(Bản mới) Những Tích Liên Quan Đến Mỗi Giới

Tích Người Phạm Điều-Giới Sát-Sinh

Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, một cận-sự-nam tên Mahākāla bậc Thánh-Nhập-lưu, bị vu oan giá họa là kẻ
trộm-cắp, với tang chứng rõ ràng, nên ông bị đánh chết. Câu chuyện được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy một người cận-sự-nam Mahākāla(1) bậc Thánh Nhập-lưu có ngũ-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn. Ông thường thọ bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng.

Hôm ấy, nhằm vào ngày giới uposathasīla, ông cận-sự-nam Mahākāla đến ngôi chùa Jetavana xin thọ bát-giới uposathasīla xong, rồi ở lại chùa nghe pháp, hành thiền suốt đêm, gần sáng ông mới trở về nhà. Khi ra khỏi chùa Jetavana, ông đến hồ nước trước cổng chùa để rửa mặt. Trong đêm ấy, bọn trộm-cắp lén vào một nhà trong thành lấy trộm của cải, tài sản. Người chủ nhà hay biết thức dậy, bọn trộmcắp liền mang theo của cải chạy trốn thoát. Người chủ nhà cho người đuổi theo bọn trộmcắp khắp các ngõ đường. Một tên trộm trong bọn chạy dọc theo ven đường đến chùa Jetavana. Biết đằng sau có người đang đuổi theo mình, tên trộm không thể mang theo gói của cải lấy trộm được, nên tên trộm liền ném gói của cải lấy trộm ấy xuống hồ nước, để nhẹ người chạy thoát thân cho mau. Chẳng may gói của cải lấy trộm ấy lại rơi gần bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla đang ngồi
rửa mặt lúc rạng đông. Khi ấy, nhóm gia nhân của chủ nhà đến, nhìn thấy gói của cải lấy trộm nằm bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla, nên chúng bắt ông cận-sự-nam Mahākāla, rồi bảo rằng:

– Đêm qua, ngươi vào nhà lấy trộm của cải của chúng ta, có tang chứng rõ ràng.

Ông cận-sự-nam Mahākāla nói rằng:

– Đêm qua tôi đã ở chùa giữ bát-giới uposathasīla, nghe pháp, hành thiền, sáng nay tôi mới rời khỏi chùa trở về nhà.

Nhóm gia nhân không tin lời cận-sự-nam Mahākāla nên chúng đã đánh đập ông đến chết, rồi chúng bỏ thây bên hồ nước. Buổi sáng hôm ấy, một số tỳ-khưu trẻ và sa-di mang nồi đi lấy nước ở hồ, nhìn thấy tử thi của ông cận-sự-nam Mahākāla, rồi bảo nhau rằng:

“Ông cận-sự-nam Mahākāla giữ bát-giới uposathasīla, nghe pháp, hành thiền suốt đêm hôm qua tại chùa, nay ông bị đánh đập chết oan, thật không công bằng.”

Chư tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch về cái chết oan của ông cận-sự-nam Mahākāla.

Đức-Phật dạy rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam Mahākāla bị chết như vậy là không công bằng ở kiếp hiện-tại này, nhưng lại công bằng theo ácnghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của cận-sự-nam
Mahākāla đã tạo
.

Chư tỳ-khưu, sa-di lắng nghe Đức-Phật dạy như vậy, liền đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Ngài thuyết giảng về ác-nghiệp sát-sinh nào của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo trong kiếp quá-khứ.

Tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo ác-nghiệp sát-sinh như thế nào?

Trong thời-kỳ quá khứ, trong nước của Đứcvua Bārāṇasī, vùng biên giới có bọn cướp ẩn náu thường quấy nhiễu dân chúng qua lại, cướp của giết người; nên Đức-vua truyền phái một đội binh lính đến vùng biên giới, đặt trạm canh phòng làm phận sự dẫn đường đưa dân chúng đi lại từ vùng này đến vùng khác, để bảo vệ dân chúng được an toàn cả sinh-mạng lẫn của cải. Một hôm, đôi vợ chồng trẻ, người vợ rất xinh đẹp đi trên một chiếc xe bò đến trạm canh phòng lúc về chiều. Người trạm trưởng nhìn thấy người vợ trẻ xinh đẹp đem lòng thương yêu, và ganh tỵ với người chồng trẻ. Hai vợ chồng trẻ yêu cầu người trạm trưởng cho lính dẫn đường sang vùng bên kia. Người trạm trưởng đang có mưu đồ đen tối xấu xa, nên đã từ chối một cách khéo léo rằng:

– Này anh chị! Trời sắp tối rồi, đợi sáng mai tôi sẽ cho lính đưa anh chị đi sớm.

Hai vợ chồng trẻ khẩn khoản năn nỉ nhờ người trạm trưởng cho lính dẫn đường đi ngay lúc đó, bởi vì, thời gian còn đi lại được, hai vợ chồng trẻ cũng có công việc gấp, nên không muốn về nhà trễ.

Người trạm trưởng có mưu đồ đen tối xấu xa, nên vẫn tiếp tục khuyên hai vợ chồng trẻ rằng:

– Này anh chị! Tối nay xin mời anh chị về nhà tôi nghỉ lại, sáng sớm tôi sẽ cho lính dẫn đường đưa anh chị đi.

Hai vợ chồng trẻ không còn cách nào khác,nên đành phải đến nhà người trạm trưởng, tạm ở lại qua đêm.

Người trạm trưởng mời hai vợ chồng trẻ nghỉ trọ trong nhà khách, tiếp đãi cơm nước rất đàng hoàng, tử tế. Ban đêm, khi hai vợ chồng đang ngủ say, người trạm trưởng lén đem viên ngọc maṇi giấu vào chiếc xe của họ. Gần rạng đông, người trạm trưởng kêu la lên là có kẻ trộm lén vào nhà lấy viên ngọc maṇi quý giá, rồi cho người nhà đi lục soát tìm khắp mọi nơi. Lúc ấy, hai vợ chồng trẻ thức dậy đang sửa soạn chiếc xe bò để đi sớm, người trạm trưởng bảo người nhà lục soát trong chiếc xe bò, nhìn thấy viên ngọc maṇi giấu trong chiếc xe. Chúng bảo với hai vợ chồng trẻ rằng:

– Ngươi lấy trộm viên ngọc maṇi quý của chủ ta, rồi sáng sớm định sửa soạn chạy trốn thoát hay sao!

Chúng liền bắt người chồng trẻ đem đến trình chủ là người trạm trưởng rồi thưa rằng:

Thưa ông chủ! Chúng tôi bắt được người này lấy trộm viên ngọc maṇi của ông, đây là viên ngọc maṇi tang chứng rõ ràng.

Người trạm trưởng quở mắng người chồng trẻ rằng:

– Này ngươi! Ta đã cho vợ chồng ngươi đến nghỉ đêm nhà ta, cho ăn uống tử tế, thế mà ngươi không biết ơn, còn lén vào nhà lấy trộm viên ngọc maṇi quý giá của ta.

Ông chủ trạm sai bảo người nhà đánh đập người chồng trẻ đến chết, đem thây vào bỏ trong rừng, rồi bắt người vợ trẻ xinh đẹp làm vợ của mình.

Sau khi người trạm trưởng chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh vào đại-địa-ngục Avīci, bị thiêu đốt, bị hành hạ chết đi rồi tái-sinh trở lại trong địa-ngục, chịu bao nỗi khổ cực suốt thời gian trong cõi địa-ngục, do ác-nghiệp sátsinh mà mình đã tạo, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Do nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đập đến chết suốt 100 kiếp. Người trạm trưởng phạm điều-giới sát-sinh trong thời quá khứ ấy chính là tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla này. Tuy người cận-sự-nam Mahākāla đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, song quả của ác-nghiệp sát-sinh còn có năng lực dư sót, nên kiếp hiệntại này ông bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đến chết như vậy. Cho nên, người cận-sự-nam Mahākāla bị đánh chết là công bằng theo ác-nghiệp sát-sinh của ông đã tạo trong kiếp quá-khứ (khi làm người trạm trưởng).

Tích Người Phạm Điều-Giới Sát-Sinh Và Gây Oan Trái

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, khi ấy Đức-Thế-Tôn thuyết giảng đề cập đến nữ dạ-xoa Yakkhinī, được tóm lược như sau:

Một đôi vợ chồng không có con, người vợ đi tìm một người đàn bà về làm vợ nhỏ cho chồng để sinh con nối dòng và giữ gìn của cải, tài sản gia đình.

Khi tìm được người vợ nhỏ cho chồng, người vợ lớn lại nghĩ rằng:

“Nếu người vợ nhỏ có con, thì tất cả của cải, tài sản đều thuộc về người vợ nhỏ”.

Nên bà vợ lớn bảo với bà vợ nhỏ rằng:

– Này em! Khi nào em có thai, hãy báo cho chị biết.

