Tam Pháp Yếu – So Sánh Phật Giáo Và Triết Học Của Lucretius Của Đại Đức Bửu Chơn

So Sánh Phật Giáo Và Triết Học Của Lucretius Của Đại Đức Bửu Chơn

Nơi đây, chúng tôi muốn chỉ dẫn những điểm tương hợp giữa triết học của ông Lucretius và Đức Phật.

Ông Lucretius là một nhà triết học và thi sĩ trứ danh, sanh vào năm 99 trước kỷ nguyên Công giáo (99 B.C). Triết lý mà ông trình bày không phải là hoàn toàn của ông, mà nó được mượn một phần nào trong triết học của nhà triết gia Hy Lạp xưa kia tên là Epicurus. Trong sáu quyển sách triết học mà ông Lucretius đã viết đều có những tư tưởng của nhà triết gia trứ danh này. Nó đã trình bày dính liền và rõ rệt nằm trong sáu đoạn một cách trong sáng, trong sự khởi đầu, Đức Phật và Lucretius đều nêu đầu đề về phương cách canh tân gọi là phương thức hợp lý bất tổn thương để xem xét. Như vậy, Phật giáo ám chỉ một giáo lý “phân tách và hợp lý” (vibhajjavādā). Đức Phật cũng như Lucretius đều tuyên bố con người phải dục tắt lòng tham dục mới được giải thoát. Nếu phân tách một cách bình luận về triết học trong thời đại của các ngài cho biết những lý luận giả dối sẵn có và tường thuật lại những triết lý của chính các ngài ở đặc tính là “hợp lý” (rationalism).

Đức Phật sanh ra nhằm thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên tây lịch (6th Century B.C) nơi xứ Ấn Độ trong thời kỳ mà Bà-la- môn giáo đang thạnh hành. Sự hiệu lực và chính đáng của họ thì khỏi cần tranh luận. Sự hy sinh bằng máu, sự mê hoặc bằng bùa chú, sự sùng bái, sự cầu khẩn các vị thần linh có quyền lực trong vũ trụ. Tất cả điều này trong xã hội được chấp nhận như là những phương pháp để giải thoát sự khổ não của con người. Sự sợ về cái chết, sự sợ các vị thần có quyền lực bị ám ảnh trong tâm khảm của người si mê cũng như người có học thức. Để phá tan sự lừa dối dị đoan này và giúp cho con người được thật sự giải thoát, Đức Phật mới thuyết giáo lý cao siêu của Ngài cho đời những câu đáng ghi nhớ như vầy: “… aparuta amatassa dvāra ye sotavanto pamuncantu saddhaṃ…– Cửa Niết-bàn đã mở cho những ai có lỗ tai (là trí tuệ) đặt sự tín nhiệm và đức tin vào”.

Cũng tương tợ với quan niệm của Đức Phật, ông Lucretius lại chỉ trích thẳng tay các tôn giáo và tư tưởng thần linh. Ông tin tưởng chắc chắn rằng sau khi phân tách không mê hoặc, con người khởi sự thấy rõ mọi vật bằng viễn cảnh chân chánh. Khi con người thấu rõ sự thật của họ thì nền tảng của sự mê tín ấy mới không còn hăm dọa nhân loại nữa. Ông nói rằng: “Tôi sẽ vì lợi ích mà truyền ra một ánh sáng trong trẻo trước tinh thần của các người và các người sẽ thấy vật báu ẩn tàng trong tâm khảm (Clara tuae passim praepandere eumina menti resquibus occultas penitus convicere possis). Ông nói: “Sự tối tăm của tinh thần phải được đánh tan không phải nhờ nơi ánh thái dương, nhưng nhờ nơi kiến thức bên ngoài và bên trong của định luật thiên nhiên.

