Tiểu Bộ – Bổn Sanh Ii – Nhóm Năm Mươi Mươi Kệ Ngôn – Bài 1-3

TIỂU BỘ

BỔN SANH II: NHÓM NĂM MƯƠI MƯƠI KỆ NGÔN – BÀI 1-3

▪ 1. NALINIKĀJĀTAKAṂ – BỔN SANH CÔNG CHÚA NALINIKĀ

526. Chuyện công chúa Nalinikà (Tiền thân Nalinikà)

3326. Uḍḍhayhate janapado raṭṭhañcāpi vinassati, ehi nalinike gaccha taṃ me brāhmaṇamānaya. 

3326. “Xứ sở bị đốt cháy, và đất nước cũng tiêu hoại. Này Nalinikā, con hãy đến. Con hãy đi và quyến dụ vị Bà-la-môn ấy cho trẫm.”

1. Nhìn kia mặt đất cháy khô cằn,
Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,
Con hỡi, Na-li, đi đến đó,
Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

3327. Nāhaṃ dukkhakkhamā rāja nāhaṃ addhānakovidā, kathaṃ ahaṃ gamissāmi vanaṃ kuñjarasevitaṃ. 

3327. “Thưa phụ vương, con không thể chịu đựng khổ, con không rành rẽ đường xa, làm thế nào con sẽ đi đến khu rừng được loài voi thân cận?”

2. Làm sao con chịu được gian nan,
Khi giữa bầy voi lạc bước đàng
Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,
Làm sao cất bước được bình an?

3328. Phītaṃ janapadaṃ gantvā hatthinā ca rathena ca, dārusaṅghāṭayānena evaṃ gaccha nalinike. 

3328. “Sau khi đi đến đi đến đất nước thịnh vượng bằng voi và bằng cỗ xe, bằng phương tiện bè gỗ, này Nalinikā, con hãy ra đi như vậy.

3. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,
Rồi từ đấy phải vội rời chân
Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,
Ngự giá công nương tiến thẳng đường.

3329. Hatthī assā rathā pattī gacchevādāya khattiye, taveva vaṇṇarūpena vasaṃ taṃ ānayissasi.

3329. Con hãy ra đi mang theo tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, và các vị Sát-đế-lỵ. Con sẽ quyến dụ vị ấy vào tầm ảnh hưởng bằng sắc đẹp và vóc dáng của chính con.”

4. Chiến mã tượng, cùng với bộ binh
Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,
Với mê hồn sắc con cần kíp
Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

3330. Kadalīdhajapaññāṇo ābhujīparivārito, eso padissati rammo isisiṅgassa assamo.

3330. “Khu ẩn cư đáng yêu ấy của Isisiṅga được nhìn thấy với dấu hiệu của những tàu lá chuối, được bao quanh bởi giống cây ābhujī.

5. Nổi bật với hàng chuỗi lá xanh,
Giữa Bhur-ja khóm lắm cây cành,
Nhìn xem, lều của I-si đấy,
Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.

3331. Eso aggissa saṅkhāto eso dhūmo padissati, maññe no aggiṃ hāpeti isisiṅgo mahiddhiko.

3331. Làn khói này được nhìn thấy, cái này có thể được xem là ngọn lửa. Tôi nghĩ rằng vị Isisiṅga có đại thần lực hiến tặng ngọn lửa cho chúng ta.”

6. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia
Phát xuất từ trong lửa tỏa ra
Được ấp ủ nhờ tay bậc trí
Nổi danh thần lực thật cao xa.

3332. Tañca disvāna āyantiṃ āmuttamaṇikuṇḍalaṃ, isisiṅgo pāvisi bhīto assamaṃ paṇṇachādanaṃ.

3332. Và sau khi nhìn thấy nàng (công chúa) ấy đang đi đến, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, vị Isisiṅga, bị kinh hãi, đã đi vào nơi ẩn cư có mái che bằng lá cây.

7. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,
Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,
I-si tội nghiệp liền kinh hoảng
Vội bước vào am, chốn ẩn thân.

3333. Assamassa ca sā dvāre bheṇḍukenassa kīḷati, aṅgvidaṃsayantī āni guyhaṃ pakāsitāni ca.

3333. Và nàng ấy đùa giỡn với quả cầu ở cửa ra vào của nơi ẩn cư, trong khi phô bày ra các phần thân thể, vật kín và các phần lộ liễu.

8. Lúc đứng trước thềm của đạo quân,
Công nương đùa với quả cầu tròn,
Thân hình diễm lệ nàng phô diển
Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.

3334. Tañca disvāna kīḷantiṃ paṇṇasālagato jaṭī, assamā nikkhamitvāna idaṃ vacanamabravi.

3334. Và sau khi nhìn thấy nàng ấy đang đùa giỡn, vị ẩn sĩ tóc bện, ở trong gian nhà mái lá, đã đi ra khỏi nơi ẩn cư và đã nói lời nói này:

9. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,
Tứ trong, chàng vội phóng ra ngay,
Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy
Chàng thốt ra lời lẽ thế này:

3335. Ambho ko nāma so rukkho yassa tevaṃgataṃ phalaṃ, dūrepi khittaṃ pacceti na taṃ ohāya gacchati.

3335. “Cậu[1] ơi, cây ấy tên là gì, mà trái của cây ấy di chuyển đến cậu như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ cậu đi luôn?”

[1] Vị ẩn sĩ Isisiṅga được sanh ra và lớn lên ở trong rừng cùng với cha, chưa có cơ hội tiếp xúc với người nữ nên không biết về sự khác biệt về cơ thể của người nam và người nữ, cũng như cách xưng hô phù hợp theo giới tính. Trong câu chuyện này, vị ẩn sĩ gọi nàng công chúa là “bhavaṃ,” với ý nghĩa thông dụng là “ngài, ông” để tỏ sự tôn trọng và chỉ dùng để gọi phái nam. Ở bản dịch này, nàng công chúa sẽ xưng hô là “thiếp và chàng,” còn vị ẩy sĩ sẽ là “tớ và cậu” để nhấn mạnh sự ngây thơ về giới tính của vị này (ND).

10. “Quả cây gì đó,dám thưa ngài?
Dù có tung xa tít tận trời,
Cũng sẽ quay về ngài như vậy,
Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?

3336. Assamassa mamaṃ brahme samīpe gandhamādane, pabbate tādisā rukkhā yassa tevaṅgataṃ phalaṃ, dūrepi khittaṃ pacceti na maṃ ohāya gacchati.

3336. “Thưa vị Bà-la-môn, có những cây như thế ấy ở núi Gandhamādana tại khu vực lân cận của nơi ẩn cư thuộc về thiếp, trái của nó di chuyển đến thiếp như vậy, dầu được ném ra xa, nó cũng trở về, không lìa bỏ thiếp đi luôn.”

11. Đỉnh Hương sơn nọ, chính quê nhà,
Vốn tự hào khoe chốn tệ gia
Có thật nhiều cây sinh quả ấy,
Dù tung cao vút tận trời xa
Vẫn còn trở lại tay lần nữa,
Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

3337. Etu bhavaṃ assamimaṃ adetu pajjañca bhakkhañca paṭiccha dammi, idamāsanaṃ atra bhavaṃ nisīdatu ito bhavaṃ mūlaphalāni khādatu. 

3337. “Này cậu, hãy đi đến nơi ẩn cư này. Hãy dùng (thức ăn có sẵn). Hãy nhận lấy dầu bôi chân và vật nhai, tớ mời. Cậu hãy ngồi xuống chỗ ngồi này ở đây. Này cậu, hãy ăn các loại củ và trái cây từ nơi này. 

12. Xin vào an tọa, hỡi hiền nhân,
Nhận thức ăn và nước rửa chân,
An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng
Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

3338. Kinte idaṃ ūrūnamantarasmiṃ supicchitaṃ kaṇharivappakāsati, akkhāhi me pucchito etamatthaṃ kose nu te uttamaṅgaṃ paviṭṭhaṃ.

3338. Cái này của cậu là cái gì, ở giữa hai bắp vế, được xúc chạm nhẹ nhàng, được nhìn thấy như là có màu đen? Được hỏi, xin cậu hãy giải thích cái ấy cho tớ. Có phải cái bửu bối của cậu đã đi vào trong cái vỏ bọc?”

3339. Ahaṃ vane mūlaphalesanaṃ caraṃ āsādayiṃ acchaṃ sughorarūpaṃ, so maṃ patitvā sahasajjhapatto panujja maṃ abbahi uttamaṅgaṃ.

3339. “Trong khi thiếp đang đi tìm kiếm rễ củ và trái cây ở trong rừng, thiếp đã chọc tức con gấu có dáng vóc vô cùng ghê rợn. Con gấu đã rượt đuổi thiếp và đã bắt được thiếp bằng sức mạnh. Nó đã đánh đập thiếp và nhổ lên cái bửu bối (của thiếp).

3340. Svāyaṃ vaṇo khajjati kaṇḍuvāyati sabbañca kālaṃ na labhāmi sātaṃ, paho bhavaṃ kaṇḍumimaṃ vinetuṃ kurutaṃ bhavaṃ yācito brāhmaṇatthaṃ.

3340. Vết thương này đây bị khoét sâu vào và gây ngứa. Thiếp không đạt được sự khoái lạc vào mọi lúc. Chàng ơi, chàng có khả năng diệt trừ chứng ngứa này. Chàng ơi, được yêu cầu, chàng hãy thực hiện mục đích của Bà-la-môn.”

