QUẢ BÁO CỦA SA MÔN
“Tâu Đại vương, trong giáo pháp của Như Lai, thầy tỳ khưu phải thu thúc lục căn cho thanh tịnh là khi nhãn căn tiếp xúc với sắc trần, tâm không để ý đến thể tướng và phụ tướng của sắc ấy, hai pháp ác là vui thích và bất bình thường hay ám ảnh đè nén tâm của người không thu thúc nhãn căn, nhưng hai pháp ấy không thể làm hại đến tâm của vị tỳ khưu đã thu thúc; khi nhĩ căn tiếp với thinh trần – khi tỷ căn tiếp xúc với khí trần – khi thiệt căn tiếp xúc với vị trần – khi thân căn tiếp xúc với xúc trần – khi ý căn tiếp xúc với pháp trần – tâm không để ý đến thể tướng và phụ tướng của pháp trần ấy, hai pháp ác là vui thích và bất bình thường hay ám ảnh đè nén tâm của người không thu thúc ý căn, nhưng hai pháp ác ấy không thể nào làm hại được đến tâm của thầy tỳ khưu đã thu thúc ý căn vậy. Khi thầy tỳ khưu đã thu thúc lục căn theo bậc thánh nhơn như thế ấy thì hằng hưởng được sự an tịnh không lẫn lộn với phiền não bên trong.
Tâu Đại vương, vị tỳ khưu ấy lại có sự ghi nhớ và biết mình là: khi đi tới hoặc thối lui cũng biết rõ, khi ngó ngay tới hoặc ngó hai bên, khi xòe tay ra hay nắm tay vô, khi mặc y mang bát, khi thọ thực, uống nước cũng đều biết rõ, hoặc khi đại tiện, tiểu tiện, khi đứng, đi, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói chuyện, làm thinh đều biết rõ rệt không quên mình.
Thầy tỳ khưu có đủ sự ghi nhớ và biết mình như thế ấy. Tâu Đại vương, thầy tỳ khưu trong giáo pháp này là bậc tri túc (santosa) trong y phục để che thân, trong vật thực, mỗi khi đi đâu chỉ có đem theo các món phụ tùng y bát thôi, cũng ví như loài phi cầm đi đâu chỉ có đem theo cặp cánh để bay vậy thôi, thì thầy tỳ khưu tri túc cũng chỉ đem theo các món y bát như thế.
Thầy tỳ khưu ấy, khi đã có giới hạnh, thu thúc lục căn, có sự ghi nhớ và biết mình, tri túc theo hạnh của các bậc thánh nhơn lại thích ở nơi thanh vắng như là: ở trong rừng, dưới cội cây, trên núi, trong động, rừng mả mồ, rừng thưa, hoặc nơi đồng trống, nơi đống cỏ rơm; sau khi đi bát về thọ thực xong rồi ngồi kiết già hoặc bán già, thân mình ngay thẳng, gom thâu sự ghi nhớ chủ tâm vào đề mục tham thiền29.
Thầy tỳ khưu ấy, dứt bỏ làm cho sạch không còn dư sót vui thích theo ngũ trần, dứt bỏ lòng thù oán, hãm hại, có tâm tế độ, giúp đỡ làm lợi ích cho chúng sanh, dứt bỏ làm cho sạch pháp hôn trầm (là sự mê tâm buồn ngủ) do nhờ sự ghi nhớ, biết mình và nhìn xem ánh sáng, dứt bỏ tâm phóng dật là tâm xao xuyến, buông lung theo cảnh giới, cố ráng làm cho tâm yên tịnh bên trong, lại dứt bỏ sự hoài nghi trong các pháp lành, tâm trong sạch và xa lánh sự hoài nghi.