Cũng có một lúc, Đức Phật nói: “Vivattacchaddosi – con người phải lột tấm màn che bề mặt của thế gian”. Rồi Ngài cũng ám chỉ chính Ngài cũng đã lột trần tấm màn ẩn tàng ấy ra “paticchannamvivareti”. Như vậy, chúng ta nhận thấy Đức Phật và Lucretius đều tìm cách thuyết phục quần chúng bằng phương châm của sự phân tách về hợp lý để đưa ra khỏi triều lưu thực hành được chấp nhận một cách không phân tách sáng suốt hay mù quáng. Chỉ có tin tưởng sự kết quả từ sự phân tách bịnh nhân mới có thể phá tan sự ám ảnh ghê sợ của tinh thần nhân loại.

Chúng tôi cũng tìm thấy những lời chỉ trích kịch liệt của ông Lucretius về cách hy sinh và cực lực phản đối về sự tin tưởng rằng “vũ trụ này đã do một vị thần linh sáng tạo”. Ông nói thêm rằng: “Vì danh nghĩa của một tôn giáo mà những án mạng làm cho thực hiện mãi mãi bởi sự tin tưởng này đã đầu độc con người, như sự hy sinh của cô Iphegenia, con gái của ông Agamemnon, thuyền trưởng của một đoàn thuyền bị đứng lại vì thiếu gió. Muốn được sự giúp đỡ của Thần Gió và bảo đảm cho được có gió thuận chiều mà họ bắt buộc phải phạm một tội hy sinh đáng thương xót và không công bình. Ông nói: “Chỉ có con người chịu nô lệ cho tôn giáo mình, mù quáng bởi sự cuồng tín, mới phải chịu phạm tội một cách không ngần ngại như vậy”. “Tantum relegio posuit suadere malorum – Ô tội thay! Con người phải chịu một đại án mạng vì nhân danh của một tôn giáo”.

Kế đây, chúng tôi bình luận lý thuyết về nguồn gốc của vũ trụ. Cả hai, Đức Phật và Lucretius, đều phá hủy những dụng cụ trong sự tin tưởng rằng “Vũ trụ này do một vị trời hay một vị thần linh sáng tạo”.

Ông Lucretius nói: “Nequaquam nobis divinatusesse creatam naturam mundi – Định luật của vũ trụ không phải do một vị thần linh nào sáng tạo vì ân huệ cho chúng ta”. Để bổ túc vào vấn đề quan trọng này, Đức Phật và ông Lucretius đều ám chỉ đến triết lý của “nhân và quả”. Theo Lucretius thì: “Nil posse creari de nilo – Không có cái chi được sản xuất từ cái không, ông dẫn chứng rằng “Nếu những vật mà có được từ cái không thì mỗi loại có thể sanh từ mọi vật, như vậy thì không cần đến hạt giống”. Đồng với quan niệm của Lucretius thì Đức Phật có giảng rằng “Tasmimsati idamhoti – Vì có vật đó mà cái này trở thành”.

Đức Phật và Lucretius đều nói đến đa số của vũ trụ. Nhưng ông Lucretius nói rằng: “Tất cả mọi vật trên đời này là nơi tụ họp lại của nguyên tử nó có tánh cách luôn luôn rung động biến chuyển. Ông cũng đề cập đến nguyên tử của tinh thần và thể xác của con người rằng “Nguyên tố của vật chất tạo thành bởi nước, lửa, gió và đất. Theo ông thì sự cấu tạo đầu tiên của những vật đều bị luôn luôn ném ra trong đại không gian “Premordia retum qualesit in magno iactari semper inoni”. Theo song song với quan niệm này, chúng ta tìm thấy Đức Phật đã thiết lập hệ thống về căn bản đại đa số – như bài kệ sau đây mà Ngài đã thuyết ra trong bài pháp đầu tiên cho người đệ tử được thay đổi tín ngưỡng trước hết là:

“Ye dhamma hetuppadbhāva, Tesaṃ hetum tathāgato aha Tesaṃ ca yo nirodho

Evaṃ vadi mahā samano.”

Đức Phật đã khám phá ra những nguyên tố của sự sinh tồn, nguyên nhân liên quan đến nguyên tố ấy và phương pháp để diệt tắt vĩnh cửu hiệu lực của nó.