3341. Gambhīrarūpo te vaṇo salohito apūtiko pakkagandho mahā ca, karomi te kiñci kasāyayogaṃ yathā bhavaṃ paramasukhī bhaveyya.

3341. “Vết thương của cậu có vẻ sâu thẳm, có màu đỏ, không có thịt thối, và nặng mùi trái cây chín. Tớ sẽ thực hiện cho cậu việc áp dụng một loại thuốc cao nào đó, này cậu, như thế cậu có thể có được sự thoải mái tối đa.”

3342. Na mantayogā na kasāvayogā na osadhā brahmacārī kamanti, yaṃ te mudu tena vinehi kaṇḍu yathā ahaṃ paramasukhī bhaveyyaṃ.

3342. “Thưa vị có Phạm hạnh, các việc áp dụng về chú thuật, các việc áp dụng về thuốc cao, các loại dược thảo không đi vào được. Chàng hãy diệt trừ chứng ngứa bằng cái vật mềm mại của chàng, như thế thiếp có thể có được sự thoải mái tối đa.”

3343. Ito nu bhoto katamena assamo kacci bhavaṃ abhiramasī araññe, kacci nu te mūlaphalaṃ pahūtaṃ kacci bhavantaṃ na vihiṃsanti vāḷā.

3343. “Từ nơi này, khu ẩn cư của cậu là ở về hướng nào? Này cậu, cậu có thích thú ở trong rừng không? Vậy có phải cậu có nhiều củ và trái cây không? Có phải các loài thú dữ không hãm hại cậu không?”

13. Ngài đã đến đây bởi lối nào?
Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao?
Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,
Song thú săn mồi tránh được sao?

3344. Ito ujuṃ uttarāyaṃ disāyaṃ khemā nadī himavantā pabhāti, tassā tīre assamo mayha rammo aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe.  

3344. “Từ nơi này, đi thẳng về hướng Bắc, có dòng sông Khemā phát xuất từ dãy núi Hi-mã-lạp. Khu ẩn cư đáng yêu của thiếp ở bên bờ sông ấy. Ôi, chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

14. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa
Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,
Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,
Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.

3345. Ambā ca sālā tilakā ca jambuyo uddālakā pāṭaliyo ca phullā, samantato kimpurisābhigītaṃ aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe. 

3345. Có các cây xoài, các cây sāla, các cây họ mè, các cây mận đỏ, các cây uddālaka, và các cây hoa kèn được nở rộ, ở khắp nơi có các nhân điểu hát ca. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

15. Đây xoài, Ti-lak với sà la,
Nở rộ hoa kèn với quế hoa,
Khúc hát yên tỉnh văng vẳng lại,
Thưa ngài nơi ấy thấy nhà ta.

3346. Tālā ca mūlā ca phalā ca mettha vaṇṇena gandhena upetarūpā, taṃ bhūmibhāgehi upetarūpaṃ aho bhavaṃ assamaṃ mayha passe. 

3346. Các cây tāla, các rễ củ, và các trái cây ở nơi ấy của thiếp, có vóc dáng được thành tựu với màu sắc và mùi thơm, nơi ấy có phong cảnh được hình thành với những vùng đất. Ôi chàng ơi, nên nhìn thấy khu ẩn cư của thiếp. 

16. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,
Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,
Một nơi vui, đẹp và thơm ngát,
Đã lọt phần ta chiếm hết rồi!

3347. Phalā ca mūlā ca pahūtamettha vaṇṇena gandhena rasenupetā, āyanti ca luddakā naṃ padesaṃ mā me tato mūlaphalaṃ ahāsuṃ. 

3347. Các trái cây và các rễ củ là dồi dào ở nơi ấy của thiếp, được thành tựu với màu sắc, với mùi thơm, với hương vị. Và các thợ săn thường đi đến khu vực ấy, mong rằng họ chớ mang đi các rễ củ và trái cây của thiếp khỏi nơi ấy.” 

17. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn,
Ngọt ngào tươi đẹp ngát hương lan,
Song ta sợ lũ cường gian đến
Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

3348. Pitā mamaṃ mūlaphalesanaṃ gato idāni āgacchati sāyakāle,ubhova gacchāmase assamaṃ taṃ yāva pitā mūlaphalato etu.

3348. “Cha của tớ đã đi tìm kiếm rễ củ và trái cây, giờ này, sẽ trở về vào lúc xế chiều. Đến lúc cha trở về từ việc kiếm rễ củ và trái cây, cả hai chúng ta có thể đi đến khu ẩn cư ấy.”

18. Thân phụ đi tìm quả thật xa,
Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,
Khi người trở lại từ rừng ấy,
Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

3349. Aññe bahū isayo sādhurūpā rājīsayo anumagge vasanti, teyeva pucchesi mamassamaṃ taṃ te taṃ nayissanti mamaṃ sakāse.

3349. “Có nhiều vị ẩn sĩ khác có vóc dáng tốt lành, có các vị ẩn sĩ của hoàng gia sống dọc theo đường đi. Chàng hãy hỏi thẳng họ về khu ẩn cư ấy của thiếp; các vị ấy sẽ dẫn chàng đến chỗ ở của thiếp.”

19. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,
Song tại nơi này, lắm Thánh nhân,
Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,
Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

3350. Na te kaṭṭhāni bhinnāni na te udakamābhataṃ, aggipi te na hāsito kinnu mandova jhāyasi.

3350. “Các thanh củi không được con chẻ, nước không được con xách về, thậm chí ngọn lửa cũng không được con đốt lên, vậy con trầm tư điều gì như là kẻ đần độn vậy?

20. Bổ củi không, nước chẳng gánh về,
Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,
Này con sao trẻ người non dạ,
Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?

3351. Bhinnāni kaṭṭhāni huto ca aggi tapanīpi te samitā brahmacārī, pīṭhañca mayhaṃ udakañca hoti ramasi tvaṃ brahmabhūto puratthā.

3351. (Mọi hôm) các thanh củi đã được chẻ, và ngọn lửa đã được đốt lên, sự sưởi ấm đã được con chuẩn bị, này người có Phạm hạnh, ghế của cha (đã được sắp xếp), và nước (rửa chân đã được mang lại), trước đây, con thích thú là người có bản thể cao thượng.

21. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,
Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,
Sắp sẵn tọa sàng rồi lấy nước,
Con làm bổn phận thật vui vầy.

3352. Abhinnakaṭṭhosi anābhatodako ahāsitaggīsi asiddhabhojano, na me tuvaṃ ālapasī mamajja naṭṭhannu kiṃ cetasikañca dukkhaṃ.  

3352. (Giờ đây) con có củi còn chưa chẻ, có nước chưa được xách về, có ngọn lửa chưa được đốt lên, có thức ăn chưa được hoàn tất. Hôm nay, con không nói chuyện với cha, này con của cha, có phải có cái gì bị mất mát và tâm tư bị đau khổ?”

22. Nay củi không, mà nước cũng không,
Lửa không; thức nấu kiếm hoài công,
Sao con chẳng đón mừng cha nữa,
Con mất gì? Sao phải nhọc lòng?

3353. Idhāgamā jaṭilo brahmacārī sudassaneyyo sutanū vineti, nevātidīgho na panātirasso sukaṇhakaṇhacchadanehi bhoto. 

3353. “Thưa bậc Phạm hạnh, có một đạo sĩ bện tóc đã đi đến đây, cậu ấy không quá cao, vả lại cũng không quá mập, vô cùng xinh xắn, có eo thon, và cuốn hút nhờ vào đầu tóc đen tuyền và y phục màu đen của cậu ấy. 

23. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,
Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,
Chàng không thấp quá, không cao quá,
Làn tóc đen sao tựa hạt huyền!

3354. Amassujāto apurāṇavaṇṇī ādhārarūpañca panassa kaṇṭhe, dvepassa gaṇḍā ure sujātā suvaṇṇapiṇḍūpanibhā pabhassarā. 

3354. Cậu ấy chưa mọc râu, có dáng vẻ xuất gia không lâu lắm. Hơn nữa, ở cổ của người này có đeo cái vòng trang sức. Người này còn có hai khối nhô lên khéo được sanh ra ở ngực, có ánh sáng rực rỡ gần giống như là khối vàng tinh chất. 

24. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,
Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,
Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm
Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.

3355. Mukhañca tassa bhusadassaneyyaṃ kaṇṇesu lambanti ca kuñcitaggā, te jotare carato māṇavassa suttañca yaṃ saṃyamanaṃ jaṭānaṃ. 

3355. Và khuôn mặt của người này đáng được ngắm nhìn vô cùng, có vòng khuyên treo lủng lẳng ở hai tai, chúng lấp lánh khi chàng trai trẻ bước đi. Và có sợi chỉ để buộc chặt các búi tóc. 

25. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai
Có một vành khuyên lủng lẳng cài,
Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng
Hào quang, khi chuyển nhẹ đôi hài.

3356. Aññā ca tassa saññamanī catasso nīlā pītā lohitikā ca setā, tā saṃsare carato māṇavassa cirīṭi saṅghāriva pāvusamhi. 

3356. Và cậu ấy còn có bốn vật trang điểm khác nữa, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, và màu trắng, chúng phát ra âm thanh khi chàng trai trẻ bước đi, tựa như bầy chim két kêu réo trong mùa mưa. 

26. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn
Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,
Chàng đi mỗi buớc đều rung nhạc,
Ríu rít như chim gặp nước tràn.