Vâng lời bà vợ lớn, khi có thai, bà vợ nhỏ liền báo cho bà vợ lớn biết. Bà vợ lớn làm thuốc phá thai trộn lẫn vào thức ăn, đồ uống cho bà vợ nhỏ dùng, nên người vợ nhỏ đã bị hư thai lần thứ nhất. Người vợ nhỏ có thai lần thứ nhì, cũng như lần trước người vợ nhỏ liền báo cho người vợ lớn biết, người vợ lớn làm thuốc phá thai làm cho người vợ nhỏ bị hư thai lần thứ nhì.

Người vợ nhỏ có thai lần thứ ba, bà nghĩ rằng:

“Ta đã bị hư thai hai lần là bởi do bà vợ lớn, lần này ta không báo cho bà vợ lớn biết”.

Cái thai trong bụng của bà vợ nhỏ càng ngày càng lớn dần, bà vợ lớn biết vậy, liền quở trách bà vợ nhỏ rằng:

– Tại sao em có thai,mà không báo cho chị biết!

Bà vợ nhỏ thưa rằng:

– Thưa chị! Hai lần trước em có thai, báo cho chị biết, chị cho uống thuốc làm cho em hư thai hai lần, cho nên, lần này em không dám báo cho chị biết.

Bà vợ lớn sẵn có mưu đồ đen tối xấu xa, nên bà tìm cơ hội lúc bà vợ nhỏ sơ hở, bà trộn thuốc vào thức ăn, đồ uống, bà vợ nhỏ không biết nên ăn uống vào, làm cho bào thai bị hư. Lần này bào thai không thể ra ngoài được, làm cho bà vợ nhỏ phải chết. Trước khi chết, bà vợ nhỏ nguyện kết oan trái với bà vợ lớn rằng:

“Kiếp này, ngươi đã hại ta hai lần bị hư thai, lần thứ ba này, ngươi không chỉ làm cho ta bị hư thai, mà còn giết hại sinh-mạng của ta nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa”.

Bà vợ nhỏ chết với tâm oan trái trả thù, cho nên sau khi bà chết, ác-nghiệp ấy cho quả táisinh làm con mèo cái trong gia đình ấy.

Gây Oan Trái Lẫn Nhau

Người chồng biết được người vợ lớn là thủ phạm đã hai lần làm người vợ nhỏ bị hư thai, lần này không chỉ làm hư thai, mà còn làm người vợ nhỏ chết, ông nổi giận đánh đập người vợ lớn đến chết.

Sau khi người vợ lớn chết, ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con gà mái cũng ở trong gia đình ấy. Khi gà mái đẻ trứng ra, cả hai lần đều bị con mèo cái đến ăn trứng, đến lần thứ ba, sau khi ăn trứng xong, con mèo cái vồ con gà mái cắn cổ chết rồi ăn thịt gà luôn.

* Con gà mái trước khi chết nguyện gây oan trái với con mèo cái rằng:

“Kiếp này, ngươi đã ăn trứng của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn trứng của ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa”.

* Con gà mái sau khi chết, ác-nghiệp oan trái trả thù cho quả tái-sinh làm con cọp cái. Còn con mèo cái sau khi chết, do ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con nai cái. Khi con nai cái sinh con lần thứ nhất, con cọp cái tìm đến ăn thịt nai con, khi con nai cái sinh con lần thứ nhì, con cọp cái cũng tìm đến ăn thịt nai con. Khi con nai cái sinh con lần thứ ba, lần này con cọp cái tìm đến không chỉ ăn thịt nai con, mà còn bắt nai mẹ giết chết ăn thịt nữa.

* Con nai mẹ trước khi chết, nguyện kết oan trái với con cọp cái rằng:

“Kiếp này, ngươi đã ăn thịt con của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn thịt con ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau, ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa”.

* Con nai cái sau khi chết, dục-giới đại-thiệnnghiệp khác cho quả tái-sinh làm nữ dạ-xoa Yakkhinī ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ Đạithiên-vương. Còn con cọp cái sau khi chết, dục-giới đạithiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con gái của một gia đình trong kinh-thành Sāvatthi.

Nàng trưởng thành khôn lớn có chồng, và sống ở bên gia đình chồng. Lúc nàng sinh đứa con thứ nhất, nữ dạ-xoa theo dõi biết rõ, rồi biến hóa thành người bạn thân đến thăm nàng. Nhìn thấy con nàng, nữ dạ-xoa liền bắt đứa con của nàng để ăn thịt. Nàng sinh đứa con lần thứ nhì, nữ dạ-xoa theo dõi biết, liền xuất hiện đến bắt đứa con của nàng để ăn thịt như lần trước. Khi nàng có thai lần thứ ba, gần đến ngày sinh, nàng bàn tính với chồng, xin về nhà cha mẹ của nàng để sinh con, bởi vì nếu nàng sinh ở đây thì nữ dạ-xoa sẽ đến bắt con của nàng để ăn thịt như hai lần trước. Người chồng đồng ý, hai vợ chồng cùng đưa nhau về bên nhà cha mẹ nàng để sinh con.

Khi nàng sinh đứa con và làm lễ đặt tên cho con xong, hai vợ chồng bồng đứa con trở về lại bên nhà chồng. Trên đường đang đi trở về nhà, khi đi ngang qua ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy nữ dạ-xoa đang đi tìm nàng để bắt đứa con của nàng, nên nàng hoảng sợ quá, liền bồng đứa con chạy vào chùa Jetavana trốn thoát. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn đang thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nàng bồng đứa con đến gần ĐứcThế-Tôn rồi đặt đứa con của nàng phía dưới đôi bàn chân của Đức-Thế-Tôn bạch rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính dâng đứa con này đến Ngài, cầu xin Ngài rải tâm đại bi cứu mạng đứa con của con.

Lúc này, bên ngoài cửa ngôi chùa, chư-thiên giữ cửa cấm không cho nữ dạ-xoa đi vào trong ngôi chùa Jetavana.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cho gọi nữ dạ-xoa được phép vào hầu. Nữ dạ-xoa đi vào hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn. Nhìn thấy nữ dạ-xoa, nàng hoảng sợ vô cùng
khóc la bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, nữ dạ-xoa.

Đức-Thế-Tôn khuyên dạy, trấn an nàng rằng:

– Này con! Con đừng sợ, không có điều taihại nào xảy đến cho đứa con của con và con đâu!

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn khuyên dạy rằng:

– Này các con! Nếu các con không đến gặp Như-Lai thì sự oan trái giữa các con sẽ tiếp diễn mãi mãi. Tại sao các con gây oan trái lẫn nhau, rồi trả thù lại bằng sự oan trái? Sự thật, sự oan trái được dập tắt bằng sự không oan trái, chứ không phải dập tắt bằng sự oan trái.

Đức-Phật thuyết Dhammapadagāthā rằng:

“Na hi verena verāni, sammantīdha kudācanaṃ. Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano”.

“Trong đời này những sự oan trái, Chẳng bao giờ dập tắt được oan trái, Bằng hành động oan trái đáp lại. Sự oan trái chỉ được dập tắt, Bằng sự không oan trái mà thôi. Đó là pháp có từ ngàn xưa, Của chư bậc thiện-trí cao thượng”.

Sau khi lắng nghe câu kệ xong, nữ dạ-xoa liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu, và các hàng đệ tử cũng được nhiều lợi ích, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo trí-tuệ ba-la-mật của mỗi người.

Bắt đầu từ khi ấy, sự oan trái hoàn toàn bị dập tắt, tâm-từ và nhẫn-nại phát sinh giữa nữ dạ-xoa và nàng có đứa con, họ thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thương yêu đứa con nhỏ.

Tóm lược thay đổi qua mỗi kiếp và gây oan trái

Người vợ lớn
Người vợ nhỏ
Sinh kiếp gà mái Sinh kiếp mèo cái
Sinh kiếp cọp cái Sinh kiếp nai cái

Sinh kiếp con gái Sinh kiếp nữ dạ-xoa.

Vấn: Sự khác nhau giữa oan trái và ác nghiệp như thế nào?

Đáp: Người gây oan trái chắc chắn tạo ácnghiệp. Người tạo ác-nghiệp, có khi có oan trái, có khi không có oan trái. Oan trái có thể dập tắt bằng sự không oan trái, còn ác-nghiệp không thể dập tắt bằng đạithiện-nghiệp, song đại-thiện-nghiệp có khả năng làm giảm bớt tiềm lực cho quả của ác-nghiệp.

Vấn: Hai người đàn bà gây oan trái với nhau, những đứa con của mỗi người có liên quan gì mà phải chịu khổ?