Tâu Đại vương, cũng ví như người vay tiền của kẻ khác để làm công việc, công việc người ấy lại đạt kết quả tốt đẹp, người ấy lại trả hết nợ cũ, còn dư lại tiền của cũng nhiều, có thể nuôi gia đình đầy đủ, khi người ấy nhớ đến mình đã trả xong nợ rồi thì tâm thỏa thích vui mừng; hoặc ví như người mang bịnh nặng, rất đau khổ, cơm nước không ăn uống được, sức lực mòn mỏi, yếu đuối trong một lúc, sau người ấy được lành bịnh, ăn ngon, có sức khỏe bình phục lại như thường, người ấy mỗi khi nghĩ đến mình đã khỏi bịnh thì tâm rất thỏa thích vui mừng; hoặc ví như người bị giam cầm, sau khi được thả ra người ấy rất vui mừng vì được sự tự do thong thả; hoặc ví như người tù tội, sau khi được thả ra…; hoặc ví như người có nhiều của cải đem theo mình đi đường có nhiều sự tai hại, không cơm nước, có thú dữ, đạo tặc ở phía trước phía sau. Sau khi qua khỏi con đường nguy hiểm ấy thì người rất vui mừng thỏa thích như thế nào thì, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu khi suy xét thấy năm pháp che lấp (nivaraṇa) ngăn cản còn trong thân tâm thì tâm cũng lo sợ như người thiếu nợ, có bịnh, bị giam, bị tội tù và đường nguy hiểm ấy. Khi nào suy xét thấy năm pháp che lấp không còn trong thân tâm nữa vì đã thoát khỏi rồi thì tâm cũng vui mừng thỏa thích phát sanh lên, khi tâm thỏa thích phát sanh lên thì phỉ lạc cũng phát sanh, khi phỉ lạc phát sanh lên thì sự an tịnh cũng phát sanh, khi sự an tịnh phát sanh thì tâm được sự an lạc, khi tâm được sự an lạc rồi thì lần lần được an trụ.
Thầy tỳ khưu ấy, khi tâm đã xa lìa các trần, xa lìa các pháp ác rồi thì được đắc sơ thiền có những chi tầm, tứ, phỉ, lạc, an tịnh cũng phát sanh lên do nhờ tâm an trụ ấy. Thầy tỳ khưu ấy được hưởng sự an lạc đầy đủ trong tứ oai nghi và làm cho khắp cả thân mình được đầy đủ sự phỉ lạc và an tịnh. Tâu Đại vương, ví như người thạo việc tắm rửa cho kẻ khác, lấy mạt phấn và trầm để vào trong chén đồng rải nước cho đều rồi vò cục lại để thêm nước vào ngâm cho đến chiều thì các vật ấy tự nhiên dính nhẹo lại với nhau hết như thế nào thì thầy tỳ khưu cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy tràn sự phỉ lạc và an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sự xuất gia, tự mình thấy rõ hiện tại, cao thượng, quí báu hơn tất cả các quả báo đã kể ở phía trước vậy.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu suy xét thấy sơ thiền còn bận rộn với chi tầm và sát, mới ráng trong sạch nhứt tâm niệm cho đắc nhị thiền, không có chi tầm và sát, chỉ còn có phỉ lạc và an tịnh phát sanh do thiền định mà thôi. Thầy tỳ khưu ấy làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần tràn trề sự phỉ lạc và an tịnh; ví như vùng nước sâu, đầy tràn lên nhưng các nguồn nước từ hướng đông, tây, nam, bắc chảy đến cũng không mưa cũng không có rơi xuống vùng nước ấy nhưng tự nhiên nước trong mát mẻ trào lên làm cho vùng nước ấy được thấm thía đầy dẫy khắp mọi nơi như thế nào, thì thầy tỳ khưu ấy cũng làm cho khắp châu thân được thấm nhuần đầy dẫy sự phỉ lạc và an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia, cao quí hơn các quả báo đã giải trước đây vậy.
Hơn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu suy xét chán nản sự phỉ lạc trong nhị thiền do nhờ tâm xả có sự ghi nhớ và biết mình, ráng dứt bỏ sự phỉ lạc rồi mới đắc tam thiền, chỉ còn có sự an tịnh mà thôi, các bậc thánh nhơn thường hay khen ngợi người đã đắc được tam thiền chỉ có tâm xả và sự ghi nhớ và hưởng sự khoái lạc vậy thôi, thì thầy tỳ khưu ấy cũng đắc được tam thiền và làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy tràn sự an tịnh vì đã dứt bỏ sự phỉ lạc ở nhị thiền rồi, cũng ví như nơi đìa đầm chỗ bông súng, hoa sen trắng, sen đỏ mọc, có thứ mọc lên chưa tới mặt nước, ngập trong nước các thứ bông sen ấy tự nhiên thấm nhuần đầy dẫy nước mát từ gốc tới ngọn như thế nào thì thầy tỳ khưu khi đắc tam thiền rồi thì cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy sự an tịnh cũng như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sa-môn xuất gia, cao thượng hơn các quả đã giải trước.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy lại dứt bỏ cả vui, khổ mới đắc được tứ thiền không còn vui khổ, chỉ có sự ghi nhớ trong sạch và xả mà thôi, thầy tỳ khưu ấy làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy tâm trong trẻo, cũng ví như người lấy vải trắng phau sạch sẽ đắp lên từ đầu đến chân rồi ngồi yên lặng, toàn khắp châu thân người ấy không có chỗ nào mà không có vải trắng phau như thế nào, thì thầy tỳ khưu cũng làm cho khắp cả châu thân được thấm nhuần đầy dẫy tâm trong sạch như thế ấy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của bậc sa-môn xuất gia, tự mình thấy rõ hiện tại, cao thượng quí báu hơn các quả báo đã giải trước.