3357. Na mekhalaṃ muñjamayaṃ dhareti na santace no pana babbajassa, tā jotare jaghanantare visattā sateritā vijjurivantalikkhe.

3357. Y nội (hạ y)  của cậu này được làm không phải bằng cỏ muñja, không phải bằng vỏ cây, lại càng không phải bằng lau sậy. Được bó sát vào phía trong của phần mông, nó lấp lánh, tựa như tia chớp Sateritā ở không trung. 

27. Chẳng áo vỏ cây, dáng đạo nhân,
Chẳng dây đai cỏ, thắt vào thân,
Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,
Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.

3358. Akhīlakāni ca avaṇṭakāni heṭṭhā nābhyā kaṭisamohitāni, aghaṭṭitā niccakiliṃ karonti haṃ tāta kiṃ rukkhaphalāni tāni. 

3358. (Người này) có các vật không có gai và không có cuống, được gắn vào ở bên hông, ở bên dưới lỗ rốn. Không bị va chạm, chúng tạo ra tiếng kêu leng keng liên tục. Này cha ơi, chúng là các trái cây của loại cây gì? 

28. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai
Mềm mại, không nhành, chẳng có gai
Bên áo kết vào, buông lủng lẳng
Chạm vào nhau lách tách rung hoài.

3359. Jaṭā ca tassa bhusadassaneyyā parosataṃ vellitaggā sugandhā, dvedhāsiro sādhu vibhattarūpo aho nukho mayha tathā jaṭāssu. 

3359. Và búi tóc bện của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, có hơn một trăm lọn tóc, được cuộn tròn ở chóp, có mùi thơm dịu. Đầu tóc có vẻ đã được phân chia thành hai phần khéo léo. Ôi, ước gì các búi tóc bện của con là như thế.

29. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường
Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,
Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,
Tóc con cũng ước chải như chàng!

3360. Yadā ca so pakirati tā jaṭāyo vaṇṇena gandhena upetarūpā, nīluppalaṃ vātasameritaṃva tatheva saṃvāti vanassamo ayaṃ.

3360. Và vào lúc cậu ấy xổ tung các búi tóc bện, chúng có vẻ được thành tựu bằng màu sắc và mùi thơm, tựa như đóa sen xanh phảng phất theo làn gió; chốn ẩn cư nơi sơn lâm này thoang thoảng mùi hương giống y như thế. 

30. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,
Bao vẻ yêu kiều giữ gió bay,
Sực nức lều ta miền thảo dã
Như mùi sen thoảng gió lung lay!

361. Paṅko ca tassa bhusadassaneyyo netādiso yādiso mayhakāyo, so vāyati erito māḷutena vanaṃ yathā aggagimhe suphullaṃ. 

3361. Và cáu đất của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, cáu đất ở cơ thể của con không được như thế ấy. Cậu ấy tỏa ra mùi hương thoảng đưa theo chiều gió, giống như khu rừng khéo nở rộ hoa vào đầu mùa hạ. 

31. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,
Thân chàng cao thật khác thân con,
Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn
Như khóm hoa hè nở ngát hương.

3362. Nihanti so rukkhaphalaṃ paṭhabyā sucittarūpaṃ ruciraṃ dassaneyyaṃ, khittañca tassa punareti hatthaṃ haṃ tāta kiṃ rukkhaphalaṃ nu kho taṃ. 

3362. Cậu ấy ném một loại trái cây xuống trên mặt đất, vật ấy có màu sắc đẹp đẽ ở bề ngoài, xinh xắn, đáng được ngắm nhìn, và vật đã được ném đi liền quay trở lại bàn tay của cậu ấy. Này cha ơi, vật ấy là trái cây của loại cây gì? 

32. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,
Trên đất, dù chàng ném thật cao,
Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,
Trái gì, con muốn hỏi cha nào.

3363. Dantā ca tassa bhusadassaneyyā suddhā samā saṅkhavarūpapannā, mano pasādenti vivariyamānā naha nūna so sākamakhādi tehi. 

3363. Và hàm răng của cậu ấy đáng được ngắm nhìn vô cùng, chúng trong sạch, đều đặn, đạt được màu vỏ ốc cao quý, trong khi được bộc lộ, chúng gây được niềm tin ở tâm (người đối diện), có lẽ chàng trai trẻ ấy không nhai rau cải bằng các răng ấy. 

33. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,
Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,
Chàng hé đôi môi: ôi quyến rũ!
Thức chàng ăn khác củ, rau rừng!

3364. Akakkasaṃ agaḷitaṃ muhuṃ muduṃ ujuṃ anuddhataṃ acapalamassa bhāsitaṃ, rudaṃ manuññaṃ karavīkasussaraṃ hadayaṅgamaṃ rañjayateva me mano. 

3364. Lời nói của người này không thô lỗ, không nhát gừng, mau mắn, mềm mỏng, thẳng thắn, không khoa trương, không tráo trở, có âm điệu làm vừa lòng, có thanh âm ngọt ngào như của loài chim karavīka, đi vào trái tim, khiến tâm ý con bị quyến luyến. 

34. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,
Vào tai âm, hưởng tận trong lòng
Xuyên vào tim, thật du dương điệu,
Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng!

3365. Bindussaro nātivissaṭṭhavākyo na nūna sajjhāyamatippayutto, icchāmi kho taṃ punareva daṭṭhuṃ mittaṃ hi me māṇavāhu puratthā. 

3365. Với lời nói được thốt ra không quá lớn, có thanh âm tròn trịa, chắc chắn không sặc mùi kiến thức từ việc học tập. Con thật sự mong muốn gặp lại người ấy thêm lần nữa, chàng trai trẻ chắc hẳn đã là bạn bè của con trước đây. 

35. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,
Con chắc dành ngâm tụng chú thần,
Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,
Cùng chàng, con ước kết thân bằng.
3366. Susandhi sabbattha vimaṭṭhimaṃ vaṇaṃ
puthū sujātaṃ kharapattasannibhaṃ,
teneva maṃ uttariyāna māṇavo
vivariya ūruṃ jaghanena pīḷayi. 

3366. Vết thương này có sự liền lại khéo léo, mọi nơi đều trơn láng. Là vết thương lớn, khéo được tạo ra, tương tự cánh của đóa hoa sen. Sau khi chinh phục con bằng chính vết thương ấy, chàng trai trẻ đã dùng mông cọ sát vào bắp vế đã được mở rộng.

3367. Tapanti ābhanti virocare ca sateratā vijjurivantalikkhe, bāhā mudū añjanalomasādisā vicitravaṭṭaṅgulikāssa sobhare. 

3367. Hai cánh tay mềm mại như là có lớp lông tơ bằng thuốc mỡ. Các ngón tay của người này tròn trịa, được tô nhiều màu sắc, lấp lánh. Chúng tỏa sáng, phát sáng, và chiếu sáng, tựa như tia chớp Sateritā ở không trung. 

36. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân
Như chớp bao lần cuộn lấy thân,
Được phủ lông tơ mềm, các ngón
Như san hô đỏ ửng, tròn dần.

3368. Akakkasaṅgo na ca dīghalomo nakhassa dīghā api lohitaggā, mudūhi bāhāhi paḷissajanto kalyāṇarūpo ramayaṃ upaṭṭhahi.  

3368. Tay chân của người này không chai cứng và không có lông dài. Các móng tay chân của người này dài và đầu ngón được tô đỏ. Trong lúc ôm chặt bằng hai cánh tay mềm mại, con người có vóc dáng yêu kiều đã hầu cận con, làm con vui thích. 

37. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,
Các móng tay tô đỏ, thật dài,
Với cánh tay mềm ôm siết chặt,
Trai xinh tạo khoái lạc cho đời!

3369. Dumassa tūlūpanibhā pabhassarā suvaṇṇakambūtalavaṭṭasucchavī, hatthā mudū tehi maṃ samphusitvā ito gato te maṃ dahanti tāta. 

3369. Hai tay mềm mại của cậu ấy có ánh sáng rực rỡ, gần giống như bông gòn ở trên cây, có làn da tròn trịa và xinh đẹp như bề mặt của tấm gương bằng vàng. Sau khi xúc chạm với con bằng hai tay, cậu ấy đã ra đi khỏi nơi này, thưa cha, các cảm giác ấy vẫn còn thiêu đốt con.

38. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang
Như tấm gương vàng phản ánh dương,
Chạm nhẹ làm con bừng rúng động
Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.

3370. Naha nūna so khārividhaṃ ahāsi na nūna kaṭṭhāni sayaṃ abhañji, na nūna so hanti dume kuṭhāriyā na pissa hatthesu khīlāni atthi. 

3370. Đương nhiên, cậu ấy chắc chắn đã không lấy đi gùi đồ vật nào, chắc chắn đã không tự mình chẻ các thanh củi, cậu ấy chắc chắn đã không đốn ngã các cây bằng chiếc rìu, và cũng không có các cọc nhọn ở hai tay của người này. 

3371. Accho ca kho tassa vaṇaṃ akāsi so maṃ bravī sukhitaṃ maṃ karohi, tāhaṃ kariṃ tena mamāsi sokhyaṃ so maṃ bravī sukhitosmīti brahme. 

3371. Và con gấu, quả thật, đã gây ra vết thương cho cậu ấy. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Cậu hãy làm cho tớ được thoải mái.’ Con đã làm cho cậu ấy. Với việc ấy, đã có sự thoải mái cho con. Cậu ấy đã nói với con rằng: ‘Này vị Phạm hạnh, tớ được thoải mái.’