Đáp: Cái thai (của người vợ nhỏ), trứng gà (của gà mái), nai con (của nai cái), đứa con (của người đàn bà) không liên quan trực tiếp đến sự oan trái của người mẹ, mà chịu ảnh hưởng gián tiếp về quả của ác-nghiệp của mẹ mình. Những người con còn nhỏ thường chịu ảnh hưởng quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, hoặc quả của ác-nghiệp của cha mẹ.
Nếu cha mẹ giàu có, thì đứa con sinh ra được sống sung túc, nếu cha mẹ nghèo khổ, thì đứa con sinh ra chịu cảnh thiếu thốn. Ngược lại có trường hợp đặc biệt, cha mẹ chịu ảnh hưởng quả của dục-giới đại-thiệnnghiệp hoặc quả của ác-nghiệp của người con, từ khi mới đầu thai hoặc khi sinh ra đời rồi.

Ví như:* Trường hợp Ngài Trưởng-lão Sīvali, khi Ngài đầu thai vào lòng mẹ là bà Suppavāsa, hoàng-hậu của Đức-vua dòng Koliya, trong các kho của cải lúc nào cũng đầy đủ,sung túc, không bao giờ thấy bị hao hụt, giảm bớt chút nào. Đó là quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí ba-la-mật của thai nhi Sīvali làm ảnh hưởng tốt lành đến mẫu-hậu và phụ-vương của Ngài và những người thân trong hoàng tộc.

* Trường hợp Ngài Trưởng-lão Losakatissa, khi Ngài đầu thai vào một gia đình trong xóm dân chài có một ngàn gia đình, từ khi thai nhi Losakatissa đầu thai, không chỉ gia đình cha mẹ của Ngài phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn, mà còn ảnh hưởng đến một ngàn gia đình trong xóm dân chài ấy cũng phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn nữa. Đó là quả của ác-nghiệp tiền-kiếp của thai nhi Losakatissa gây ảnh hưởng đói khổ đến gia đình cha mẹ của Ngài và những gia đình trong xóm dân chài.

Bậc Thánh A-Ra-Hán Không Tránh Khỏi Quả Của Ác-Nghiệp Sát-Sinh
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của ĐứcPhật Gotama thường xuất hiện lên các cõi trời hỏi về các tiền-kiếp của các thiên-nam, thiên-nữ đã làm những phước-thiện nào mà có quả báu rồi thuyết lại cho dân chúng nghe, nên tất cả những người ấy đã bỏ nhóm ngoại đạo đi theo cúng dường chư tỳ-khưu trong Phật-giáo.

Nhóm ngoại đạo mất dần dần lợi ích cúng dường nên tìm mưu kế giết Ngài Đại-Trưởnglão Mahāmoggallāna. Nhóm ngoại đạo hội họp bàn bạc với nhau rằng:

“Sở dĩ chúng ta mất nhiều lợi lộc cúng dường là vì Ngài Mahāmoggallāna xuất hiện lên cõi trời hỏi các chư-thiên, khi ở cõi người đã tạo đại-thiện-nghiệp nào, mà nay được hưởng mọi sự an-lạc như thế này; hoặc gặp các loài ngạ-quỷ hỏi kiếp trước đã tạo ác-nghiệp nào, mà nay phải chịu khổ như thế này, v.v… Ngài Mahāmoggallāna tường thuật lại cho dân chúng nghe và họ tin theo Ngài, nên phần đông họ chỉ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đệ-tử của Đức-Phật mà thôi.
Vì vậy, chúng ta càng ngày càng mất nhiều lợi lộc cúng dường. Chúng ta nên tìm cách giết hại Ngài Mahāmoggallāna, rồi chúng ta sẽ có lại những lợi lộc cúng dường như trước đây”.

Nhóm ngoại đạo đều đồng tâm nhất trí, họ thuê mướn bọn cướp sát nhân với số tiền trên 1.000 đồng kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa) để giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna. Bọn cướp đồng ý với số tiền ấy, rồi làm theo sự yêu cầu của nhóm ngoại đạo. Bọn cướp sát nhân kéo nhau đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tại làng Kāḷasila.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vốn là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đệ nhất xuất chúng về phép thần thông. Khi biết bọn cướp đến vây hãm, Ngài Đại-Trưởng-lão bay lên hư không, nên bọn chúng vào không thấy Ngài Đại-Trưởng-lão. Những ngày kế tiếp, bọn chúng cũng đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, khi thì Ngài Đại-Trưởng-lão bay lên hư không, khi thì Ngài Đại-Trưởng-lão biến mất, nên bọn chúng không sao tìm gặp được Ngài Đại-Trưởng-lão, cứ như vậy kéo dài cả tháng mà bọn chúng vẫn không sao bắt được Ngài Đại-Trưởng-lão. Đến cuối tháng, khi bọn chúng kéo đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, lần này suy xét thấy đến lúc hết tuổi thọ, đồng thời ácnghiệp sát-sinh (đánh đập cha mẹ đến chết đem bỏ trong bụi cây mà tiền-kiếp của Ngài đã tạo trong thời quá-khứ xa xưa) cũng đến lúc cho quả ác-nghiệp ấy, nên Ngài Đại-Trưởng-lão không thoát ra khỏi chỗ ở.

Bọn cướp xông vào bắt Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão tan xương nát thịt, bọn cướp tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã
chết, nên đem bỏ thây ở bụi cây.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nghĩ rằng: “Ta nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép tịch diệt Niết-bàn”.

Nghĩ xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vận dụng phép thần thông gắn liền xương thịt lại rồi bay lên hư không đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, bạch rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế- Tôn cho phép con tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn cho phép Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kālasila xứ Magadha.

Như vậy, 1 tháng sau hạ thứ 45 của Đức-Phật, vào rằm tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử tịch diệt Niết-bàn tại làng Nālākagāma xứ Magadha, và cuối tháng 10 (30 tháng 10) Ngài Đại-TrưởnglãoMahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha.

Thế là hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật đều đã tịch diệt Niết-bàn. Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Ajātasattu đất nước Magadha truyền lệnh truy tìm kẻ chủ mưu giết hại Ngài Đại-Trưởng lão Mahāmoggallāna.

Quân lính điều đình điều tra biết rõ bọn cướp sát nhân đã nhận tiền thuê mướn của nhóm ngoại đạo, để giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão
Mahāmoggallāna.

Đức-vua Ajātasattu truyền lệnh bắt bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo 500 người để xét xử, tất cả đều nhận tội. Đức-vua truyền lệnh đem tất cả bọn chúng chôn một nửa người xuống đất, phủ rơm lên trên thiêu sống, dùng cày sắt cày xới, làm cho bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo chết tan xương nát thịt cả thảy.

Đó là quả của ác-nghiệp sát-sinh, đánh đập bậc Thánh A-ra-hán đến chết (tịch diệt Niết-bàn). Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đã
tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu bàn luận rằng:

“Thật là đáng động tâm biết dường nào! Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử đệ nhất phép thầnthông xuất chúng trong hàng thanh-văn đệ-tử, thế mà Ngài Đại-Trưởng-lão bị bọn cướp đánh đập đến gần chết, phải tịch diệt Niết-bàn như vậy. Thật là không công bằng chút nào”.

Khi ấy, Đức-Phật vừa ngự đến, bèn hỏi rằng:

– Này các con! Các con đang hội họp bàn luận chuyện gì vậy?

Chư tỳ-khưu bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn luận về Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn như vậy.

Thật là không công bằng chút nào. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn như vậy không công bằng trong kiếp hiện-tại này, song Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn lại công bằng xét theo ác-nghiệp sátsinh mà tiền-kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá khứ xa xưa.

Chư tỳ-khưu đảnh lễ kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết giảng về ác nghiệp sát-sinh trong tiềnkiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy được tóm lược:

Trong thời quá khứ xa xưa, xứ Bārāṇasī, có một người con trai có lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mù lòa, có lòng biết ơn và đền đáp công sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ mình.

Hằng ngày, người con trai lo cơm nước, giặt giũ quần áo, tắm rửa, phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi xong công việc trong nhà mới đi làm việc ngoài như vào rừng, ra ruộng,… để kiếm tiền bạc của cải đem về nuôi dưỡng cha mẹ già một cách rất chu đáo, với tấm lòng hiếu thảo và tôn kính cha mẹ.

Một hôm, cha mẹ nói với người con chí hiếu yêu quý của mình rằng:
– Này con yêu quý! Một mình con chịu làm lụng vất vả ngoài đồng, về nhà còn phải lo bao nhiêu công việc trong nhà. Cha mẹ muốn tìm cho con một người vợ, để giúp đỡ con lo công việc trong nhà, nghe con.
Người con trai một mực từ chối, xin với cha mẹ rằng:

– Thưa cha mẹ, con không muốn lấy vợ, con chỉ muốn một mình con lo phụng dưỡng cha mẹ mà thôi.

Mỗi ngày, cha mẹ khẩn khoản năn nỉ, người con trai đành phải chiều theo ý của cha mẹ, chịu cưới vợ để làm cho cha mẹ hài lòng.