Như vậy thì vị trí căn nguyên của Đức Phật trong sự từ khước trọn vẹn về thực thể và thay đổi trào lưu quan niệm của thế gian trong sự thay đổi hiện trạng của những nguyên chất đang tan mất lần một cách kín đáo. Cũng như Lucretius, Đức Phật tin rằng sự phối hợp và tan rã của nguyên tử (anoparamano). Theo Đức Phật thì tất cả nguyên chất đều có trạng thái đau khổ và buồn rầu. Vì tất cả chúng nó đều bị mãnh lực của sự “ham muốn sống”. Đức Phật dạy rằng: “Tất cả nguyên chất đều có trạng thái biến chuyển rung động và mục tiêu cao cả của dòng đời gồm có sự diệt tắt cuối cùng của Niết-bàn (nibbāna).

Ông Vasubandhu – một nhà bác học trong Phật giáo – có nói rằng: “Đức Phật cống hiến một phương pháp để giải thoát. Phương pháp ấy không có trong trò quỉ thuật hoặc trong sự lợi ích của các tôn giáo, nhưng với sự hiểu biết về phương châm để thay đổi tín ngưởng tất cả “uppatti dhamma đổi qua anuppattidhamma” nghĩa là phải ngưng hẳn sự biến chuyển phát sanh bởi năng lực của sự hành vi đang hoạt động trong đời người”.

Mục đích của Đức Phật là phải thoát khỏi sự biến đổi của đời vô thường qua trạng thái của sự hoàn toàn yên lặng mà một điều tối cần là tất cả tình cảm và tư tưởng cố chấp phải được dứt bỏ vĩnh viễn. Triết lý trước hết của Đức Phật và Lucretius cả hai đều không nhìn nhận có linh hồn trường tồn mãi mãi của mỗi chúng sanh. Cả hai đều tuyên bố và kết luận với bằng chứng rằng: “Tất cả vật chất lẫn tinh thần đều vô thường biến chuyển tiêu tan mất ‘sabbe sankhāra aniccā – tất cả pháp hữu vi đều vô thường’”. Chính ông Lucretius cũng nhấn mạnh sự biến chuyển nhanh chóng của vũ trụ và vô thường của tất cả các vật được cấu tạo. Để chứng minh cho sự thật trong việc này, ông nói: “Chiếc vòng phải bị hao mòn dần vì sự dùng xài luôn hoài – anulus indigito subter tenuatur, cũng như lưỡi cày bị hao mòn vì luôn luôn tiếp xúc với đất cứng – uncus aratri ferreus occulte decrescit vomer in arvis. Ông cũng nói thêm rằng: “Tánh thiên nhiên của linh hồn phải được soi tỏ ra bởi vì kiến thức sai lầm của vạn vật về linh hồn là nguyên nhân của tất cả sự xung đột của thế gian. Chính nó phát sanh ra sự ích kỷ và tìm cách tiêu diệt sự êm ả và hòa thuận của xã hội.”

Theo Đức Phật thì quan niệm về linh hồn trường tồn bất di bất dịch là sự cản trở, xẩy chân cho đời tinh thần của chúng ta, nó không thấm được hoặc thấu được do sự cố gắng làm cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Như vậy, chúng ta không cần phải xấu hoặc tốt bởi sự cố gắng của chúng ta. Còn sự tinh tấn về tinh thần thì mất hẳn ý nghĩa của nó. Cái ta hay linh hồn “atman” là nguồn gốc của sự cố chấp, tham lam, sân hận và đau khổ. Sự tin tưởng về bản thể là nguyên nhân làm cho dính mắc vào nó, còn sự không vui thích về sinh tồn của bản thể thì tự nhiên được thoát khỏi nó.