Thầy tỳ khưu ấy khi tâm được yên trụ, trong sạch, không tiếp xúc với phiền não, có trạng thái mềm dịu, có thể làm việc được dễ dàng, không rung động theo cảnh giới như thế rồi thì chú tâm đến pháp “minh sát tuệ” là cho thấy rõ, biết rõ thân ngũ uẩn này, nơi hội họp lại của tứ đại, phát sanh lên do cha mẹ, tấn hóa lên do nhờ vật thực có tánh cách không thường phải săn sóc tắm rửa, thoa bóp nhọc nhằn, nhưng rồi nó cũng sẽ tự nhiên tan rã, tâm thức của ta đây nương nhờ với thân này, dính líu với thân này, cũng ví như ngọc ma-ni trong trẻo có tám góc, thợ đã giồi mài xong, có chiếu nhiều ánh sáng, nếu có chỉ màu xanh, đỏ, trắng, vàng, nâu, đen xỏ vào viên ngọc ma-ni ấy, người có con mắt sáng, lại cầm cục ngọc ấy lên xem thì thấy rõ ràng đây là ngọc ma-ni, đây là chỉ màu như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm trong sạch rồi thì khi chú tâm vào pháp “minh sát tuệ” cũng thấy rõ thân tứ đại này có trạng thái vô thường, có nhiều sự bận rộn, săn sóc rồi nó cũng sẽ tan rã không sai vậy. Tâu Đại vương, đây là quả báo của sự xuất gia, cao thượng hơn các quả báo đã kể trước.
Khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi, thầy tỳ khưu chú tâm để dùng pháp “hóa thân” là dùng tâm mình biến hóa ra thân hình khác có đầy đủ các thủ túc và các bộ phận, lục căn đều tốt đẹp, ví như người rút tim bức ra khỏi cộng, hoặc ví như người rút gươm ra khỏi vỏ, hoặc ví như lột da rắn cho rời ra, người ấy thấy rằng: đây là gươm, đây là vỏ gươm, gươm này ta đã rút ra từ vỏ vậy, như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để dùng pháp “hóa thân” cũng thấy rõ đây là thân ta đã rút ra khỏi tâm như thế ấy. Đó là quả báo của sự xuất gia, cao thượng hơn các quả báo đã kể trước.
Thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch và thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để biến hóa các pháp “thần thông”, thầy tỳ khưu ấy có thể biến hóa một người thành ra nhiều người hoặc ngược lại, làm chỗ kín đáo thành ra chỗ trống hoặc ngược lại, đi thấu qua vách, qua rào, qua núi cũng như đi ngoài trống, lặn hụp trong mặt đất cũng như lặn hụp trong nước, đi trên mặt nước cũng như đi trên đất, bay bổng trên hư không như loài phi cầm, rờ rẫm mặt trời, mặt trăng, có nhiều oai lực cũng được, hoặc làm thân mình lớn lên cho tới cõi trời Phạm Thiên. Tâu Đại vương, ví như người thợ làm đồ gốm đã rành nghề, khi đất sét đã nhồi dẻo dai kỹ lưỡng rồi muốn nắn ra món chi cũng được như ý muốn, hoặc ví như người thợ tiện hoặc chạm rành nghề, khi ngà, xương đã sửa soạn xong có thể làm ra vật chi cũng được như ý muốn như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã trong sạch thanh tịnh rồi có thể biến hóa các pháp thần thông được dễ dàng cũng như thế ấy. Đó là quả báo của sự xuất gia, rất cao thượng, quí báu hơn các quả báo đã giải trước.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để đắc “nhĩ thông” có lỗ tai thần có thể nghe được hai thứ tiếng là tiếng Chư Thiên và tiếng người, từ xa hoặc gần cũng được, cũng ví như người có lỗ tai tốt đi xa, khi nghe tiếng trống, chuông lớn nhỏ, tiếng còi, tiếng kèn đều nghe biết rõ rệt không sai lầm như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi có thể đắc được nhĩ thông nghe cả hai thứ tiếng cũng như thế ấy. Đó là quả báo của bậc xuất gia, rất cao thượng, quí báu hơn các quả báo đã giải trước.