên lắng nghe Giáo Pháp, tôi nghĩ rằng những người ấy chạm đến Bất Tử, sự an toàn.
  1. Việc đã được làm, dầu chỉ chút ít, ở Giáo Pháp của đức Như Lai là có quả thành tựu vĩ đại, bao la. Xin Ngài hãy nhìn xem, với phước thiện đã làm, Chatta làm cho trái đất chói sáng, thậm chí giống như mặt trời.
  1. Việc tốt đẹp này là gì? Chúng ta nên thực hành điều gì? Nhiều người, sau khi gặp nhau bàn thảo như thế. Chúng ta đây đã đạt được bản thể nhân loại thêm lần nữa; đã được đạt đến, chúng ta hãy sống có giới hạnh.
  1. Và bậc Đạo Sư, với nhiều sự tiếp độ, bậc có lòng thương tưởng, đã đi đến với tôi vào lúc sáng sớm, khi tôi còn sống, tôi đây đã đi đến gặp bậc có tên là Sự Thật (nói rằng): ‘Xin Ngài hãy thương tưởng, hãy để chúng tôi nghe Giáo Pháp thêm lần nữa.’
  1. Và ở đây, những vị nào dứt bỏ sự luyến ái ở các dục, sau khi dứt bỏ sự tiềm ẩn về hữu ái, và si mê, các vị ấy không đi đến thai bào lần nữa, bởi vì các vị đã ngự đến cảnh giới Niết Bàn, có trạng thái mát mẻ.”

Thiên Cung của Thanh Niên Bà-la-môn Chatta.

5. 4

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Vật gợi lại ký ức là con cua được gắn ở cánh cửa, có mười chân, đã được hoàn tất, bằng vàng, chói sáng.[5]
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Bố Thí Xúp Cua.

5. 5

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. Tuổi thọ một ngàn năm thuộc cõi Trời của tôi là (do) việc đã thưa gởi bằng lời, việc đã vận hành bởi ý;[6] chỉ với chừng ấy (việc làm) người có hành động phước thiện sẽ tồn tại, được thọ hưởng các dục ở cõi Trời.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung của Người Giữ Cửa.

5. 6

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức ở nơi chư Phật là những vị đã thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đã được bố thí có quả báo lớn.
  1. Quả thật vì sự lợi ích của tôi, đức Phật đã từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đã đi đến cõi Trời Ba Mươi Ba.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung do Việc Nên Làm.

5. 7

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Các việc phước thiện là những việc nên được thực hiện bởi người sáng trí, bởi người có sự nhận thức, ở nơi các vị tỳ khưu là những vị đã thực hành đúng đắn, là nơi mà vật đã được bố thí có quả báo lớn.
  1. Quả thật vì sự lợi ích của tôi, vị tỳ khưu đã từ khu rừng đi đến ngôi làng. Sau khi khởi tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đã đi đến cõi Trời Ba Mươi Ba.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung do Việc Nên Làm thứ nhì.

5. 8

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Vật (được thành tựu) ấy không phải là vật đem ra bố thí. Chính vật (được thành tựu) ấy là tốt hơn chính cái vật đem ra bố thí. Đối với tôi, cây kim đã được bố thí, (quả thành tựu) còn tốt hơn chính cây kim.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung do Cây Kim.

5. 9

  1. “Thiên cung này cao, có cây trụ bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp.
  1. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, …
  1. … tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng cây kim đến vị ấy.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung do Cây Kim thứ nhì.

5. 10

  1. “Sau khi cỡi lên con long tượng có thân trắng toát, không khuyết điểm, có ngà, có sức mạnh, có tốc độ vĩ đại, là con long tượng cao quý, dùng để cưỡi, đã khéo được sửa soạn, ngươi đã đi đến nơi đây theo đường không trung, ở trên bầu trời.
  1. Có những hồ sen với nước trong sạch, khéo nở rộ hoa, đã được hóa hiện ra ở hai ngà của con voi, có những nhóm nhạc cụ đã được vang lên ở những đóa sen, và có những phụ nữ quyến rũ này nhảy múa.
  1. Ngươi đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực. Khi là con người ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Được tịnh tín, tôi đã tự tay cúng dâng ở ngôi bảo tháp của bậc Đại Ẩn Sĩ Kassapa chỉ có tám bông hoa đã bị đánh rơi.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Long Tượng.