3372. Ayañca te māluvapaṇṇasanthatā vikiṇṇarūpāva mayā ca tena ca, kilantarūpā udake ramitvā punappunaṃ paṇṇakuṭiṃ vajāma. 

3372. Và tấm thảm trải bằng lá dây leo māluva của cha có tình trạng bị vung vãi bởi con và bởi cậu ấy. Đến khi bị kiệt sức, chúng con đã vui đùa ở hồ nước, rồi chúng con trở về lại căn chòi lá. 

39. Tọa sàng bằng lá kết, giày vò
Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,
Rồi đến hồ kia con tắm mát,
Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.

3373. Na majja mantā paṭibhanti tāta na aggihuttaṃ napi yaññatantraṃ, na cāpi te mūlaphalāni bhuñje yāva na passāmi taṃ brahmacāriṃ. 

3373. Thưa cha, hôm nay, với con các chú thuật không còn ứng nghiệm, không có cúng tế thần lửa, cũng không có nghi thức hiến dâng, và con cũng không thể thọ dụng các rễ củ và trái cây của cha nữa, chừng nào con còn chưa nhìn thấy vị Phạm hạnh ấy. 

41. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,
Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,
Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,
Đến khi con gặp lại chàng trai!

3374. Addhā pajānāsi tuvampi tāta yassaṃ disāyaṃ vasate brahmacārī, taṃ maṃ disā pāpaya tāta khippaṃ mā te ahaṃ amariṃ assamamhi. 

3374. Thưa cha, chắc chắn rằng cha cũng nhận biết được vị Phạm hạnh cư ngụ ở vùng đất nào. Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được vùng đất ấy.  Chớ để con chết ở khu ẩn cư của cha. 

42. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,
Nơi chốn đạo nhân ỡ cõi trần,
Con muốn phi thân ngay đến đó,
Bằng không, con chết tại tiền đường!

3375. Vicitrapupphaṃ hi vanaṃ sutaṃ mayā dijābhighuṭṭhaṃ dijasaṅghasevitaṃ, taṃ maṃ vanaṃ pāpaya tāta khippaṃ purā te pāṇaṃ vijahāmi assame. 

3375. Bởi vì con đã được nghe nói về khu rừng có hoa muôn sắc, được rộn rịp tiếng hót của loài chim, được lai vãng bởi các bầy chim.Thưa cha, cha hãy mau giúp cho con đến được khu rừng ấy. trước khi con lìa bỏ mạng sống ở khu ẩn cư của cha.” 

43. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,
Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,
Con muốn phi thân nhanh đến đó,
Bằng không, con chết ngay tại đây mà!

3376. Imasmāhaṃ jotirase vanamhi gandhabbadevaccharasaṅghasevite, isīnamāvāse sanantanamhi netādisaṃ aratiṃ pāpuṇetha.  

3376. “Ở khu rừng có viên ngọc như ý này, nơi được lai vãng bởi hội chúng Càn- thát- bà, chư Thiên, và tiên nữ, trú xứ của các bậc ẩn sĩ từ thời xa xưa, không có đạt đến trạng thái bất an như thế này.

44. Ngôi nhà xưa của các hiền nhân
Ở giữa rừng này ngập ánh quang,
Nơi ẩn của chư Thần, Thánh nữ,
Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.

3377. Bhavanti mittāni atho na honti ñātīsu mittesu karonti pemaṃ, ayañca jammo kissa vā niviṭṭho yo neva jānāti kutomhi āgato. 

3377. Chúng sanh trở thành bạn bè, rồi không còn là bạn bè. Chúng sanh thể hiện sự yêu mến ở thân quyến, ở bạn bè. Và đứa trẻ tội nghiệp này tại sao lại bị vương vấn, khi nó còn không biết mình từ đâu đã đi đến nơi này. 

45. Tình bạn phát sinh, sẽ diệt vong;
Mọi người yêu mến đám thân nhân,
Song kẻ đáng thương nào có biết
Nhờ ai, có gốc rễ, tình thân.

3378. Saṃvāsena hi mittāni sandhīyanti punappunaṃ, sveva mitto asaṅgantu asaṃvāsena jīrati. 

3378. Do sự cộng trú mà các bạn bè được gắn bó thêm lên. Chớ để chúng gặp gỡ nhau. Do không có sự cộng trú, chính cái tình bạn ấy sẽ lụi tàn.

46-47. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,
Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong.

3379. Sace tuvaṃ dakkhasi brahmacāriṃ sace tuvaṃ sallapi brahmacārinā, sampannasassaṃ va mahodakena tapoguṇaṃ khippamimaṃ pahassasi. 

3379. Nếu con còn gặp vị hành Phạm hạnh, nếu con còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh, tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn, con sẽ mau chóng đánh mất công đức khổ hạnh này. 

Nếu con nhìn lại chàng trai ấy
Như trước, cùng trò chuyện thiết thân,
Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,
Công năng đức hạnh bại vong dần.

3380. Punapi ce dakkhasi brahmacāriṃ punapi ce sallape brahmacārinā, sampannasassaṃ va mahodakena usmāgataṃ khippamimaṃ pahassasi. 

3380. Nếu con cũng còn gặp vị hành Phạm hạnh lần nữa, nếu con cũng còn trò chuyện với vị hành Phạm hạnh lần nữa, tựa như mùa màng đã đạt được bị cuốn đi bởi cơn lũ lớn, con sẽ mau chóng đánh mất năng lực Sa-môn này. 

3381. Bhūtāni hetāni caranti tāta virūparūpena manussaloke, na tāni sevetha naro sapañño āsajja naṃ nassati brahmacārī ”ti. 

3381. Này con, bởi vì các quỷ thần sinh sống ở thế giới loài người với hình dáng biến dạng, con người có trí tuệ không thân cận với chúng, sau khi gần gũi kẻ ấy, người hành Phạm hạnh bị tiêu vong.” 

48. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,
Thiên hình giả dạng! Hãy coi chừng!
Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,
Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Câu chuyện 526

Nalinikājātakaṃ.

***

Bổn Sanh Công Chúa Nalinikā. [526]

***

▪ 2. UMMĀDANTĪJĀTAKAṂ – BỔN SANH MỸ NHÂN UMMĀDANTĪ

527. Chuyện kỹ nữ Ummadantì (Tiền thân Ummadantì)

3382. Nivesanaṃ kassa nudaṃ sunanda pākārena paṇḍumayena guttaṃ,
kā dissati aggisikhāva dūre vehāsayaṃ pabbataggeva acci. 

3382. “Này Sunanda, biệt thự này là của người nào mà được bảo vệ bởi tường thành xây bằng gạch màu cam? Cô nàng nào được nhìn thấy từ đàng xa tựa như ngọn lửa, tựa như đống lửa trên đỉnh ngọn núi ở giữa không trung? 

1. Kia, nhà ai đó, hỡi Su-nan,
Bao bọc thành cao tỏa ánh vàng?
Bảo vật này như sao sáng rực,
Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?

3383. Dhītānayaṃ kassa sunanda hoti suṇisānayaṃ kassa athopi bhariyā, akkhāhi me khippamidheva puṭṭho avāvaṭā yadi vā atthi bhattā.

3383. Này Sunanda, cô này là con gái của ai? Cô này là con dâu của ai, rồi là vợ của ai nữa? Được hỏi, khanh hãy mau mau trả lời cho ta, ngay tại đây, nàng còn chưa được cưới hỏi, hay là đã có chồng?”

2. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
Chính chủ nhà? Hay vợ cậu tôn?
Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
Có chồng, hay chửa được cầu hôn?

3384. Ahaṃ hi jānāmi janinda etaṃ matyā ca petyā ca athopi assā, taveva so puriso bhūmipāla rattindivaṃ appamatto tavatthe.  

3384. “Tâu vị chúa của loài người, thần quả có biết về cô này, về bên mẹ và về bên cha, rồi luôn cả người chồng của cô ấy. Tâu đấng hộ quốc, người đàn ông ấy là thuộc về chính bệ hạ, ngày đêm không xao lãng đối với phúc lợi của bệ hạ. 

3. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần
Đôi bên cha mẹ, thảy am tường;
Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn
Phụng sự quân vương đủ mọi đường.

3385. Iddho ca phīto ca suvaḍḍhito ca amacco ca te aññataro janinda, tassesā bhariyā abhipārakassa ummādantī nāmadheyyena rāja. 

3385. (Người ấy) giàu có, dư dả, vô cùng phát đạt. và là một vị quan đại thần của bệ hạ, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy là người vợ của vị Ahipāraka ấy, với tên gọi là ‘Cô gái làm cho điên cuồng,’ tâu bệ hạ.” 

4. Đại thần này chính của Anh quân,
Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
Mệnh phụ A-li lừng lẫy ấy,
Lọt lòng được gọi Um-ma-dan.

3386. Ambho ambho nāmamidaṃ imissā matyā ca petyā ca kataṃ susādhu, tathā hi mayhaṃ avalokayantī ummattakaṃ ummadantī akāsi. 

3386. “Trời! Trời! Cái tên này dành cho nàng này đã được mẹ và cha tạo ra thật khéo léo! Bởi vì đối với trẫm là như thế ấy, trong khi nhìn trẫm, nàng Ummadantī đã làm cho trẫm trở thành kẻ điên cuồng. 

5. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
Song thân nàng đã đặt cho nàng,
Um-ma, từ lúc nàng nhìn trẫm,
Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng!

3387. Yā puṇṇamāse migamandalocanā upāvisī puṇḍarīkattacaṅgī, dve puṇṇamāyo tadahū amaññaṃ disvāna pārāvatarattavāsiniṃ. 

3387. Nàng ấy, vào đêm trăng tròn, có cặp mắt ngơ ngác của loài nai, đã ngồi ở bên cửa sổ, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng. Sau khi nhìn thấy nàng mặc y phục màu đỏ tựa như chân chim bồ câu, trẫm nghĩ rằng đã có hai mặt trăng tròn. 

6. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền!

3388. Aḷārapamhehi subhehi vagguhi palobhayantī maṃ yadā udikkhati, vijambhamānā harateva me mano jātā vane kimpurisīva pabbate. 

3388. Vào lúc nàng ngước nhìn lên, nàng khiến cho trẫm say đắm bởi hàng lông mi dài, xinh đẹp, dễ thương. Trong lúc nghiêng người (ném bông hoa), nàng chiếm lấy tâm trí của trẫm, tựa như loài nhân điểu cái sanh ra ở trong khu rừng, ở nơi núi non (thu hút nhân điểu đực).

7. Thu ba gợn sóng mắt long lanh
Quyến rũ hồn như sét ái tình,
Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình!

3389. Tadā hi brahatī sāmā āmuttamaṇikuṇḍalā, ekaccavasanā nārī migī bhantāvudikkhati. 

3389. Bởi vì vào lúc ấy, người phụ nữ quý phái, có màu da màu hoàng kim, có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, có trang phục chỉ một tấm vải, tựa như con nai cái ngước nhìn lên trong lúc đang đi quanh quẩn. 

8. Tố nga huyền bí, thật cao vời,
Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
Rụt rè như vẻ một con nai.

3390. Kadāssu maṃ tambanakhā sulomā bāhā mudū candanasāralittā,
vaṭṭaṅgulī sannatadhīrakuttiyā nārī upaññissati sīsato subhā.

3390. Vậy thì khi nào thì người phụ nữ xinh đẹp đến tận đỉnh đầu, có móng tay màu đồng đỏ, có mái tóc đẹp, có hai cánh tay mềm mại, được thoa tinh chất trầm hương, có các ngón tay tròn trịa, có các cử chỉ khôn khéo đã được tính toán, sẽ đoái hoài đến trẫm?

9. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
Chiên- đàn tỏa ngát, dịu đôi tay
Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
Ðến thuở nào cười với trẫm đây

3391. Kadāssu maṃ kañcanajāluracchadā dhītā tirīṭissa vilākamajjhā, mudūhi bāhāhi paḷissajissati brahāvane jātadumaṃva māluvā. 

3391. Vậy thì khi nào thì người con gái có tấm lưới bằng vàng che ở ngực, có làn eo thon của (gia tộc) Tirīṭi, sẽ ôm chặt lấy trẫm bằng hai cánh tay mềm mại, tựa như loài dây leo māluvā quấn chặt lấy thân cây mọc lên ở khu rừng bao la?

10. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
Trước ngực phô trương món bội hoàn,
Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt
Khác nào cát lũy bám cây rừng?

3392. Kadāssu lākhārasarattasucchavī bindutthanī puṇḍarīkattacaṅgī, mukhaṃ mukhena upanāmayissati soṇḍova soṇḍassa surāya thālaṃ.

3392. Vậy thì khi nào người phụ nữ có làn da đẹp hồng hào với màu cánh kiến, có bầu ngực tròn, có làn da và cơ thể màu hoa sen trắng, sẽ mặt đối mặt dâng lên chén rượu, tựa như kẻ say sưa đối với kẻ say sưa?

11. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền!

3393. Yadāddaṃ taṃ tiṭṭhantiṃ sabbagattaṃ manoramaṃ, tato sakassa cittassa nāvabodhāmi kañcinaṃ. 

3393. Vào lúc trẫm nhìn thấy nàng ấy, với toàn bộ cơ thể làm thích ý, đang đứng, từ khi ấy, trẫm không còn nhận biết bất cứ người nào ở trong tâm của mình nữa.

12. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng
Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
Không còn tự chủ lòng ta nữa,
Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan!

3394. Ummādantimahaṃ diṭṭho āmuttamaṇikuṇḍalaṃ, na supāmi divārattiṃ sahassaṃva parājito. 

3394. (Từ khi) trẫm nhìn thấy nàng Ummādantī có bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, trẫm không ngủ ban ngày và ban đêm, tựa như kẻ đã bị đánh bại một ngàn lần.

13. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Um-ma,
Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta!

3395. Sakko ca me varaṃ dajjā so ca labbhetha me varo, ekarattaṃ dirattaṃ vā bhaveyyaṃ ahipārako, ummādantyā ramitvāna sivirājā tato siyaṃ. 

3395. Nếu Thiên Chủ Sakka ban cho trẫm điều ước muốn, và điều ước muốn ấy có thể đạt được bởi trẫm. Trẫm (ước muốn) có thể trở thành Ahipāraka một đêm hoặc hai đêm, sau khi vui sướng cùng Ummādantī rồi lại trở thành vua xứ Sivi.”

14. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền:
Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
Hưởng đời cùng với Um-ma ấy,
Ðể tướng A-hi trị nước liền.

3396. Bhūtāni me bhūtapatī namassato āgamma yakkho idamevamabravi,
rañño mano ummadantyā niviṭṭho dadāmi te taṃ paricārayassu. 

3396. “Tâu vị chúa tể của muôn dân, lúc thần đang lễ bái các thần linh, có vị Dạ-xoa đi đến và đã nói điều này như vầy: ‘Tâm trí của đức vua đã bị vương vấn với Ummadantī.’ Thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ. Bệ hạ hãy bảo nàng ấy hầu hạ.” 

15. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
– “Um-ma mê hoặc lòng kim thượng”-
Mong chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng!

3397. Puññā vidhaṃse amaro na camhi jano ca me pāpamidanti jaññā, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.

3397. “Trẫm sẽ hủy hoại các phước báu, và trẫm không phải là người. Loài người có thể biết về điều xấu xa này của trẫm. Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

16. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
Thế giới đều hay đại tội ta,
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chẳng gặp lại Um-ma.

3398. Janinda nāññatra tayā mayā vā sabbāpi kammassa katassa jaññā, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.

3398. “Tâu vị chúa của loài người, ngoại trừ bệ hạ và hạ thần, tất cả mọi người đều không thể nào biết về hành động đã được làm. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

17. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
Việc kia, ai biết giữa trần gian?
Um-ma, tặng vật xin dâng chúa,
Phỉ nguyện, rồi đem trả lại nàng.

3399. Yo pāpakaṃ kammakaraṃ manusso so maññati māyidaṃ maññiṃsu aññe, passanti bhūtāni karontametaṃ yuttā va ye honti narā paṭhabyā.

3399. “Kẻ nào là người có làm hành động xấu xa, kẻ ấy nghĩ rằng: ‘Mong rằng những người khác đừng biết về việc này của ta.’ Các thần linh và những hạng người nào ở trái đất được gắn bó với thần thông thì nhìn thấy kẻ làm việc ấy.”

18. Kẻ ác nghĩ:?Không một thế nhân
Hẳn từng chứng kiến tội ta làm?.
Song toàn việc ấy, đều hay biết
Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.

3400. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.

3400. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

19. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chăng gặp lại phu nhân.

3401. Addhā piyā mayha janinda esā na sā mama appiyā bhūmipāla, gaccheva tvaṃ ummadantiṃ bhadante sīhova selassa guhaṃ upehi.  

3401. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bệ hạ hãy đi đến với Ummadantī, thưa bậc đáng tôn kính, tựa như con sư tử đực đi đến hang của con sư tử cái.”

20. Nàng quý yêu như mạng sống mình
Thực là vợ thắm thiết bao tình,
Song hoàng thượng đến Um-ma gấp,
Như hổ, sư về thạch động nhanh.

402. Na pīḷitā attadukkhena dhīrā sukhapphalaṃ kammaṃ pariccajanti, sammohitā vāpi sukhena mattā na pāpakammañca samācaranti.  

3402. “Không vì bị hành hạ bởi sự khổ đau của bản thân, mà các bậc sáng trí buông bỏ việc làm có quả báo an lạc. Dầu cho bị hoàn toàn mê muội, hoặc bị đắm say hạnh phúc, các vị vẫn không thực hiện hành động xấu xa.”

21. Bậc trí, dù đau khổ ngập tràn
Cũng không bỏ việc tạo bình an,
Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc
Tội lỗi thế kia, chẳng dám làm!

3403. Tuvañhi mātā ca pitā ca mayhaṃ bhattā patī posako devatā ca, dāso ahaṃ tuyha saputtadāro yathāsukhaṃ sibba karohi kāmaṃ.

3403. “Bởi vì bệ hạ là người mẹ và là người cha của hạ thần, là người chồng, là chủ nhân, là người nuôi dưỡng, và là vị Thiên thần. Hạ thần cùng với vợ con đều là tôi tớ của bệ hạ. Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.” 

22. Tâu Ðại vương là dưỡng phụ thân,
Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
Thê nhi, xin hiến làm nô lệ,
Thánh thượng Si-vi hãy đẹp lòng!