Sakkāya ditthi là vô minh, nói cách khác là ngu xuẩn. Từ đó mà phát sanh ra các sự tham ái. Sư dứt bỏ ngã chấp là cốt yếu của siêu hình Phật giáo và triết lý của sự giải thoát. Phật giáo không khi nào chấp nhận thật thể của “bản ngã” (atman) là một thể chất trường tồn không bị sự thay đổi mà phải nhìn nhận sự thật của sự trở thành. Danh từ trong Phật giáo của một nhân vật là “Santana – một dòng nước”. Nó ám chỉ về nguyên chất cả thể xác lẫn tinh thần của nhân vật bên trong và bên ngoài cho đến khi nào mà con người còn hành vi tạo tác. Dòng suối của nguyên chất giữ chung lại không hạn định, trong đời hiện tại mà luôn cả nguồn gốc đời quá khứ và vị lai nữa.

Đây là sự giải thích của Phật giáo về linh hồn. Để phá tan quan niệm sai lầm rằng “tinh thần là tượng trưng cho linh hồn” và dòng tư tưởng được chia ra làm nhiều nguyên tố như: thọ, tưởng, hành và thức. Chúng nó thiết lập dòng tư tưởng và cũng phải tương trợ lẫn nhau. Chúng nó hành sự trong một trạng thái hợp tác. Như Đức Phật nói: thọ, tưởng và thức các pháp này đều có liên quan với nhau, phân tách và giải thích chúng nó ra thật là khó vậy. Cùng chung một lý luận, ông Lucretius giải thích sự liên quan của vạn vật về các nguyên tố này rằng: “Possit nee spatio fieri divisor potestas, sed quasi multae vis unius corporis extant – Không có một nguyên chất nào mà có thể để riêng ra được, hoặc nó cũng không có quyền tự biểu diễn hành vi phân tách nó ra bằng cách rỗng không của không gian”.

Bây giờ, chúng ta phải xét đến lý lẽ mà ông Lucretius dẫn chứng về sự vô thường của linh hồn. Ông nói “Linh hồn không có bền vững chút nào”. Nó có mãnh lực không thể giải thích được, nó ẩn tàng trong các thủ túc và cân não của cơ thể, nó thúc đẩy các hành vi do tinh thần sai khiến. Nhưng ông nhấn mạnh rằng: “Nó tan rã cùng một lúc với bản thân và không nhìn nhận linh hồn có thể luân hồi và sinh ra đời người.

Ông lại nói: “Ngoài tinh thần và sự hiểu biết, không có một phần nào của linh hồn có thể duy trì trong khuôn khổ dầu trong một sát-na (khana), nó phải theo hạt giống của nó không hề phản đối và sẽ tan biến trong hư không và sa mạc trong khuôn khổ lạnh lẽo của sự chết. Ông nói thêm rằng: “Sự hiểu biết đồng sanh ra với cơ thể và phát triển lên cùng với nó cho đến lúc già nua. Như các trẻ con chạy nhảy một cách mềm dẻo dịu dàng của thân hình, như vậy sự phán đoán về tinh thần của nó cũng yếu ớt theo nó. Và khi những năm càng cao càng già thì sức lực và cơ thể càng cứng rắn hơn thì tinh thần cũng càng mạnh mẽ hơn. Khi cơ thể bị đánh vỡ, sức lực suy kém thì lý luận cũng giảm đi và tinh thần cũng quên lãng. Như vậy thì tự nhiên tinh thần cũng phải bị tan biến cũng như khói bị tan biến trong không khí vì gió lớn.