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm được trong sạch thanh tịnh rồi thì chú tâm để đắc “tha tâm thông” có thể biết được tâm kẻ khác, như tâm ái tình hoặc tâm không có ái tình; tâm sân hận, hoặc tâm không sân hận; tâm si mê hoặc tâm không si mê; tâm muốn hôn mê (là tâm dụ dự lười biếng) hoặc tâm không hôn mê; tâm phóng dật hoặc tâm không phóng dật; tâm quảng đại30 hoặc tâm không quảng đại31; tâm này còn có tâm khác cao thượng hơn hoặc tâm này không còn tâm nào cao thượng hơn; tâm yên trụ hoặc tâm không yên trụ; tâm giải thoát hoặc tâm chưa giải thoát. Tâu Đại vương, cũng ví như người thiếu niên nam nữ ưa thích sự trang điểm, khi soi hình trong kiếng hoặc trong nước tự nhiên thấy rõ gương mặt mình sạch, dơ, có mụn tàn nhang hay không có cũng thấy rõ như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch rồi cũng có thể thấy được, biết được tâm của kẻ khác rõ rệt cũng như thế ấy. Đó là quả báo rất cao thượng của bậc xuất gia, hơn các quả báo đã giải trước.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để đắc “túc mạng thông” là biết rõ những tiền kiếp của mình và của chúng sanh từ 1 kiếp 2, 3, 4, 5, 10, 100, 1000, 10.000 kiếp cho đến vô lượng vô biên, hằng hà sa số kiếp35, mỗi kiếp đều nhớ rõ sanh nơi nào, hưởng sự vui khổ như thế nào, tuổi thọ bao nhiêu, khi chết nơi ấy rồi sinh lại nơi nào cũng đều nhớ rõ, ví như có người bỏ xứ mình đi qua xứ khác, người ấy có thể nhớ rõ lại lúc mình ở nơi xứ người, ngồi, đứng, đi như thế này, nói chuyện hoặc làm thinh như thế này đều nhớ rõ không sai lầm như thế nào, thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch rồi cũng có thể đắc được “túc mạng thông” biết rõ những tiền kiếp của mình và của chúng sanh như thế ấy. Đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia rất cao thượng và quí báu hơn các quả báo đã giải trước.
Còn nữa, tâu Đại vương, thầy tỳ khưu ấy khi tâm đã được trong sạch thanh tịnh như thế rồi thì chú tâm để đắc “nhãn thông” cũng gọi là “sanh diệt thông” là thấy rõ sự sanh diệt của chúng sanh do nơi nhãn thông, thầy tỳ khưu ấy có nhãn thông trong sạch vượt qua khỏi nhục nhãn của thường nhơn, thấy rõ sự sanh diệt của chúng sanh, thấp hèn hoặc cao thượng, hình dạng xấu tốt ở cảnh giới vui khổ đều do duyên nghiệp của mình gây nên, như chúng sanh nào tạo ra những nghiệp ác do thân khẩu ý, khi dể các bậc thánh nhơn, chấp theo tà kiến, sau khi chết rồi phải thọ sanh vào cảnh khổ như súc sanh, a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục; còn chúng sanh nào tạo ra những nghiệp lành do thân khẩu ý trong sạch, hay cung kính khen ngợi các bậc thánh nhơn, có chánh kiến, tạo ra những nghiệp lành do chánh kiến ấy, sau khi chết được sanh về nhàn cảnh là sanh làm người giàu sang hoặc sanh về cõi thiên đàng, cũng ví như người ngồi trên lầu canh gác ở chính giữa ngã tư đường, trong đô thị, có cặp mắt sáng, đứng trên lầu ấy thấy rõ mọi người đi vào nhà, ra khỏi nhà, đi tới lui theo đường, ngồi đứng theo hai bên đường đều thấy rõ như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm được trong sạch không bợn nhơ, lẫn lộn với tùy phiền não rồi thì chú tâm để đắc “nhãn thông” thấy rõ sự sanh diệt luân hồi của chúng sanh cũng như thế ấy. Đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia cao thượng hơn tất cả các quả báo đã giải trước.