Người vợ giúp đỡ chồng lo công việc trong nhà, lo phục vụ cha mẹ chồng mới chỉ được 2 – 3 ngày mà thôi, rồi những ngày tiếp theo nàng tỏ vẻ bực dọc cảnh cha mẹ chồng mù lòa, không muốn sống chung với cha mẹ chồng nữa.

Người vợ than vãn với chồng rằng:

– Này anh yêu quý! Em không muốn sống chung với cha mẹ mù lòa của anh nữa.

Nàng đặt điều nói xấu cha mẹ chồng. Ban đầu người chồng không tin theo lời người vợ. Một hôm, khi người chồng đi ra ngoài làm công việc, người vợ ở nhà bày đồ đạc, đổ vỡ rải rác trong nhà. Người chồng đi làm về hỏi người vợ rằng:

– Này em yêu quý! Tại sao đồ đạc đổ vỡ rải rác như thế này?

Người vợ nói với người chồng là do hai ông bà mù lòa làm đồ đạc đổ vỡ rải rác, nàng phải dọn dẹp mệt nhừ cả người, mà vẫn không làm
hết việc, nàng không thể nào chịu nổi.

Bây giờ nàng không muốn sống chung với hai ông bà già mù lòa ấy nữa. Mỗi ngày, từ đồng ruộng trở về, người chồng nghe vợ than vãn, không sao chịu nổi. Người con trai liền lập mưu kế nói lừa dối cha mẹ,
muốn đưa cha mẹ đi thăm người bà con bên làng ấy, người con thưa rằng:

– Thưa cha mẹ, người bà con bên làng ấy muốn mời cha mẹ đến thăm viếng, để con đánh xe đưa cha mẹ đi.

Nghe người con trai chí hiếu nói vậy, cha mẹ tin con nói thật, nên đồng ý đi thăm. Người con sửa soạn chiếc xe bò rồi bồng cha mẹ đặt ngồi
lên xe và đánh chiếc xe bò chở cha mẹ đến một khu rừng rậm, tại đây người con thưa với cha mẹ rằng:

– Thưa cha mẹ, nơi đây thường có bọn cướp sát nhân, xin cha mẹ ngồi trên xe, để con xuống xe đi quan sát xong, con sẽ trở lại.

Người con bước xuống xe bò, rồi một lát sau giả làm bọn cướp sát nhân hung ác la hét chạy đến đánh đập cha mẹ mù lòa.

Tuy cha mẹ thân già yếu mù lòa bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn luôn nghĩ thương đứa con thân yêu, nên hai ông bà la lớn bảo rằng:

– Này con yêu quý! Con hãy chạy thoát thân, cha mẹ già yếu mù lòa có chết cũng cam phận.

Mặc dù cha mẹ gào thét như vậy, nhưng người con vẫn giả giọng kẻ cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già cho đến chết, và đem thây cha mẹ
ném trong rừng, rồi đánh xe trở về nhà.

Đức-Phật thuyết giảng về tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna giả làm bọn cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già yếu mù loà đến chết, bỏ thây trong rừng trong thời quá-khứ ấy.

Người con ấy đã tạo ác-nghiệp trọng tội giết cha mẹ thuộc về ác nghiệp vô-gián trọngtội (ānantariyakamma), nên sau khi chết, ác nghiệp vô-gián trọng-tội ấy chắc chắn cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, không có nghiệp nào có thể ngăn được, chịu quả khổ cùng cực của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài trong các cõi địa-ngục, cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Đó là tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đã từng đánh đập cha mẹ cho đến chết, tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội trong
thời quá-khứ xa xưa.

*Kiếp hiện-tại, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggallāna bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đó là do phát nguyện và quả của đại-thiện-nghiệp đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật của Ngài ĐạiTrưởng-lão. Và Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bị bọn cướp sát nhân đánh đập tan xương nát thịt dẫn đến tịch diệt Niết-bàn, đó là quả của ácnghiệp vô-gián trọng-tội đánh đập cha mẹ đến chết trong thời quá-khứ xa xưa còn dư sót.

Vì vậy, Đức-Phật dạy rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna bị đánh đập dẫn đến tịch diệt Niết-bàn ấy là công bằng theo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội đánh đập cha mẹ cho đến chết mà tiền-kiếp của Mahā-moggallāna đã tạo trong quá-khứ xa xưa.

* Còn nhóm ngoại đạo và bọn cướp sát nhân có tác-ý trong ác-tâm đánh đập Ngài Đại-Trưởnglão Mahāmoggallāna, bậc Thánh A-ra-hán đến chết, tất cả đều phạm ác-nghiệp vô-gián trọngtội giết hại bậc Thánh A-ra-hán, nên tất cả chúng nó đều bị Đức-vua truyền lệnh đem hành hình.

Sau khi tất cả bọn chúng chết, ác-nghiệp vô gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy lâu dài suốt nhiều đại-kiếp trái đất.

Sự Chết Của Chúng-Sinh

Tất cả mọi chúng-sinh trong 3 giới 4 loài đều phải chết. Sự chết có 4 trường hợp:
1- Chết vì hết tuổi thọ.
2- Chết vì mãn nghiệp hỗ trợ.
3- Chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp-hỗ-trợ.
4- Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng
chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

* Người Có Phước-Thiện Tránh Được Tai Nạn

Không đề cập đến 3 trường hợp chết trên, mà chỉ đề cập đến trường hợp thứ tư: chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

Người có phước-thiện hộ trì tự nhiên thoát khỏi mọi tai nạn một cách mầu nhiệm, ngoài khả năng của người ấy, cho nên, dù người khác có
tác-ý trong ác-tâm cố gắng tìm mọi cách giết hại người ấy cũng không thể giết chết được.

Ví dụ như trường hợp phú hộ Ghosaka:

Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Ghositārāma trong nước Kosambī, Ngài thuyết giảng tích Sāmāvatīvatthu(1), trong tích này có phần đề cập
đến
cuộc đời ông phú hộ Ghosaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, vùng Allakappa xảy ra nạn đói khát và bệnh dịch làm nhiều người chết. Người chồng tên Kotuhalika dẫn người vợ tên
Kāḷī bồng đứa con nhỏ đi đến nước Kosambī để lánh nạn. Hai vợ chồng đi đường đồ ăn uống đã cạn hết, bệnh đói khát làm rã rời tay chân, bồng đứa con cũng không nổi nữa, người chồng bàn với vợ rằng:

– Này em! Vợ chồng chúng ta còn sống, hy vọng sẽ có con nữa, bỏ đứa con này, chúng ta đi thôi. Người mẹ thương yêu con không đành bỏ con khi nó đang còn sống. Hai vợ chồng đồng ý thay phiên nhau bồng đứa con, mỗi người một đoạn đường. Sự đói khát lại càng làm bủn rủn tay chân, người chồng lại bàn tính với vợ bỏ đứa con, người vợ vẫn một mực năn nỉ chồng đừng bỏ đứa con. Đứa con nhỏ được trao từ tay chồng sang tay vợ, rồi trao từ tay vợ sang tay chồng làm cho
đứa trẻ như ngất xỉu trên tay người cha. Người cha biết đứa con mệt ngủ thiếp đi, nên đặt nó
nằm trên đống lá cây khô, ở dưới bóng mát gốc cây, rồi bỏ đi theo vợ ở phía trước.

Người vợ nhìn lại không thấy đứa con bèn hỏi:

– Này anh! Con của chúng ta đâu rồi?

Người chồng trả lời:

– Này em! Anh để con nằm dưới bóng mát ở gốc cây kia rồi.

Người vợ khóc lóc, van xin chồng bồng đứa con lại cho mình, người chồng trở lại bồng đứa con, thì đứa con đã chết.(1)

Hai vợ chồng tiếp tục đi đến một vùng, gặp một gia đình nuôi bò.
Hôm ấy, gia đình nuôi bò làm lễ cầu an cho bò. Hằng ngày, ông chủ thỉnh Đức-Phật ĐộcGiác đến độ vật thực, đặc biệt hôm ấy là ngày lễ
cầu an, nên người nuôi bò nấu cơm sữa bò nhiều.

Người chủ nhà nhìn thấy hai vợ chồng đói khát từ nơi xa đến, nên tiếp đãi rất tử tế và cho hai phần cơm sữa bò. Người vợ nói với chồng:

– Này anh! Anh còn sống thì em sống được an-lạc, đã 7 ngày qua, anh chịu đói khát nhiều, anh nên dùng thêm một phần cơm sữa bò của
em cho đủ no.

1 Người chồng bỏ đứa con nhỏ chết. Kiếp sau của người chồng ấy, khi được tái-sinh đầu thai làm người, bị người ta bỏ chết 7 lần, nhưng nhờ phước-thiện hộ mạng nên không chết.