5. 11

  1. “Sau khi cỡi lên con long tượng to lớn, toàn thân màu trắng, đứng đầu các con voi, dẫn đầu đám phụ nữ đi dạo từ rừng này sang rừng khác, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
  1. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi?
  1. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được chính ngài Vaṅgīsa hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, tôi đã là người nam cư sĩ của đấng Hữu Nhãn. Tôi đã kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi đã xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời.
  1. Không có việc uống chất say, và tôi đã không nói lời dối trá, tôi đã được vui thích (chỉ) với người vợ của mình, có tâm tịnh tín, tôi đã trân trọng dâng cúng vật thí dồi dào về cơm ăn và nước uống.
  1. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi.
  1. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”

Thiên Cung Long Tượng thứ nhì.

5. 12

  1. “Vị nào, với phương tiện di chuyển của cõi Trời, với con voi toàn thân màu trắng, có âm thanh vang vang đã được vỗ lên từ các loại nhạc cụ, được tôn vinh ở trên không trung?
  1. Phải chăng ngài là Thiên nhân, là nhạc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây? Trong khi không biết, chúng tôi xin hỏi ngài, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngài?”
  1. “Ta không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đình, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, người đã bố thí trước đây; những Thiên nhân nào có tên là Sudhammā,[7] ta là một trong số các vị ấy.”
  1. “Chúng tôi nghiêm trang chắp tay hỏi vị Thiên nhân Sudhammā, sau khi thực hiện nghiệp gì ở cõi người thì được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā?”
  1. “Người nào bố thí ngôi nhà mía, ngôi nhà cỏ, và ngôi nhà vải, sau khi bố thí một trong ba việc này thì được sanh lên (Thiên cung) Sudhammā.”

Thiên Cung Long Tượng thứ ba.