3404. Yo issaromhīti karoti pāpaṃ. katvā ca so nuttapate paresaṃ, na tena so jīvati dīghamāyuṃ devāpi pāpena samekkhare naṃ.

3404. “Kẻ nào (nghĩ rằng): ‘Ta là chúa tể’ rồi làm việc ác, là sau khi làm xong, kẻ ấy không tỏ ra hối lỗi đối với những người khác. Do điều ấy, kẻ ấy không sống cuộc sống dài lâu. Ngay cả chư Thiên cũng nhìn kẻ ấy với ánh mắt xấu xa.” 

23. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
Bảo: “Chính đây là chúa vạn năng?
Chỉ nửa đời thôi, e khó sống,
Thánh thần thấy vậy, chẳng bằng lòng.

3405. Aññātakaṃ sāmikehī padinnaṃ dhamme ṭhitā ye paṭicchanti dānaṃ, paṭicchakā dāyakā cāpi tattha sukhapphalaññeva karonti kammaṃ.

3405. “Khi các chủ nhân biếu tặng vật ngoại thân và những người đã trú vào thiện pháp tiếp nhận vật thí, trong trường hợp ấy, người nhận lãnh và luôn cả người bố thí đều thực hiện việc làm có quả báo an lạc.” 

24. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng
Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
Vậy người đem tặng cùng người nhận
Làm việc thành công, quả vạn toàn.

3406. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.

3406. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

25. Dù khanh có bảo: “Chẳng yêu nàng?,
Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
Phải biết, lòng khanh đầy khổ não,
Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.

3407. Addhā piyā mayha janinda esā na sā mama appiyā bhūmipāla, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.

3407. “Nàng ấy quả thật là người yêu quý của thần, tâu vị chúa của loài người. Nàng ấy không phải là không được thần yêu quý, tâu đấng hộ quốc. Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

26. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
Thật nàng là vợ quý vô ngần,
Um-ma, tặng vật, xin dâng hiến,
Thỏa nguyện, rồi đem trả lại nàng.

3408. Yo attadukkhena parassa dukkhaṃ sukhena vā attasukhaṃ dahāti, yathevidaṃ mayha tathā paresaṃ yo evaṃ jānāti sa vedi dhammaṃ.

3408. “Kẻ nào tạo ra khổ đau cho người khác bằng khổ đau của mình, hoặc tạo ra hạnh phúc cho mình bằng hạnh phúc của người khác, (nghĩ rằng): ‘Việc này đối với ta y như thế nào thì đối với những người khác là như vậy;’ người nào biết như vậy, người ấy hiểu biết về đạo đức.”

27. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
Như mình, chẳng biết chánh chân rồi!

3409. Añño nu te koci naro paṭhabyā saddaheyya lokasmiṃ na me piyāti, bhuso ca tyassa manaso vighāto datvā piyaṃ ummadantiṃ adiṭṭhā.  

3409. “Có người đàn ông nào khác ở trên trái đất, ở trên thế gian, có thể tin được lời của khanh rằng: ‘Ummadantī không được tôi yêu mến’? Và có thể có nhiều sự khó chịu ở tâm trí của khanh do không được nhìn thấy nàng, sau khi đã dâng hiến nàng Ummadantī yêu quý.”

 3410. Janinda jānāsi piyā mamesā na sā mamaṃ appiyā bhūmipāla, piyena te dammi piyaṃ janinda piyadāyino deva piyaṃ labhanti. 

3410. “Tâu vị chúa của loài người, bệ hạ biết rằng nàng ấy là người yêu quý của thần. Tâu đấng hộ quốc, nàng ấy không phải là không được thần yêu quý. Tâu vị chúa của loài người, thần dâng hiến vật yêu quý đến bệ hạ vì lòng yêu quý. Tâu bệ hạ, những người bố thí vật yêu quý đạt được vật yêu quý.”

28. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
Thật nàng được ái luyến khôn lường,
Thần dâng bảo vật, không hoài của,
Như vậy, người cho đã hưởng phần.

3411. So nūnāhaṃ vadhissāmi attānaṃ kāmahetukaṃ, na hi dhammaṃ adhammena ahaṃ vadhitumussahe. 

3411. “Không lẽ trẫm đây sẽ hủy hoại bản thân vì nguyên nhân dục vọng! Trẫm không bao giờ ra sức để hủy hoại đạo đức bởi điều phi đạo đức.”

29. Ta có thể làm hại bản thân
Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
Song ta quyết chăng bao giờ dám
Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.

3412. Sace tuvaṃ mayha satiṃ janinda na kāmayāsi naravīraseṭṭha, cajāmi naṃ sabbajanassa sibba mayā pamuttaṃ tato avhayesi naṃ.

3412. “Tâu vị chúa của loài người, nếu bệ hạ nghĩ rằng nàng đang thuộc về hạ thần, tâu vị dũng sĩ hạng nhất ở loài người, nên bệ hạ không ham muốn nàng. Tâu Sibba, hãy để thần xả bỏ nàng ấy đến tất cả mọi người. Khi nàng đã được thần trả tự do, sau đó, bệ hạ hãy đưa nàng đi.”

30. Ví thử Minh quân phải khước từ
Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
Xin triệu nô tỳ vời chiếu thư!

3413. Adūsiyaṃ ce ahipāraka tvaṃ cajāsi katte ahitāya tyassa, mahā ca te upavādopi assa na cāpi tyassa nagaramhi pakkho.

3413. “Này Ahipāraka, nếu nàng không có lỗi lầm mà khanh bỏ rơi nàng khi không còn lợi ích đối với khanh, này người có công lao, có thể có sự chỉ trích lớn đối với khanh, và thậm chí dư luận ở thành phố có thể không thuộc về khanh.”

31. Ví dù đại tướng hại thân mình,
Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
E phải chịu bao lời khiển trách,
Chẳng hề ai nói đúng công bình.

3414. Ahaṃ sahissaṃ upavādametaṃ nindaṃ pasaṃsaṃ garahañca sabbaṃ, mametamāgacchatu bhūmipāla yathāsukhaṃ sibba karohi kāmaṃ.

3414. “Thần sẽ chịu đựng sự chỉ trích ấy, sự chê bai, sự khen ngợi, và mọi sự khiển trách. Tâu đấng hộ quốc, hãy để việc ấy xảy đến với thần. Tâu Sibba, xin bệ hạ hãy hưởng dụng dục lạc một cách thoải mái.”

32. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
Ðể mặc lời bình phẩm, ngợi khen,
Trút xuống hạ thần như ý muốn,
Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền!

3415. Yo neva nindaṃ na punappasaṃsaṃ ādīyati garahaṃ nopi pūjaṃ, sirī ca lakkhī ca apeti tamhā āpo suvuṭṭhīva yathā thalamhā.

3415. “Kẻ nào không quan tâm đến sự chê bai, rồi sự khen ngợi, và sự khiển trách, luôn cả sự dâng cúng, thì vinh quang và sự may mắn rời xa kẻ ấy, giống như nước từ cơn mưa lớn rời khỏi mặt đất.”

33. Kẻ không màng đến việc khen, chê,
Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
Tài sản, vinh quang đều biến mất,
Như cơn lũ rút, đất khô đi.

3416. Yaṃ kiñci dukkhañca sukhañca etto dhammātisārañca manovighātaṃ, urasā ahaṃ paṭicchissāmi sabbaṃ paṭhavī yathā thāvarānaṃ tasānaṃ.

3416. “Bất cứ khổ đau hay hạnh phúc nào từ việc này, và sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí, thần sẽ ưỡn ngực đón nhận tất cả, giống như trái đất đối với mọi thứ, bất động và cử động.”

34. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
Như đất khoan dung cả dữ, lành.

3417. Dhammātisārañca manovighātaṃ dukkhaṃ ca nicchāmi ahaṃ paresaṃ, ekopimaṃ tārayissāmi bhāraṃ dhamme ṭhito kañci ahāpayanto.
 

3417. “Sự vượt qua lề thói đạo đức có sự khó chịu ở tâm trí, và trẫm không muốn những người khác có sự khổ đau. Một mình trẫm sẽ vượt qua gánh nặng này, người đã trú vào thiện pháp không bỏ quên bất cứ một ai.”

35. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
Làm càn, cho bạn phải ưu sầu,
Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
Chân chánh, không làm vướng bận nhau.

3418. Saggūpagaṃ puññakammaṃ janinda mā me tuvaṃ antarāyaṃ akāsi, dadāmi te ummadantiṃ pasanno rājāva yaññaṃ dhanaṃ brāhmaṇānaṃ. 

3418. “Tâu vị chúa của loài người, việc làm phước đưa đến cõi Trời. Xin bệ hạ chớ gây chướng ngại cho thần. Được tịnh tín, thần dâng nàng Ummadantī đến bệ hạ, tựa như vị vua dâng vật hiến cúng là tài sản đến các vị Bà-la-môn.” 

36. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
Tặng vật Um-ma, thần cống hiến
Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.

3419. Addhā tuvaṃ katte hitosi mayhaṃ sakhā mama ummadantī tuvañca, nindeyyu devā pitaro ca sabbe pāpañca passaṃ abhisamparāyaṃ.

3419. “Này quan đại thần, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm. Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm. Chư Thiên, các vị Phạm Thiên, và tất cả cư dân sẽ chê bai,trong khi nhìn thấy sự xấu xa trong ngày vị lai.”

37. Khanh đối cùng ta thật chí thành
Khanh và hiền nội, bạn chân tình;
Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách
Nguyền rủa, ta mang mãi nặng mình.