Người vợ nhường một phần cơm của mình thêm cho chồng ăn đủ no, còn người vợ chỉ dùng một ít cơm với bơ còn lại mà thôi. Người chồng chịu đói khát suốt 7 ngày qua, nay gặp món cơm sữa bơ ngon miệng nên ăn no. Nhìn thấy người chủ nhà cho con chó cái nằm dưới ghế ăn cơm sữa bơ, người ấy ngồi nghĩ rằng:

“Con chó này có quả phước tốt thật, được ăn những đồ ăn ngon lành đến thế!”

Đêm hôm ấy, người chồng ăn vật thực no, không tiêu hóa được, nên bị chết. Khi sắp chết, nhớ tưởng đến con chó, nên sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh vào bụng con chó cái của chủ nhà.

Người vợ lo làm lễ hỏa táng cho chồng xong, xin ở lại làm công trong nhà người chủ nuôi bò ấy. Người góa phụ làm công được một ít gạo, nấu cơm để bát cúng-dường Đức-Phật Độc-Giác, rồi bạch rằng:

– Kính bạch Ngài, cầu xin phước-thiện này được thành tựu đến người chồng của con vừa qua đời.

Người góa phụ suy nghĩ rằng:

“Ta nên ở lại làm công nơi này, hằng ngày Đức-Phật Độc-Giác ngự đến đây khất thực, dù có ít thì ta cúng dường ít đến Ngài, dù không có
thì ta có cơ hội đảnh lễ Ngài, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài, ta vẫn có được phước-thiện”.

Mấy tháng sau, con chó mẹ sinh ra một con chó đực khôn ngoan dễ thương. Người chủ nuôi con chó con bằng sữa bò, nên chó con mau lớn khôn.

Mỗi khi Đức-Phật Độc-Giác độ vật thực xong, phần còn thừa, Đức-Phật cho con chó ăn phần vật thực ấy.

Cho nên, con chó rất kính yêu Đức-Phật Độc Giác. Mỗi ngày nó đi theo người chủ đến hầu Đức-Phật Độc-Giác. Trên đường đi đến nơi rừng cây rậm rạp, e sợ có thú dữ rình mồi, người chủ lên tiếng ‘sù! sù’ 3 lần, nếu có thú dữ thì chúng lánh đi nơi khác.

Một hôm, người chủ bạch với Đức-Phật ĐộcGiác rằng:

– Kính bạch Ngài, ngày nào con không có cơ hội đến kính thỉnh Ngài được, con sẽ cho con chó này đến kính thỉnh Ngài đến nhà con.

Từ đó trở về sau, khi nào người chủ nhà không có cơ hội đến hầu Đức-Phật Độc-Giác được, thì người chủ sai bảo con chó rằng:

– Này con! Con hãy đến kính thỉnh Đức-Phật Độc-Giác nhé con!

Nghe xong, con chó liền vẫy đuôi chạy thẳng đến cốc của Đức-Phật Độc-Giác. Trên đường đi, đến nơi rừng cây rậm rạp, chó phát tiếng sủa 3 tiếng, để cho thú dữ lánh đi nơi khác. Con chó chạy đến cốc lá của Đức-Phật Độc-Giác, nhẹ nhàng đến trước cửa nằm mọp xuống ngẩng đầu sủa 3 tiếng, để báo tin cho Đức-Phật Độc-Giác biết, rồi nằm im lặng chờ Đức-Phật Độc-Giác đi ra.

Con chó đi đằng trước dẫn đường, Đức-Phật Độc-Giác đi theo đường về nhà, nó rất kính yêu Đức-Phật Độc Giác. Về sau, bộ y của Đức-Phật Độc-Giác cũ quá, người chủ kính dâng cúng dường vải may y đến Đức-Phật Độc-Giác. Công việc may y làm một người rất khó, nên Đức-Phật Độc-Giác nói với người chủ rằng:

– Này thí chủ! Công việc may y làm một mình không thuận tiện, cho nên Như-Lai phải tìm bạn đồng phạm hạnh cùng giúp may y.

Người chủ bạch rằng:

– Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài đi may y xong, con kính thỉnh Ngài trở lại.

Con chó đứng nghe Đức-Phật Độc-Giác và người chủ nói chuyện với nhau. Tại nơi ấy, ĐứcPhật Độc-Giác dùng phép thần thông bay lên hư
không hướng về núi Gandhamādana. Con chó đứng nhìn theo Đức-Phật Độc-Giác bay lên hư không, và sủa theo với tất cả tấm lòng kính yêu Đức-Phật Độc-Giác, cho đến khi không còn nhìn thấy bóng dáng Đức-Phật Độc-Giác nữa, con chó chết ngay tại nơi ấy.

Con chó chết với đại-thiện-tâm kính yêu vô hạn nơi Đức-Phật Độc-Giác, nên sau khi con chó chết, đại-thiện-nghiệp cung kính ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Tam-thập tam-thiên trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có 1.000 (một ngàn) thiên-nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an-lạc ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên ấy.

Khi thiên-nam này nói nhỏ bên tai vị chư thiên nào, thì tiếng nói ấy vang xa đến 16 dotuần (1 do-tuần khoảng 20 km), nếu thiên-nam này nói bình thường, tiếng nói vang rộng xa đến 10.000 (mười ngàn) do-tuần.

Cho nên, vị thiên-nam này tên là “Ghosakadevaputta (Thiên-nam có giọng nói vang)”. Đó là quả của phước-thiện kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật ĐộcGiác. Vị thiên-nam Ghosaka hưởng mọi sự anlạc trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Vị thiên-nam Ghosaka say mê trong đối tượng ngũ-dục, quên dùng vật thực, thể xác không thể duy trì được, nên chết từ cõi trời Tam thập-tam-thiên, dục-giới đại-thiện-nghiệp của kiếp trước cho quả tái-sinh đầu thai vào lòng một kỹ nữ xinh đẹp ở kinh-thành Kosambī.

Cuộc Đời Ghosaka Có Phước Thoát Chết 7 Lần

1- Trẻ Sơ Sinh Ghosaka Bị Bỏ Trong Đống Rác

Ngày Ghosaka sinh ra đời, người kỹ nữ hỏi người tớ gái rằng:

– Này con! Bé trai hay bé gái?

Người tớ gái thưa rằng:

– Thưa Bà, bé trai ạ.

Người kỹ-nữ bảo người tớ gái đem đứa bé trai ấy bỏ nơi đống rác, vì kỹ-nữ chỉ nuôi con gái, không nuôi con trai, bởi vì con trai không kế
nghiệp nghề kỹ-nữ được.

Đứa bé trai sơ sinh bị bỏ nơi đống rác, các bầy quạ, diều, chó vây quanh đứa bé, mà không con nào dám vào ăn thịt.

Đó là quả của đại-thiện-nghiệp kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật Độc-Giác.

Khi ấy, một người thấy các bầy quạ, diều, chó vây quanh đống rác, liền đi lại xem có gì lạ thường, thì thấy một đứa bé trai, người ấy vui mừng hớn hở bồng đứa bé như đứa con của mình, sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi người ấy bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế.

2- Bé Ghosaka Bỏ Trước Cổng Chuồng Bò

Khi ấy, phú hộ kinh-thành Kosambī đi đến chầu Đức-vua, giữa đường gặp vị quân sư nhà vua chuyên môn xem sao trên hư không mà đoán số. Ông phú hộ hỏi vị quan rằng:

– Thưa vị quân sư, hôm nay có điều lành dữ thế nào?

Vị quân sư thưa:

– Hôm nay, Đức-vua và triều đình, hoàng gia cho đến thần dân thiên hạ đều bình an và có một điều lành.

“Đặc biệt, đứa bé nào sinh ra đời ngày hôm nay, về sau, nó sẽ trở thành một phú hộ nước Kosambī này”.

Nghe nói như vậy, ông phú hộ có phu-nhân đang mang thai, già ngày già tháng rồi, nên ông phú hộ sai bảo gia nhân trở về nhà xem phunhân của mình đã sinh hay chưa, rồi trở lại báo tin cho ông biết.
Gia nhân báo tin cho ông phú hộ biết rằng bà phú hộ chưa sinh.

Ông phú hộ đến chầu Đức-vua xong, vội vàng trở về nhà, gọi người tớ gái thân tín tên Kāḷi và trao cho 1.000 đồng (một ngàn đồng) kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa), để bà đi tìm kiếm trong kinh-thành có đứa bé nào sinh trong ngày, thì bà trao cho họ số tiền 1.000 đồng kahāpana ấy, rồi bồng đứa bé về.

Bà Kāḷi đi hỏi thăm tìm hỏi khắp nơi, lần lượt đến nhà một người, nhìn thấy có đứa bé bèn hỏi người nhà ngày sinh của đứa bé ấy. Người nhà
bảo đứa bé vừa mới sinh trong ngày.