Hơn nữa, tâu Đại vương, khi thầy tỳ khưu ấy tâm đã được trong sạch, không có tiếp xúc với phiền não, có trạng thái mềm mại, có thể làm việc được dễ dàng, không rung động theo cảnh giới như thế rồi thì chủ tâm cho đắc “lậu tận thông” (asavakkhaya ñāna) là trí tuệ thấy rõ pháp, diệt trừ các pháp trầm luân, thầy tỳ khưu ấy thấy rõ đúng theo chân lý đây là khổ, đây là nguyên nhân để phát sanh lên sự khổ, đây là Niết-bàn nơi diệt tắt cái khổ, đây là con đường bát thánh đạo thực hành theo để đi đến nơi diệt khổ; và biết rõ đây là pháp trầm luân đây là nguyên nhân để phát sanh lên pháp trầm luân, đây là Niết-bàn là nơi diệt tắt các pháp trầm luân, đây là con đường thực hành để diệt tận các pháp trầm luân. Khi thầy tỳ khưu thấy rõ như thế thì tâm được giải thoát khỏi pháp trầm luân trong ngũ trần dục cảnh, trầm luân trong tam giới, trầm luân trong vô minh37, khi tâm của thầy tỳ khưu đã giải thoát như thế rồi thì tự biết rằng “Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát”, sự sanh của ta cũng đã dứt rồi, con đường phạm hạnh ta đã thực hành tròn đủ rồi, mười sáu phận sự phải làm ta đã làm xong rồi38, đạo hạnh nào mà phải thực hành cũng không còn nữa, kiếp này là kiếp chót của ta vậy.
Tâu Đại vương, cũng ví như một ao vũng, nước ở trên núi thật trong, không nhơ bẩn, người có cặp mắt sáng đứng dựa mé nước ấy thấy rõ ốc, hến, sạn, đá, cá, ếch đang lội tới lui hoặc dừng lại ở trong nước đó một cách rõ rệt như thế nào thì thầy tỳ khưu khi tâm đã được trong sạch rồi thì chú tâm để đắc pháp “lậu tận thông” là trí tuệ thấy rõ và diệt trừ các pháp trầm luân cũng như thế ấy.
Tâu Đại vương, đó là quả báo của bậc sa-môn xuất gia cao thượng, quý báu hơn tất cả các quả báo đã giải trước, lại nữa, cũng không còn quả báo nào cao thượng hơn các quả báo của bậc xuất gia mà Như Lai đã giảng giải vậy”.
– Khi Đức Phật giảng xong, đức vua A-Xà-Thế bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, hay quá, đúng quá, cũng ví như người lật ngửa vật đã úp, hoặc như mở trống vật người che đậy, hoặc như chỉ đường cho người lạc lối, hoặc ví như đốt đèn lên trong chỗ tối cho người có mắt sáng được thấy rõ mọi vật như thế nào thì pháp mà Đức Thế Tôn đã giảng giải ấy rất rộng rãi và rõ rệt như thế ấy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi xin thành kính quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Đức Thế Tôn nhận biết cho tôi là người thiện nam đã quy y Tam bảo kể từ ngày nay cho đến trọn đời. Bạch Đức Thế Tôn, những tội lỗi mà tôi đã phạm là bởi tôi ngu tối, lầm lạc và không thông thạo nên đã nhẫn tâm sát hại phụ vương là một vị Pháp vương xa lìa cõi thọ, cũng vì muốn quyền cao lộc cả. Xin Đức Thế Tôn xá tội lỗi ấy cho tôi, đặng tôi được thu thúc từ nay về sau”.
– “Tâu Đại vương, những tội lỗi đã phạm ấy nay Đại vương đã thấy rõ theo sự thật nên sám hối ăn năn, Như Lai cũng xá tội lỗi ấy cho Đại vương. Theo kinh luật của bậc Thánh nhơn, người nào thấy rõ tội lỗi của mình và biết ăn năn hối ngộ, sám hối tội lỗi ấy thì người ấy sẽ được sự tấn hóa không sai”.
– Khi Đức Phật vừa dứt lời, thì đức vua bèn bạch rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, tôi xin đảnh lễ Ngài để kiếu từ, vì tôi còn bận nhiều công việc triều chánh”.
– “Tâu Đại vương, xin Đại vương tùy tiện theo thì giờ của Ngài”.
Khi đó, đức vua rất hoan hỷ vui thích lời giảng của Đức Phật, đảnh lễ xong, đứng dậy đi vòng quanh Đức Phật rồi lui ra về.
Khi đức vua ra về rồi thì Đức Phật bèn cho gọi các thầy tỳ khưu mà nói rằng: “Này các thầy tỳ khưu, đức vua A-Xà-Thế đã đào hết các pháp lành của mình, nếu đức vua không giết cha thì ngài sẽ đắc Tu-đà-huờn đạo, xa lìa bụi nhơ nơi tâm trên chỗ ngồi đó không sai vậy”.
Khi Đức Phật giảng xong, các thầy tỳ khưu lấy làm thỏa thích lời Ngài đã giảng giải ấy.
“Dứt quả báo của sự xuất gia”
Soạn xong tại Kratie, mùa xuân năm Mậu Tuất 1958 – Ph.L. 2501 (11-3-58)
– Dứt tác phẩm Quả báo sa-môn –