5. 13

  1. “Với cây cung vững chắc, ngươi đứng, tựa vào cây cung bằng gỗ lõi. Vậy ngươi là vị Sát-đế-lỵ con của đức vua, hay là thợ săn sống ở rừng?”
  1. “Thưa ngài, tôi là con trai của vị chúa tể xứ Assaka, sống ở rừng. Thưa vị tỳ khưu, tôi nói với ngài tên của tôi; mọi người đã biết tôi là ‘Sujāta.’
  1. Trong khi tìm kiếm các con thú rừng, trong khi đi sâu vào khu rừng bao la, và tôi đã không nhìn thấy con nai ấy; sau khi nhìn thấy ngài, tôi đã đứng lại.”
  1. “Này người có phước báu lớn lao, việc đi đến của ngươi là tốt đẹp, hơn nữa đối với ngươi không phải là việc đi đến sai trái. Ngươi hãy lấy nước từ nơi này, rồi rửa sạch các bàn chân của ngươi.
  1. Còn đây là nước uống mát lạnh đã được mang lại từ hang núi. Này hoàng tử, từ nơi ấy, sau khi uống xong, ngươi hãy đến ngồi ở tấm trải này.”
  1. “Thưa bậc đại hiền trí, lời nói của ngài quả là tốt lành, nên được lắng nghe, không sai sót, và có lợi ích, ngọt ngào; ngài nói điều lợi ích sau khi đã suy xét.
  1. Ngài có niềm vui thú gì trong khi sống ở rừng? Thưa vị chúa của các bậc ẩn sĩ, đã được hỏi, xin ngài hãy nói. Sau khi lắng nghe đường lối trình bày của ngài, chúng tôi tự thực hành mục đích và đạo lộ của Giáo Pháp.”
  1. “Này hoàng tử, sự không hãm hại tất cả các sanh mạng khiến chúng tôi vui thích, và sự kiêng cữ về việc trộm cắp, tà hạnh, và uống chất say.
  1. Sự kiêng cữ, sự hành thiện, sự nghe nhiều, sự biết ơn về việc đã làm, là được khen ngợi ngay trong hiện tại; các pháp này là đáng được khen ngợi.
  1. Này hoàng tử, ngươi hãy nhận biết rằng trong vòng năm tháng, cái chết sẽ cận kề ngươi, ngươi hãy giải thoát bản thân.”
  1. “Tôi nên đi đến xứ sở nào, (nên làm) việc gì và (phận sự) gì của người nam, hoặc là nhờ vào kiến thức gì tôi có thể trở thành không già không chết?”
  1. “Này hoàng tử, lãnh địa ấy, việc làm, kiến thức, và (phận sự) của người nam, nơi mà sau khi đi đến con người có thể trở thành không già không chết thì không có.
  1. Những người có tài sản lớn, có của cải lớn, thậm chí những Sát-đế-lỵ cai quản vương quốc, có dồi dào tài sản và lúa gạo, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
  1. Nếu ngươi đã được nghe về những người con trai của Andhakaveṇhu là dũng cảm, anh hùng, có sự chiến đấu mãnh liệt, ngay cả các vị ấy, (trong khi) được xem là trường cửu, cũng đã đạt đến sự cạn kiệt của tuổi thọ, cũng bị tiêu hoại.
  1. Các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, nô lệ, hạ tiện, hốt rác, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
  1. Những người nào trì tụng chú thuật (Vệ Đà) gồm sáu phần đã được nghĩ ra bởi đấng Tạo Hóa, những người này và những người khác là do kiến thức, ngay cả những người ấy cũng không trở thành không già không chết.
  1. Hoặc ngay cả những vị ẩn sĩ là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự an tịnh, có bản thân đã được kiềm chế, ngay cả những vị đạo sĩ khổ hạnh ấy cũng lìa bỏ cơ thể theo thời gian.
  1. Ngay cả những vị A-la-hán có bản thân đã được tu tập, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, cũng quăng bỏ thân xác này do sự diệt tận của thiện và ác.”
  1. “Thưa vị đại hiền trí, các câu kệ ngôn của ngài là khéo được nói lên, có sự lợi ích. Tôi được thuyết phục vì điều đã được khéo thuyết, và xin ngài hãy là nơi nương nhờ của tôi.”
  1. “Ngươi chớ đi đến nương nhờ ta, hãy tiến đến nương nhờ chính vị ấy, người con trai dòng Sakya, bậc Đại Anh Hùng, người mà ta đã đi đến nương nhờ.”
  1. “Thưa ngài, bậc Đạo Sư ấy của ngài là ở xứ sở nào? Tôi cũng sẽ đi để diện kiến đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ.”
  1. “Với sự xuất thân từ dòng tộc Okkāka ở xứ sở thuộc về phía đông, Ngài đã là bậc siêu nhân ở nơi ấy, và Ngài quả thật đã viên tịch Niết Bàn.”
  1. “Thưa ngài, nếu đức Phật, bậc Đạo Sư của Ngài còn hiện tiền, tôi có thể đi hàng ngàn do-tuần để hầu cận.
  1. Thưa ngài, chính vì bậc Đạo Sư của Ngài đã viên tịch Niết Bàn, tôi cũng đi đến nương nhờ bậc Đại Anh Hùng mặc dầu Ngài đã Niết Bàn.
  1. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thượng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.
  1. Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”
  1. “Tựa như vật có ngàn ánh hào quang (mặt trời), giống như ánh sáng vĩ đại, trong khi di chuyển theo quỹ đạo ở bầu trời, chiếu sáng như thế nào, bằng cách thức như thế ấy, cỗ xe vĩ đại này của ngươi được trải dài bảy do tuần ở xung quanh.
  1. Được phủ lên toàn bộ với những mảnh vàng; ngực của cỗ xe này được tô điểm với những viên ngọc trai, với những ngọc ma-ni; những nét khắc chạm của vàng và bạc, được làm bằng ngọc bích, đã khéo được biến hóa, khiến cho (cỗ xe) trở nên rực rỡ.
  1. Phần đầu này (của cái gọng xe) được cấu tạo bằng ngọc bích, và cái ách này được tô điểm với hồng ngọc, và còn thêm những con ngựa này, có tốc độ của ý, được thắng cương bằng vàng và bạc, chói sáng.
  1. Ngươi đây đứng ở cỗ xe bằng vàng, đã được khẳng định, tựa như vị Chúa của chư Thiên với cỗ xe một ngàn ngựa. Này vị có danh tiếng, ta hỏi ngươi, con người thông thái, làm thế nào ngươi đã đạt được (danh vọng) cao sang này?”
  1. “Thưa ngài, tôi tên là Sujāta. Trước đây, tôi đã là vị hoàng tử. Và ngài, do lòng thương tưởng, đã hướng dẫn tôi vào sự kiềm chế.
  1. Và sau khi biết tôi có tuổi thọ đã bị cạn kiệt, ngài trao cho (tôi) xá-lợi của bậc Đạo Sư (nói rằng): ‘Này Sujāta, hãy tôn vinh vật này; vật này sẽ đem lại lợi ích cho ngươi.’
  1. Sau khi tôn vinh vật ấy bằng những vật thơm, bằng những tràng hoa, tôi đây được hưng phấn. Sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi được sanh lên (khu vườn) Nandana.
  1. Ở khu vườn Nandana đáng yêu, được những bầy chim khác nhau gắn bó, được tôn vinh bởi các tiên nữ, tôi thích thú với những điệu múa lời ca.”