Bà Kāḷi trao cho người chủ nhà 1.000 đồng kahāpana, rồi bồng đứa bé về cho ông phú hộ. Ông phú hộ nghĩ rằng:

“Nếu phu-nhân của ta sinh con gái, ta sẽ cho con gái của ta làm vợ nó, rồi cho nó tước vị phú hộ, nếu phu-nhân ta sinh con trai, thì ta sẽ giết
nó chết”.

Ông phú hộ bảo người nuôi nấng săn sóc đứa bé ở trong nhà. Vài ngày sau, phu-nhân của phú hộ sinh con trai, nên ông phú hộ tính kế giết đứa bé này, để con mình lớn lên được tước phú hộ. Ông phú hộ gọi bà Kāḷi đến sai bảo rằng:

 Này Kāḷi! Sáng sớm mai, bà hãy bồng đứa bé Ghosaka này bỏ trước cổng chuồng bò, để khi bò ra sẽ đạp đứa bé này chết. Bà đứng xem đứa bé chết hay sống thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ trước cửa cổng chuồng bò. Người chăn bò mở cổng, thường ngày con bò đầu đàn đi ra sau chót, nhưng hôm ấy nó đi ra trước, bốn chân đứng như bốn trụ cột, đứa bé nằm ở giữa, đàn bò hằng trăm con lấn hai bên sườn con bò đầu đàn đi ra. Người chăn bò thấy điều lạ thường, nghĩ rằng:

“Con bò đầu đàn này hằng ngày đi ra sau cùng, hôm nay ra trước đứng yên một chỗ, có chuyện gì lạ vậy”.

Đến xem thấy đứa bé đang nằm giữa bốn chân con bò đầu đàn, người chăn bò vui mừng sung sướng bồng đứa bé, kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế. Bà Kāḷi trở về trình cho ông phú hộ biết tất cả sự việc đã xảy ra. Ông phú hộ liền trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người
chăn bò và bồng đứa bé trở về.

3- Bé Ghosaka Bị Bỏ Trên Đường

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

– Này Kāḷi! Sáng sớm ngày mai sẽ có đoàn xe bò 500 chiếc chở hàng hóa đi bán. Bà bồng đứa bé Ghosaka này đặt nằm ngang trên đường, để cho bò đạp chết, hoặc xe cán nó chết. Bà đứng đó theo dõi nó sống chết thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka đặt nằm ngang trên đường. Khi ấy, người trưởng đoàn xe đi trước, khi đi đến
gần chỗ đứa bé nằm, con bò đứng sững lại, không chịu bước tới trước, dù người trưởng đoàn la bảo thế nào hai con bò vẫn không chịu bước, chỉ đứng sừng sững tại một chỗ. Chờ đến gần sáng, người trưởng đoàn nghĩ rằng:

“Tại sao hai con bò này lại đứng sừng sững như vậy?”.

Người trưởng đoàn bước xuống xe nhìn thấy đứa bé nằm ngang trên đường, người trưởng đoàn vui mừng sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!” rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế. Bà Kāḷi về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe. Ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người trưởng đoàn xe, rồi bồng đứa bé trở về.

4- Bé Ghosaka Bị Bỏ Nơi Nghĩa Địa

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

– Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, để cho chó rừng, quạ, diều ăn thịt, hoặc các hàng phi nhân giết hại nó chết. Bà xem xét nó sống chết thế nào, về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, bà đứng ở một nơi theo dõi xem xét.
Bầy quạ, diều, chó rừng, phi nhân v.v… không con nào dám đến gần đứa bé, vì đại-thiện-nghiệp của đứa bé trong tiền-kiếp hộ mạng nó.
Khi ấy, người chăn dê thả đàn dê vào nghĩa địa ăn lá cây, một con dê mẹ đi ăn vào giữa bụi cây, nhìn thấy đứa bé, dê mẹ quỳ gối xuống để
cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê la bảo dê mẹ không chịu ra, nên đi vào bụi cây đuổi dê mẹ thì nhìn thấy dê mẹ đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê sung sướng vui mừng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.
Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn dê, rồi bồng đứa bé về.

5- Bé Ghosaka Bị Ném Xuống Hố Sâu

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

– Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này lên đỉnh núi nơi ném bọn cướp, rồi ném đứa trẻ xuống hố sâu để thân hình nó đụng vào đá tan
xương nát thịt rơi xuống đất.

Bà theo dõi xem xét nó sống chết thế nào, về trình cho ta biết. Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka lên đỉnh núi rồi ném đứa bé xuống hố sâu. Đứa bé rơi xuống nằm trên bụi tre có dây tơ hồng chằng chịt như nằm trên tấm thảm làm bằng lông thú êm ấm.
Hôm ấy, người thợ đan tre và đứa con lên núi đốn tre, khi đốn cây tre xong, lôi cây tre ra, làm cho bụi cây rung chuyển, đứa trẻ khóc lên tiếng.

Người thợ đi vòng quanh, nhìn lên ngọn bụi tre, thấy đứa bé nằm trên ấy, người thợ sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế. Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 đồng kahāpana, bảo bà đưa cho người thợ đan
tre, rồi bồng đứa bé về.

6- Nghĩ Hại Người, Lại Tự Làm Khổ Mình

Ông phú hộ nghĩ mưu kế nào cũng không giết hại được đứa bé hosaka, đành nuôi nấng chờ tìm mưu kế khác. Đứa bé Ghosaka càng ngày càng khôn lớn trưởng thành, ngây thơ và tưởng mình là con của ông phú hộ, không hề hay biết ông phú hộ tìm mưu kế giết hại mình.

Khi ấy, phú hộ nghĩ ra mưu kế giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ đến chỗ làm đồ gốm, gặp người thợ đồ gốm quen thân, hỏi rằng:

– Này người thợ! Khi nào sẽ đốt lò.

Người thợ trả lời:

– Thưa ông phú hộ, ngày mai, tôi sẽ đốt lò.

Ông phú hộ bảo rằng:

– Này người thợ! Ngươi hãy nhận số tiền 1.000 đồng kahāpana này, rồi giúp tôi một việc.

Người thợ hỏi:

– Thưa ông phú hộ, tôi giúp ông việc gì?

Ông phú hộ bảo rằng:

– Này người thợ! Tôi có một đứa con ngỗ nghịch, vong ơn, tôi sẽ sai nó đến chỗ anh, anh dẫn nó vào trong phòng chặt nó làm nhiều đoạn, bỏ vào trong hũ, rồi đem đốt trong lò. Tôi xin thưởng cho anh trước 1.000 đồng kahāpana, khi nào anh làm xong, tôi sẽ hậu tạ xứng đáng cho anh.

Người thợ đồ gốm nhận lời. Sáng ngày hôm sau, ông phú hộ gọi Ghosaka đến rồi bảo rằng:

– Này Ghosaka! hôm qua, cha có gặp người thợ đồ gốm nhờ làm một việc, con hãy đến nơi ấy, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

“Cha tôi bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong”.

Cậu Ghosaka vâng lời cha ra đi, vừa ra khỏi nhà, gặp đứa em trai (con ruột của ông phú hộ) đang chơi bắn bi có tính cách ăn thua với nhóm
trẻ con.

Thấy anh Ghosaka đến, người em vui mừng nói rằng:

– Này anh Ghosaka! Em chơi bị thua bọn trẻ này rất nhiều viên bi, bây giờ nhờ anh chơi hộ, bắn thắng lại số bi ấy cho em.

Cậu Ghosaka bảo với em rằng:

– Này em thân thương! Anh phải đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung, ở đây chơi trò bắn bi sẽ bị cha rầy la, anh sợ cha lắm.

Biết cậu Ghosaka có tài chơi trò bắn bi rất giỏi, lúc nào cũng thắng bọn trẻ, nên người em năn nỉ rằng:

– Này anh Ghosaka! Xin anh đừng sợ, để em đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung thay anh, còn anh ở đây chơi trò bắn bi với nhóm trẻ,
thắng lại số bi cho em, rồi anh chờ em trở lại.

Cậu Ghosaka nói với em rằng:

– Này em thân thương! Nếu như vậy, em đến chỗ lò gốm, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

“Cha tôi sai bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong”.

Người em là người con ruột của ông phú hộ đến gặp người thợ đồ gốm nói như vậy. Khi ấy, người thợ đồ gốm liền giết đứa con của ông phú
hộ theo lời yêu cầu của ông, chặt đứa con từng đoạn bỏ vào hũ đặt vào lò nung thiêu cháy. Cậu Ghosaka chơi trò bắn bi thắng nhóm trẻ,
lấy lại số bi của người em đã thua, rồi ngồi chờ người em trở lại, mãi đến chiều không thấy em trở lại, nên trở về nhà. Ông phú hộ nhìn thấy
Ghosaka liền hỏi:

– Này Ghosaka! Sao con không đi đến gặp người thợ đồ gốm?