Như vậy thì tinh thần sanh lên với cơ thể, phát triển theo nó và cũng tiêu hoại luôn theo nó.” Rõ ràng tinh thần là vô thường cũng như thể xác. Cả hai đều chết mất và tan rã. Sự dẫn dụ này của ông Lucretius về tinh thần dễ tan biến cũng giống trong một đoạn kinh của Phật giáo về ý định này. Ông Lucretius lý luận thêm để phá tan quan niệm sai lầm rằng “tinh thần là bền vững”. Ông nói bịnh tinh thần có thể chữa được bằng phương thức về tinh thần, như vậy nó mới có thể chuyển lại cho lành mạnh. “Mà cái chi có thể thay đổi là không có trường tồn”. Mãnh lực về sự sống của cơ thể và tinh thần rất mạnh bởi sự phối hợp lẫn nhau để hưởng sự vui thú của đời người. Nếu không có cơ thể thì tinh thần cũng không thể nào sản xuất ra sự chuyển động của đời người. Như một con mắt bị hư hỏng nó không thể nào phân biệt cái chi trong toàn cơ thể. Hơn nữa, nếu chỉ có một linh hồn chuyển sang từ đời này qua đời khác thì mỗi con người phải nhớ lại được những đời quá khứ của mình rõ rệt. Vì thiếu sự hiểu biết ấy mới nhận thức được sự không bền vững hoặc bất biến chuyển của linh hồn. Như một con rắn hoặc một con thạch sùng bị cắt ra làm đôi, nhưng trong một lúc nó vẫn còn rung động ngo ngoe. Để chỉ cho thấy rằng “đó là một linh hồn bị cắt ra làm hai phần riêng biệt”. Quan niệm này theo ông Lucretius ám chỉ sự bất định tự nhiên của linh hồn.

Như vậy thì chúng ta thấy Đức Phật và Lucretius đều quả quyết rằng “trong đời này cái đặc tính cùng phát sanh một lượt đều thay đổi”. Một linh hồn không biến chuyển bất di bất dịch là hoàn toàn không thể nào giải thích được và trái hẳn với lý luận tự nhiên.

Về phương diện chung sau cùng của hai triết lý là sự giải thoát được kết quả bằng sự hiểu biết. Cả hai phương pháp về sự thí nghiệm và sự thống khổ của đời sống trần gian được coi như những nguồn đau khổ mà thôi. Những sự vui thích của giác quan điều bị kết án và chỉ trích.

Đức Phật và Lucretius đều đồng quan niệm rằng “tất cả sự xung đột và bất hoà trong đời đều bắt nguồn từ sự tham muốn liên tục của con người để thoả mãn lòng dục vọng của giác quan. Cả hai đều ủng hộ rằng muốn có một đời sống tự tại, con người phải xa lánh những sự đeo đuổi của trần gian.

Quan niệm tối cao của Phật giáo là “Niết-bàn” nơi hoàn toàn yên tịnh và giải thoát tất cả sự khổ não, buồn rầu. Còn quan niệm của ông Lucretius là “ataraxia” sự cảm giác an vui và tinh thần yên lặng, thoát khỏi những sự kinh sợ của điều rộn ràng phiền phức. Cả hai đều cho con người có trí tuệ được giác ngộ những trạng thái này và nhìn xuống với cảm giác thương hại cho người ngu xuẩn đang bị rối ren theo sự đeo đuổi trần gian.

Ông Lucretius nói: “Sad nil dulcius est quam munita tenere edita doctrina sapientem templa serena dispicere unde queus alios passim videre errare atque yiam paiantis quaerere vitae certure ingenio contendere nobilitate noctes atque dies niti praestante labore ad summes emergere opes rerum potivi”. Nghĩa là: không có chi vui thích bằng ở nơi miền yên tịnh bày trận địa kiên cố trên một chỗ cao bằng phương pháp của bực trí tuệ, khi nhìn xuống những kẻ khác thấy họ đang đi lang thang nơi này đến nơi khác, lạc lối lầm đường mà họ đang tìm phương cách sinh tồn. Họ xung đột, đối địch nhau bằng trí óc, tranh đua nhau đời sự sống còn, cố gắng hết sức ngày lẫn đêm để đoạt cho được quyền cao nhất và được hưởng lợi lộc của trần gian.

Như vậy chúng ta cũng thấy ý niệm cao cả của Đức Phật như sau: “Pabbattattho bhum at the dhiro bāle avekkhati”. Bực trí tuệ đã được giác ngộ đến tột đỉnh từ đó nhìn thấy những kẻ si mê đang tranh đua nhau về danh lợi từ dưới thấp.

Trên đây là những điểm tương đồng của Phật giáo và triết lý của ông Lucretius, một nhà triết học trứ danh trước kỷ nguyên công giáo hơn trăm năm.

 

 

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app