Thiên Cung Cỗ Xe Nhỏ.

5. 14

  1. “Ngươi bước lên cỗ xe xinh đẹp được tô điểm nhiều màu sắc này, chiếc xe ngựa được kéo bởi một ngàn con, đang di chuyển lân cận khu vực vườn hoa, (ngươi) tựa như Vāsava,[8]vị Chúa của chư Thiên, đấng chủ tể của các sanh linh.
  1. Cả hai bên sườn cỗ xe của ngươi được làm bằng vàng, được kết hợp chặt chẽ với những thanh đứng và những thanh ngang, có cái khung được tạo ra khéo léo, đã được hoàn tất bởi nghệ nhân bậc thầy; (cỗ xe) chói sáng tựa như mặt trăng ngày rằm.
  1. Được phủ lên với mạng lưới bằng vàng, được tô điểm với nhiều loại châu ngọc khác nhau, có âm thanh vô cùng vui tai, và vô cùng rực rỡ, cỗ xe này chói sáng với những cánh tay và bàn tay (đang phe phẩy) những cây phất trần.
  1. Và các ổ trục này (của các bánh xe) đã được biến hóa ra bởi ý, được trang hoàng ở khoảng giữa bên trong các chân của cỗ xe; và các ổ trục này được tô điểm với hàng trăm nét vẽ, chúng chiếu sáng với hàng trăm tia sáng, tựa như tia chớp.
  1. Cỗ xe này được trải lên với vô số tranh vẽ, và vành bánh xe là to rộng có ngàn ánh hào quang; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên.
  1. Đã được tô điểm ở phần đầu, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, luôn luôn được trong sạch, đáng yêu, rực rỡ, được kết hợp dày đặc với các tia sáng bằng vàng, (cỗ xe) chói sáng nổi bật, tựa như có các tia sáng màu ngọc bích.
  1. Và những con ngựa này, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, cao to, có tốc độ nhanh, tương xứng với số đông, khổng lồ, vĩ đại, có sức mạnh, có tốc lực lớn lao, sau khi biết được tâm ý của ngươi, chúng di chuyển theo y như thế.
  1. Và tất cả những con vật bốn chân này đã được phối hợp, sau khi biết được tâm ý của ngươi chúng di chuyển theo y như thế. Chúng kéo (cỗ xe) một cách đồng đều, chúng nhu thuận, không náo động, vui tính, là hạng nhất trong các loài ngựa.
  1. Chúng giũ (lông), phi nhanh, phóng vào khoảng không, trong lúc làm rung chuyển dữ dội các vật trang sức đã khéo được thực hiện; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên.
  1. Âm vang của cỗ xe và của những vật trang sức, tiếng gầm của vó ngựa và của tiếng hí vang, âm thanh vô cùng dễ thương của (đám đông) đã hội tụ lại được nghe (tựa như) những nhạc cụ của các nhạc sĩ Thiên đình ở khu rừng nhiều màu sắc.
  1. Các nàng (tiên nữ) ấy đứng ở cỗ xe, có những cặp mắt lim dim của loài nai, có hàng mi dày, cười đùa, có lời nói đáng yêu, được che phủ với mạng lưới bằng ngọc bích, có làn da mảnh mai, vẫn luôn luôn được tôn vinh bởi các nhạc sĩ Thiên đình và các vị đứng đầu chư Thiên.
  1. Các nàng ấy, với tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng quyến rũ, có cặp mắt to, với con mắt đỏ rực, đã được sanh ra tốt đẹp ở dòng dõi cao sang, có thân hình xinh xắn, có nụ cười vô tư, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
  1. Các nàng ấy có mang vòng xuyến bằng vàng, có y phục đẹp, có vòng eo đẹp, đùi và ngực đầy đặn, có các ngón tay tròn, khuôn mặt đẹp, có nét xinh xắn, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
  1. Những nàng khác, trẻ trung, có những bím tóc đẹp, có các sợi tóc được tết vào nhau, và (những cuộn tóc) được phân chia đồng đều, rực rỡ. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
  1. Các nàng có những vòng hoa đội đầu được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
  1. Các nàng ấy có những tràng hoa được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng.
  1. Các vật trang sức ở cổ, ở các bàn tay, ở các bàn chân, tương tự y như thế ở đầu, khiến cho mười phương chiếu sáng toàn bộ, tựa như mặt trời mùa thu đang mọc lên.
  1. Và bị lay động bởi lực đẩy của làn gió, các tràng hoa và các vật trang sức ở các cánh tay phát ra âm thanh đáng yêu, trong trẻo, mỹ miều, có vẻ đáng được lắng nghe bởi tất cả những người có sự nhận thức.