Cậu Ghosaka thưa với cha (ông phú hộ) rằng:

– Kính thưa cha, khi con đi ra, gặp em trai chơi trò bắn bi bị thua bọn trẻ, nên nó nhờ con chơi để gỡ lại, còn nó thay con đi đến nhà bác
thợ nung lò gốm.

Khi nghe như vậy, ông phú hộ liền kêu la rằng:

– Xin đừng có giết con tôi!

Ông phú hộ đầu óc choáng váng, bước đi khệnh khạng, đến chỗ người thợ đồ gốm, hai tay ôm đầu kêu la:

– Này anh thợ ! Xin đừng làm cho tôi thiệt hại. Người thợ đồ gốm thấy ông phú hộ đến kêu la như vậy, bèn thưa với ông phú hộ rằng:

– Thưa ông phú hộ, ông đừng lớn tiếng kêu la như vậy, công việc ông yêu cầu tôi đã hoàn thành xong rồi.

Ông phú hộ khổ tâm sầu não tột cùng, như bị quả núi lớn đè lên ngực của ông. Người này mưu hại người kia, mà người kia không có tâm làm hại trở lại, hoặc người này mưu làm khổ người kia, mà người kia không có tâm làm khổ trở lại, thì người mưu làm hại này sẽ phải chịu 10 điều khổ não, như Đức-Phật đã dạy:

– Chịu khổ tâm cùng cực.

– Bị thiệt hại lớn.

– Bị đau đầu, đứt mạch máu (vì sự nóng nảy).

– Bị bệnh trầm trọng.

– Bị phóng tâm, loạn trí, điên cuồng.

– Bị tai-hại do từ Đức-vua.

– Bị chê trách dữ dội.

– Bà con, bè bạn bị tai nạn.

– Của cải, sự nghiệp bị thiệt hại.

– Sau khi chết sa vào địa-ngục.

7- Mưu Kế Giết Hại Ghosaka Lần Cuối Cùng

Mặc dù vậy, vẫn chưa từ bỏ ý định giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ nghĩ ra được mưu kế:

“Ta sẽ sai Ghosaka đi đến nhà bác thâu thuế 100 gia đình của ta, nhờ bác thâu thuế giết nó”.

Nghĩ xong, ông phú hộ liền viết một lá thư gửi cho bác thâu thuế ấy rằng:

“Người cầm thư này là đứa con ngỗ nghịch vong ơn của tôi, nhờ bác giết chết nó, rồi ném xuống hầm. Khi giết chết nó xong rồi, tôi sẽ trọng thưởng cho bác”.

Ông phú hộ gọi cậu Ghosaka rồi bảo rằng:

– Này Ghosaka! Con mang thư này đi đến trao cho bác thâu thuế của nhà ta ở vùng ấy.

Ông phú hộ bảo cậu Ghosaka cất giữ cẩn thận lá thư trong chéo áo. Cậu Ghosaka không biết đọc chữ, vì từ nhỏ đến lớn cậu không được đi học chữ, cho nên cậu Ghosaka đem lá thư giết mình, nhưng vẫn không biết. Cậu thưa với người cha rằng:

– Thưa cha, trên đường đi con sẽ ở trọ nơi nào?

Ông phú hộ bảo rằng:

– Này Ghosaka! Con đừng lo, trên đường đi đến vùng bên ấy, đến tỉnh thành có một gia đình phú hộ là bạn thân của cha, con đến nhà ông
phú hộ ăn và nghỉ lại đêm nơi ấy, rồi sáng mai đi tiếp.

Cậu Ghosaka đảnh lễ cha rồi từ giã ra đi, đến tỉnh ấy hỏi thăm nhà ông phú hộ, gặp phu nhân của phú hộ ở nhà, cậu tự giới thiệu tên là Ghosaka, con trai của phú hộ Kosambī.

Được biết như vậy, bà phú hộ vô cùng hoan hỷ, bởi vì phú hộ xứ Kosambī với gia đình bà vốn là bạn thân thiết với nhau. Phu-nhân phú hộ nhìn thấy Ghosaka đem lòng thương yêu như con của mình.

* Gia-đình phú hộ tỉnh này có một đứa con gái được 16 tuổi rất xinh đẹp đáng yêu. Cô ở trong một căn phòng sang trọng đặc biệt trên tầng lầu thứ 7, với một người tớ gái lo phục vụ cho cô. Khi ấy, cô sai bảo đứa tớ gái đi chợ. Nhìn thấy đứa tớ gái, phu-nhân phú hộ gọi lại
hỏi rằng:

– Này con! Con đi đâu?

Người tớ gái thưa rằng:

– Thưa bà, tiểu thư sai con đi chợ mua sắm đồ. Phu-nhân phú hộ bảo người tớ gái rằng:

– Này con! Con hãy lo nước tắm, nước rửa chân, sắp đặt chỗ nghỉ cho cậu Ghosaka, con của phú hộ, rồi con đi chợ sau.

Người tớ gái làm công việc mà bà phú hộ sai bảo xong mới đi chợ nên về trễ, bị tiểu thư quở trách.

Người tớ gái thưa chuyện với tiểu thư rằng:

– Thưa tiểu thư, sở dĩ em về trễ là vì em phải lo chỗ ở cho công tử Ghosaka là con của phú hộ Kosambī xong, em mới đi chợ, xin tiểu thư đừng trách em.

Nghe đến tên công tử Ghosaka là con trai phú hộ Kosambī, con gái phú hộ cảm thấy con tim rung động, lòng yêu thương dạt dào trong lòng, khiến nàng không thể ngồi yên trên tầng lầu.

Thật ra, tiền-kiếp của cô con gái phú hộ này tên là Kāḷī có người chồng yêu quý tên là Kotuhalika, và tiền-kiếp của cậu Ghosaka tên là Kotuhalika có người vợ yêu quý tên Kāḷī.

Như vậy, cô con gái phú hộ với cậu Ghosaka đã từng là vợ chồng thương yêu với nhau trong tiền-kiếp, cho nên, tình nghĩa vợ chồng yêu
thương với nhau trong kiếp trước đã phát sinh trở lại với cô, khiến cho cô muốn gặp lại người chồng yêu thương trong kiếp trước.

* Tình Thương Yêu Phát Sinh Do Hai Nhân

Đức-Phật dạy rằng: Tình yêu phát sinh do hai nguyên nhân:

– Tình yêu vợ chồng đã từng sống chung trong kiếp trước.

– Tình nghĩa giúp đỡ lẫn nhau trong kiếp hiện-tại.

Cô gái phú hộ hỏi người tớ gái rằng:

– Này em! Bây giờ công tử Ghosaka đang ở đâu vậy em?

Người tớ gái thưa rằng:

– Thưa tiểu thư, công tử Ghosaka đang nghỉ ở trong phòng khách.

Cô gái phú hộ hỏi rằng:

– Này em! Công tử Ghosaka có mang gì theo không?

Người tớ gái thưa rằng:

– Thưa tiểu thư, công tử Ghosaka có mang theo lá thư được cất giữ trong chéo áo.

Cô gái phú hộ nôn nao muốn biết nội dung của lá thư. Cô từ tầng lầu thứ 7 vội vàng đi xuống.

Trong nhà không ai hay biết, nàng lén vào phòng ngủ của công tử Ghosaka, thấy công tử Ghosaka đang nằm ngủ say, tình yêu thương vô hạn phát sinh, nàng muốn biết lá thư nói gì, nên lấy lá thư trở về phòng đọc, nàng giật mình nghĩ rằng:

“Người gì mà khờ khạo đến thế! Mang thư giết mình mà không hay biết, nếu ta không đọc thư này, thì chắc anh ta chết mất thôi!”.

Nàng bỏ lá thư ấy, viết lại lá thư khác, dựa theo lời của ông phú hộ, đổi ý nghĩa lại rằng: “Thưa bác, con của tôi tên Ghosaka, mang thư này đến bác, nhờ bác thâu thuế 100 nhà, rồi làm một nhà lầu 2 tầng, có hàng rào xung quanh chắc chắn, có người canh gác cửa ngày đêm. Nhờ bác thay mặt tôi đứng ra làm lễ thành hôn con trai của tôi Ghosaka với con gái phú hộ trong tỉnh thành ấy. Khi công việc xong rồi, tôi sẽ trọng thưởng cho bác”.

Viết xong nàng gấp lại, xuống lầu đến phòng ngủ của công tử Ghosaka, nàng cất giữ lá thư vào trong chéo áo của cậu ta như trước. Cậu Ghosaka nghỉ một đêm, sáng dậy ăn uống no đủ, từ giã ông bà phú hộ đi đến nhà bác thâu thuế. Bác thâu thuế nhìn thấy cậu Ghosaka hỏi:

– Này công tử! Công tử đến có công việc gì?

Cậu Ghosaka thưa rằng:

– Thưa bác! Thân phụ của con gửi lá thư cho bác đây.

Cậu Ghosaka trao lá thư cho bác thâu thuế xem, đọc xong thư bác thâu thuế vô cùng hoan hỷ nghĩ rằng:

“Ông phú hộ đã giao cho ta công việc quan trọng, rất vinh dự lớn lao”.

Ông thông báo với 100 gia đình đóng thuế biết rằng:

– Thưa quý bà con! Công tử Ghosaka của ông phú hộ mang lá thư đến cho tôi, trao một phận sự quan trọng rất vinh dự là thay mặt ông phú hộ đứng ra lo công việc làm lễ thành hôn công tử lớn của phú hộ với cô tiểu thư của gia đình phú hộ trong tỉnh thành này.

Chúng ta hãy mang vật liệu, v.v… để xây cất một căn nhà lầu 2 tầng thật xinh đẹp xong, rồi chúng ta sẽ tổ chức làm lễ thành hôn cho công tử của ông phú hộ với tiểu thư của ông phú hộ trong tỉnh thành này. Tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ chung lo xây cất nhà, rồi làm lễ thành hôn công tử Ghosaka của phú hộ Kosambī với cô tiểu thư của phú hộ trong tỉnh thành này xong, cho người báo tin cho ông phú hộ Kosambī biết rằng:

“- Kính thưa ông phú hộ, công việc mà ông phú hộ giao cho tôi, bây giờ tôi đã làm xong”. Ông phú hộ Kosambī nghe người đem tin thuật lại mọi sự việc ngoài ý muốn của mình,
ông than vãn rằng:

“Ta muốn làm điều nào, thì điều ấy không thành tựu, ta không muốn làm điều nào, thì điều ấy lại thành tựu”.

Ông phú hộ Kosambī phát sinh khổ tâm buồn phiền lâm bệnh nặng, một phần vì thương tiếc đứa con ruột, một phần uất ức đứa con nuôi, đã bao nhiêu lần giết nó mà vẫn không giết được, cho nên căn bệnh của phú hộ càng ngày càng trầm trọng, không có thuốc men nào điều trị cho khỏi được.

Phần tiểu-thư của ông phú hộ sau khi làm lễ thành hôn với công tử Ghosaka rồi, nàng bảo nhóm gia nhân rằng:

– Nếu có người nhà ông phú hộ xứ Kosambī đến mang tin tức gì, các người hãy cho ta biết trước, không được cho cậu Ghosaka biết trước. Ông phú hộ Kosambī tuy đã lâm bệnh nặng, nhưng ông nghĩ rằng:

“Ta sẽ không cho đứa con nuôi xấu số này thừa hưởng của cải sự nghiệp của ta”. Ông phú hộ Kosambī sai người đem thư đến gọi đứa con nuôi Ghosaka về gặp ông hai lần mà
phu nhân của Ghosaka vẫn giấu kín, không cho phu quân Ghosaka biết, mãi cho đến lần thứ ba, người nhà
phú hộ Kosambī đem tin đến, bảo công tử Ghosaka trở về nhà cho ông phú hộ gặp mặt gấp.

Lần này phu nhân của công tử Ghosaka hỏi thăm tình trạng và biết ông phú hộ lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống lâu được nữa, nàng mới báo tin cho phu quân biết rằng:
– Cha của anh bị bệnh nặng trầm trọng, hai vợ chồng chúng ta nên sắp đặt trở về thăm cha. Nàng muốn kéo dài thời gian, nên nàng tính đem xe chở của cải hàng hóa thâu thuế 100 nhà về nhà chồng.

Khi cậu Ghosaka về đến nhà, thì ông phú hộ đã quá yếu rồi, người nhà báo tin cho ông phú hộ biết cậu Ghosaka về đến. Theo sự sắp đặt của của phu nhân, công tử Ghosaka đứng phía dưới chân của người cha, vợ của công tử Ghosaka đứng ở phía trên đầu. Ông phú hộ gọi người thủ kho báo cáo tất cả của cải vàng bạc trong kho của ông và của cải
bên ngoài. Người thủ kho báo cáo:
“Của cải có 400 triệu (bốn trăm triệu), còn ruộng đất, đàn gia súc: trâu, bò, ngựa, xe cộ, v.v… có chừng ấy, chừng ấy,…”. Ông phú hộ Kosambī nghĩ trong tâm không muốn cho cậu Ghosaka số của cải, tài sản ấy, nhưng miệng lại nói cho, ngược lại với điều ông đã nghĩ, bởi vì, do phước-thiện của cậu Ghosaka khiến ông phú hộ Kosambī nói trái với điều ông suy nghĩ. Sau đó, ông phú hộ Kosambī qua đời (chết), tất cả của cải, tài sản sự nghiệp của ông phú hộ Kosambī đều thuộc về của cậu Ghosaka.

* Cuộc Đời Ghosaka Trở Thành Phú Hộ

Sau khi ông phú hộ Kosambī chết, các quan tâu lên Đức-vua Udena nước Kosambī. Đức-vua truyền hỏi:

– Ông phú hộ Kosambī có đứa con nào không?

Các quan tâu:

– Muôn tâu Bệ hạ, ông phú hộ xứ Kosambī có một công tử tên là Ghosaka. Đức-vua truyền lệnh gọi công tử Ghosaka vào chầu, rồi phong tước Ghosaka thừa kế tước vị phú hộ của người cha để lại. Từ đó, cậu Ghosaka trở thành phú hộ nước Kosambī.

Một hôm, phu nhân phú hộ nhìn phu quân Ghosaka mỉm cười. Phú hộ Ghosaka hỏi phunhân cười việc gì?

– Thưa phu quân Ghosaka! Nay phu quân trở thành phú hộ nước Kosambī như thế này là nhờ em giúp một phần.

Nàng kể lại việc công tử Ghosaka đem lá thư đến bác thâu thuế, nhờ bác ấy giết công tử, chính nàng đã bỏ lá thư ấy, rồi viết lại lá thư khác, nhờ bác thâu thuế đứng ra làm lễ thành hôn công tử Ghosaka với tiểu thư của ông phú hộ trong tỉnh thành ấy.

Phú hộ Ghosaka không tin lời của phu nhân, bởi vì phú hộ Ghosaka tin rằng:

“Ta là người con trai thừa kế của cải tài sản và tước vị của người cha để lại.”

Phú hộ Ghosaka không hề hay biết gì về thân phận của mình, và những sự việc mà ông phú hộ cha nuôi đã đối xử với mình.

Vì vậy, phú hộ Ghosaka không tin lời của phu-nhân. Biết phú hộ Ghosaka vẫn chưa tin đó là sự thật, nên nàng cho người gọi bà tớ gái Kāḷi đến hỏi để biết sự thật. Bà tớ gái Kāḷi thân tín kể sự thật thuật lại đầy đủ cuộc đời của cậu Ghosaka từ khi còn là đứa trẻ sơ sinh, ông phú hộ đã tốn nhiều tiền, với tác-ý trong ác-tâm muốn giết Ghosaka 6 lần trước, nhưng không thể nào giết chết cậu Ghosaka được. Đến lần thứ 7, như lời phu nhân đã nói đó là điều hoàn toàn đúng theo sự thật. Như vậy, công tử Ghosaka thoát chết 7 lần,
nay trở thành
phú hộ Ghosaka nước Kosambī này. Phú hộ Ghosaka nghe qua tiểu sử cuộc đời của mình như vậy, nên suy nghĩ rằng:

“Ta đã tạo ác-nghiệp gì nặng mà ta bị tai nạn như thế, và ta đã tạo đại-thiện-nghiệp gì, mà ta được thoát khỏi chết như vậy. Từ nay về sau, ta không nên dể duôi, cố gắng tạo mọi phước-thiện”. Từ đó, phú hộ Ghosaka mỗi ngày đem của cải ra làm phước-thiện bố-thí cho mọi người nghèo khổ đói khát, người đi đường, v.v… Về sau, khi nghe tin Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian, phú hộ Ghosaka với hai người bạn cũng là phú hộ tên Kukkuṭa Pāvārika cùng nhau đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật tại kinh-thành Sāvatthī, nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, cả ba phú hộ đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Cả 3 phú hộ thỉnh Đức-Phật ngự đến xứ Kosambī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng,
rồi mỗi ông phú hộ cho người xây cất mỗi ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

Ông Phú hộ Ghosaka cho người xây cất ngôi chùa đặt tên là Ghosakārāma. Ông Phú hộ Kukkuṭa cho người xây cất ngôi chùa đặt tên là Kukkuṭārāma. Ông Phú hộ Pāvārika cho người xây cất ngôi chùa đặt tên là Pāvārikārāma. Ba ông phú hộ nước Kosambī có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phậtbảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, và phụng sự, hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời.

 

Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app