  1. Này vị chúa của chư Thiên, các cỗ xe và những con long tượng đứng ở hai bên tại khu đất của vườn hoa, cùng các nhạc cụ và âm thanh làm cho chính ngươi được vui thích, giống như cây đàn vīṇā với mặt đàn, bầu đàn, và cần đàn (làm mọi người được vui thích).
  1. Này vị chúa tể, trong khi các cây đàn vīṇā này, gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng, đang được tấu lên dồn dập, gây xáo động trái tim, các nàng tiên nữ, các cô gái đã được học tập, nhởn nhơ giữa các đóa sen.
  1. Và khi các bài ca, các khúc nhạc, và các vũ công này hợp chung lại thành một, khi ấy ở nơi này họ nhảy múa, khi ấy ở nơi này các tiên nữ, những phụ nữ cao quý đang làm cho cả hai nơi chiếu sáng.
  1. Ngươi đây vui thích, với sự đánh thức bởi các nhóm nhạc cụ, trong khi đang được nể vì tựa như vị (thần Inda) có tia sét là vũ khí. Này vị chúa tể, có sự gây xáo động trái tim ở nơi các cây đàn vīṇā gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng này.
  1. Trước đây, ngươi đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây? Hay là ngươi đã hành trì ngày trai giới nào, đã say mê sự thực hành pháp, sự hành trì nào?
  1. Năng lực thần thông lớn lao này của ngươi, điều này không phải là của nghiệp nhỏ nhoi đã được làm, hoặc của ngày trai giới đã được hoàn thành tốt đẹp trong quá khứ, bởi vì ngươi tỏa sáng vượt trội hội chúng chư Thiên.
  1. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.”
  1. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã nói rõ quả báo này là của nghiệp nào:
  1. “Đức Phật Kassapa, vị có giác quan đã được chế ngự, có sự ra đi tuyệt vời, đấng Tối Thượng Nhân, nhân vật cao cả, bậc đang mở ra cánh cửa Bất Tử ấy, vị Trời vượt trội các vị Trời, có trăm dấu hiệu phước báu.
  1. Tôi đã nhìn thấy Ngài, đấng Khổng Tượng, người đã vượt qua dòng nước lũ, tương tự hình tượng bóng láng bằng vàng. Sau khi nhìn thấy Ngài, sau khi nhìn thấy chính biểu hiện của (Giáo Pháp) đã khéo được thuyết giảng ấy, tôi đã tức thời trở nên có tâm ý trong sạch.
  1. Ở nơi trú ngụ của mình đã được trải lót bông hoa, tôi đây, với tâm ý không có sự ràng buộc, đã cống hiến đến Ngài cơm ăn, nước uống, và luôn cả y phục sạch sẽ, hảo hạng, được thành tựu phẩm chất.
  1. Sau khi làm toại ý bậc Tối Thượng của các loài hai chân ấy với cơm ăn, với nước uống, và với y phục, với vật nhai, với thức ăn, và với cao lương mỹ vị, tôi đây vui sướng ở thành phố của chư Thiên theo tuần tự của các cõi Trời.
  1. Bằng cách thức này, sau khi dâng hiến việc hiến dâng này không có sự ngần ngại, được trong sạch theo ba cách, sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi vui sướng ở thành phố của chư Thiên tương tự như vị Thần Inda.
  1. Thưa bậc hiền trí, người đang mong mỏi tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, và sức mạnh có hình thức hảo hạng, nên cống hiến nhiều cơm ăn nước uống đã khéo được chuẩn bị ở bậc có tâm ý không có sự ràng buộc.
  1. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, người đã đi đến trạng thái nên được hiến cúng, xứng đáng với sự hiến cúng tối thượng, (đã đi đến) sự tồn tại ở quả báo to lớn đối với những người mong mỏi phước báu, người là bậc tốt hơn hay tương đương với đức Phật không được biết đến.”

Thiên Cung Cỗ Xe Lớn.

Phẩm Cỗ Xe Lớn là thứ năm.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

(Chuyện Thiên tử) Ếch, Revatī, Chatta, (xúp) cua, người giữ cửa, hai việc nên làm, hai (chuyện) cây kim, ba (chuyện) long tượng, và hai (chuyện) cỗ xe; được gọi là phẩm thứ nhất của những người nam.”            

TỤNG PHẨM THỨ BA.

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Thiên Cung“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Chuyện Ngạ Quỷ ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc CHUYỆN THIÊN CUNG - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app