3420. Nahetaṃ dhammaṃ sivirāja vajjuṃ sanegamā jānapadā ca sabbe, yante mayā ummadantī padinnā bhusehi rājā vanathaṃ sajāhi.

3420. “Tâu đức vua Sivi, tất cả dân chúng có cả các thị dân không có thể nói rằng: ‘Việc ấy không phải là phi đạo đức.’ Bởi vì nàng Ummadantī đã được thần dâng đến bệ hạ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy tận hưởng thú yêu đương, rồi hoàn trả lại (nàng cho hạ thần).”

38. Thần chắc dân quê đến thị dân
Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
Vì Um-ma, chính thần dâng hiến,
Thỏa nguyện, rồi đem trả lại thần.

3421. Addhā tuvaṃ katte hitosi mayhaṃ sakhā mama ummadantī tuvañca, satañca dhammāni sukittitāni samuddavelāva duraccayāni.

3421. “Này người có công lao, quả thật khanh là người có lợi ích cho trẫm. Nàng Ummadantī và khanh là bằng hữu của trẫm. Các lời giáo huấn của các bậc thiện nhân đã khéo được thuyết giảng là không thể vi phạm, tựa như bờ biển là không thể được qua.”

39. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.

3422. Āhuneyyo mesi hitānukampī dhātā vidhātā casi kāmapālo, tayī hutā deva mahapphalā hi kāmena me ummadantiṃ paṭiccha.

3422. “Bệ hạ có sự quan tâm đến điều tốt đẹp, là xứng đáng với sự hiến cúng của thần. Bệ hạ là người nâng đỡ, là người bảo quản, và là người ngự trị các dục. Tâu bệ hạ, các vật đã được dâng hiến đến bệ hạ chắc chắn có quả báo lớn lao. Xin bệ hạ hãy tiếp nhận nàng Ummadantī theo ước muốn của thần.”

40. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần
Những gì thần ước, đại ân nhân,
Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
Xin nhận Um-ma, của biếu không.

3423. Addhā hi sabbaṃ ahipāraka tvaṃ dhammaṃ acārī mama kattuputta, añño nu te ko idha sotthikattā dipado naro aruṇe jīvaloke.

3423. “Này Ahipāraka, quả thật khanh đã thực hành mọi phận sự đối với trẫm. Này người con trai của vị quan đại thần, vậy ngoài khanh ra, có con người hai chân nào khác là người tạo ra sự bình yên ở nơi này, ở thế gian của cuộc sống, từ lúc rạng đông?”

41. Tri kỷ A-hi, quả thật tình,
Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
Ðâu còn ai nữa trong nhân thế
Nỗ lực cho ta được tốt lành?

3424. Tuvaṃ nu seṭṭho tvamanuttarosi tvaṃ dhammagutto dhammavidū sumedho, so dhammagutto cirameva jīva dhammañca me desaya dhammapāla.

3424. “Bệ hạ là hạng nhất, bệ hạ là vô thượng. Bệ hạ là người bảo vệ đạo lý, là người thông hiểu đạo lý, là bậc thiện trí. Cầu cho người bảo vệ đạo lý ấy sống thật dài lâu. Tâu vị hộ trì đạo lý, xin bệ hạ hãy giảng giải đạo lý cho thần.”

42. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
Thông hiểu chánh hành, đại trí nhân,
Vạn tuế Pháp vương, đầy chánh hạnh,
Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.

3425. Tadiṅgha ahipāraka suṇohi vacanaṃ mama, dhammante desayissāmi sataṃ āsevitaṃ ahaṃ.

3425. “Này Ahipāraka, giờ khanh hãy lắng nghe lời nói của trẫm. Trẫm sẽ giảng giải cho khanh về đạo lý đã được các bậc thiện nhân thực hành.

43. Ðến đây, Ðại tướng A-hi-pà,
Hãy lắng nghe lời nói của ta,
Ta sẽ dạy thanh toàn chánh đạo
Thực hành bởi các thiện nhân xưa:

3426. Sādhu dhammarucī rājā sādhu paññāṇavā naro, sādhu mittānamaddubbho pāpassākaraṇaṃ sukhaṃ. 

3426. Tốt đẹp thay vị vua vui thích ở thiện pháp! Tốt đẹp thay con người có trí tuệ! Tốt đẹp thay kẻ không phản bội bạn bè! Không làm điều ác là hạnh phúc.

44. Vua cầu Chánh pháp, được ân trời,
Bậc trí tối ưu giữa mọi người,
Không phản bạn lành là thiện hảo,
Tránh đường tà, cực lạc cao vời!

3427. Akkodhanassa vijite ṭhitadhammassa rājino, sukhaṃ manussā āsetha sītacchāyāya saṅghare.

3427. Ở lãnh địa của vị vua không có sự giận dữ, có công lý đã được thiết lập, loài người có thể sinh sống hạnh phúc trong bóng mát (của thân quyến) ở căn nhà của mình.

45. Dưới quyền đức độ của minh quân
Như bóng cây che nắng trú thân,
Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.

3428. Na cāhametaṃ abhirocayāmi kammaṃ asamekkha kataṃ asādhu, yevāpi ñatvāna sayaṃ karonti upamā imā mayha tuvaṃ suṇohi.

3428. Không xem xét mà đã thực hiện hành động là không tốt đẹp. Và trẫm không hứng thú về việc ấy. Chỉ những người nào sau khi đã biết thì tự mình hành động. Khanh hãy lắng nghe ví dụ này của trẫm.

46. Việc ác, nào ta có tán đồng,
Dù là vô ý vẫn sai lầm:
Ngu si là tội ta khinh ghét,
Nghe ví dụ này, khắc tận tâm.

3429. Gavañce taramānānaṃ jimhaṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā jimhaṃ gacchanti nette jimhaṃ gate sati.

3429. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.

47. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
Cả đám bò con lạc bước luôn,

3430. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ce adhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ dukhaṃ seti rājā ce hoti adhammiko.

3430. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.

Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
Cả đoàn thấp kém, liền theo gót,
Cả nước than thời loạn nhiễu nhương.

3431. Gavañce taramānānaṃ ujuṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā ujuṃ gacchanti nette ujugate sati.

3431. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.

48. Song nếu bò cha lái đúng dòng,
Ðoàn bò thẳng tiếp bước sau lưng;

3432. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so cepi dhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko. 

3432. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.

Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
Thanh tịnh an bình liền phát khởi
Khắp miền cương thổ với non sông.

3433. Na cāpahaṃ adhammena amarattamabhipatthaye, imaṃ vā paṭhaviṃ sabbaṃ vijetuṃ ahipāraka. 

3433. Và trẫm cũng không ước nguyện bản thể Thiên nhân một cách phi pháp, hay là để chiến thắng toàn bộ trái đất này, này Ahipāraka.

49. Ví dầu trẫm được cả trần gian
Cũng chẳng làm sao, hỡi Tướng quân,
Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp
Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.

3434. Yaṃ hi kiñci manussesu ratanaṃ idha vijjati, gāvo dāso hiraññañca vatthiyaṃ haricandanaṃ. 

3434. Bởi vì bất cứ vật gì quý báu ở giữa loài người được tìm thấy ở nơi này: như là trâu bò, nô lệ, vàng, vải vóc, trầm hương màu vàng,–

50. Nhũng gì quý giá giữa nhân gian,
Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
Thuấn mã, xiêm y, kho của cải,
Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,

3435. Assitthiyo ca ratanaṃ maṇikañca yañcāpi me candasuriyābhipālayanti, na tassa hetu visamaṃ careyya majjhe sivīnaṃ usabhosmi jāto.

3435. –ngựa, phụ nữ, bảo vật, vòng ngọc, và luôn cả nơi nào mà mặt trời và mặt trăng (chiếu sáng) bảo hộ cho trẫm, nhưng không vì nguyên nhân của việc ấy mà trẫm hành xử không công bằng, bởi vì trẫm là quý tộc, được sanh ra ở trong dòng tộc Sivi.

Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
Trẫm vốn Si-vi dòng quý tộc,
Người cai trị chính đáng công bằng!

3436. Netā pitā uggato raṭṭhapālo dhammaṃ sivīnaṃ apacāyamāno, so dhammamevānuvicintayanto tasmā sake cittavase na vatte. 

3436. Là bậc lãnh đạo, người cha, người nổi bật, đấng hộ trì đất nước, trong lúc tôn kính truyền thống của người dân Sivi, trong lúc suy xét về chính truyền thống ấy, trẫm đây. do đó, không thể hành động theo sự tác động của tâm mình.” 

51. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
Trẫm quyết trị dân theo Chánh đạo,
Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.

3437. Addhā tuvaṃ mahārāja niccaṃ abyasanaṃ sivaṃ, karissasi ciraṃ rajjaṃ paññā hi tava tādisī. 

3437. “Tâu đại vương, đúng vậy, bệ hạ sẽ cai trị vương quốc lâu dài, vĩnh viễn, không bị suy sụp, an toàn, bởi vì trí tuệ của bệ hạ là như thế ấy.

52. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành!
Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh!
Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh!

3438. Etaṃ te anumodāmi yaṃ dhammaṃ nappamajjasi, dhammaṃ pamajja khattiyo ṭhānā cavati issaro. 

3438. Thần tùy hỷ với điều ấy của bệ hạ, về việc bệ hạ không xao lãng truyền thống. Sau khi xao lãng truyền thống, vị Sát-đế-lỵ, vị chúa tể đánh mất ngôi vị.

53. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
Vì Ðại vuơng chân chánh nhiệt tâm,
Các bạo chúa nào quên Chánh đạo
Từ nay ắt phải mất ngai vàng.

3439. Dhammaṃ cara mahārāja mātāpitusu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3439. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với mẹ cha, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

54. Với xuân huyên là đấng song thân,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.

3440. Dhammaṃ cara mahārāja puttadāresu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.

3440. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với vợ con, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

55. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
Xin thực hành chân chánh Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.

3441. Dhammaṃ cara mahārāja mittāmaccesu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3441. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với bạn bè và đồng nghiệp, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

56. Với bao bằng hữu, đám triều thần,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.

3442. Dhammaṃ cara mahārāja vāhanesu balesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3442. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các đội xe và các đoàn quân, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

57. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
Xin Ðại vương chân chính thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.

3443. Dhammaṃ cara mahārāja gāmesu nigamesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3443. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các làng mạc và các thị trấn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

58. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đình.

3444. Dhammaṃ cara mahārāja raṭṭhesu janapadesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3444. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các quốc độ và các xứ sở, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

59. Mọi miền quốc độ, khắp giang sơn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.

3445. Dhammaṃ cara mahārāja samaṇabrāhmaṇesu ca, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi.
 

3445. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời. 

60. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.

3446. Dhammaṃ cara mahārāja migapakkhīsu khattiya, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3446. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp đối với các loài thú và chim chóc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

61. Với loài súc vật, các chim muông,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo Chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên dường.

3447. Dhammaṃ cara mahārāja dhammo ciṇṇo sukhāvaho, idha dhammaṃ caritvāna rāja saggaṃ gamissasi. 

3447. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Thiện pháp được thực hành là nguồn dem lại sự an lạc, tâu vị Sát-đế-lỵ. Sau khi hành thiện pháp ở nơi này, tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ đi đến cõi Trời.

62. Thực hành chân chánh, tấu quân vương,
Do đấy, nguồn ân phước tưới tràn,
Nhờ tiến bước theo đời Chánh hạnh,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đàng.

3448. Dhammaṃ cara mahārāja saindā devā sabrahmakā, suciṇṇena divaṃ pattā mā dhammaṃ rāja pamādo ”ti. 

3448. Tâu đại vương, hãy hành xử đúng pháp. Chư Thiên, với Thiên chủ Đế Thích, với các Phạm Thiên, đã đạt được Thiên cung do đã khéo thực thành. Tâu bệ hạ, chớ có sự xao lãng thiện pháp.” 

63. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
Giáo sĩ, chư Thiên và Ðế Thích
Từ xưa đã đạt đến thiên đường.

Câu chuyện 527

Ummādantījātkaṃ.

***

Bổn Sanh Mỹ Nhân Ummādantī. [527]

***

▪ 3. MAHĀBODHIJĀTAKAṂ – BỔN SANH BẬC ĐẠI NHÂN MAHĀBODHI

528. Chuyện hiền giả đại Bồ đề  (Tiền thân Mahà-Bodhi)

3449. Kinnu daṇḍaṃ kimajinaṃ kiṃ chattaṃ kiṃ upāhanaṃ, kiṃ aṅkusañca pattañca saṅghāṭiñcāpi brāhmaṇa, taramānarūpo gaṇhāsi kannu patthayase disaṃ. 

3449. “Tại sao ngài có vẻ vội vã cầm lấy cây gậy chống, mảnh y phục da dê, cái dù che, đôi đép, cái móc câu, cái bình bát, và luôn cả tấm y khoác ngoài? Thưa vị Bà-la-môn, ngài mong muốn đi về hướng nào?”

1. Có nghĩa gì chăng các vật này,
Lọng, giầy, y, gậy lại cầm tay?
Thượng y, bình bát, cùng dao quắm,
Ta muốn hiểu ra cớ sự vầy,
Ðến xứ sở nào xa cách lắm,
Sao ngài nóng vội bỏ đi ngay?

3450. Dvādasetāni vassāni vusitāni tavantike, nābhijānāmi soṇena piṅgalenābhikujjitaṃ. 

3450. “Mười hai năm này được sống gần bệ hạ, bần đạo không biết gì về tiếng sủa của con chó hung.

2. Tâu Ðại vương, hơn một thập niên,
Hạ thần an trú chốn hoa viên,
Từ nay về trước, chưa hề thấy
Con chó này cất tiếng sủa lên.

3451. Svāyaṃ dittova nadati sukkadāṭhaṃ vidaṃsayaṃ, tava sutvā sabhariyassa vītasaddhassa maṃ pati. 

3451. Sau khi nghe được bệ hạ và hoàng hậu không còn niềm tin đối với bần đạo, con chó này đây gầm gừ tựa như kiêu ngạo, còn nhe răng trắng hếu.”

3. Hôm nay chó nọ lại nhe răng
Trắng nhởn, kiêu căng thật dữ dằn,
Vì đã nghe ngài cùng chánh hậu,
Báo cho thần biết, sủa vang rần!

3452. Ahu esa kato doso yathā bhāsasi brāhmaṇa, esa bhiyyo pasīdāmi vasa brāhmaṇa māgamā. 

3452. “Thưa vị Bà-la-môn, lỗi lầm ấy đã được tạo ra giống như ngài nói. Trẫm đây tin tưởng vào ngài nhiều hơn nữa. Thưa vị Bà-la-môn, ngài hãy ở lại, xin chớ ra đi.”

4. Tội ấy của ta thật đúng phần,
Ðích ta đà nhắm giết Tôn nhân,
Song nay ân huệ ban lần nữa,
Mong ước Tôn nhân hãy nán chân.

3453. Sabbaseto pure āsi tatopi sabalo ahu, sabbalohitakodāni kālo pakkamituṃ mama.

3453. “Trước đây, đã là cơm trắng toàn bộ. Sau đó, đã có lấm tấm (trộn lẫn gạo đỏ). Bây giờ, toàn bộ gạo đỏ. Là thời điểm ra đi của bần đạo.

5. Thực phẩm ngày xưa sạch, trắng ngần,
Kế theo màu sắc tạp nham dần,
Ðến nay đã hóa thành nâu sẫm,
Chính lúc này ta phải rút chân.

3454. Abbhantaraṃ pure āsi tato majjhe tato bahi, purā niddhamanā hoti sayameva vajāmahaṃ. 

3454. Trước đây, (chỗ ngồi) là ở phòng trong, sau đó là phòng giữa, kế đến là ở bên ngoài. Bần đạo hãy tự mình ra đi trước khi có việc tống khứ.

6. Buổi đầu tọa thực ở trên ngai,
Kế đó cầu thang, cuối bệ dài,
Trước lúc ta chờ dài cổ họng,
Ta đành tử giã chốn này thôi.

3455. Vītasaddhaṃ na seveyya udapānaṃvanodakaṃ, sacepi naṃ anukhaṇe vārikaddama gandhikaṃ. 

3455. Không nên thân cận người đã không còn niềm tin (đối với mình), tựa như cái giếng không còn nước, thậm chí nếu có thể đào sâu thêm thì cũng chỉ là nước bùn có mùi hôi.

7. Ngài chớ mến yêu bạn bất trung:
Khác gì đâu cái giếng khô cùn,
Dù đào sâu đến bao nhiêu mẫu,
Dòng nước tuôn ra cũng đục bùn.

3456. Pasannameva seveyya appasannaṃ vivajjaye, pasannaṃ payirupāseyya rahadaṃvodakatthiko. 

3456. Nên thân cận người thật sự tin tưởng (mình), nên xa lánh kẻ không tin tưởng, nên gần gũi người tin tưởng (mình), tựa như người cần nước gần gũi cái hồ.

8. Phải lo kết nghĩa bạn trung can,
Hãy tránh xa liền bạn bất nhân,
Như kẻ khát đi tìm suối nước,
Bạn vàng trung tín phải theo gần.

3457. Bhaje bhajantaṃ purisaṃ abhajantaṃ na bhajjaye, asappurisadhammo so yo bhajantaṃ na bhajjati. 

3457. Nên cộng sự với người cộng sự (với mình), không nên cộng sự với kẻ không cộng sự (với mình). Kẻ nào không cộng sự với người cộng sự (có thiện tâm), kẻ ấy có bản chất của kẻ phi chân nhân.

9. Lưu luyến bạn thân luyến ái ngài,
Ðem tình ngài đáp lại tình ai,
Kẻ ruồng bỏ bạn vàng trung tín
Ðược kể là người đốn mạt thôi.

3458. Yo bhajantaṃ na bhajati sevamānaṃ na sevati, sa ve manussapāpiṭṭho migo sākhassito yathā. 

3458. Kẻ nào không cộng sự với người đang cộng sự, không thân cận người đang thân cận, chính kẻ ấy là tồi tệ nhất ở loài người, giống như loài thú, loài khỉ. 

10. Kẻ chẳng luyến lưu bạn thủy chung,
Chẳng đem tình đáp lại tình thân,
Giữa đời là kẻ đê hèn nhất,
Ðịa vị không hơn lũ khỉ rừng.

3459. Accābhikkhaṇasaṃsaggā asamosaraṇena ca, etena mittā jīranti akāle yācanāya ca. 

3459. Do gặp gỡ thường xuyên quá nhiều, d0 không hội họp chung, và do yêu cầu không đúng thời, do việc ấy các thân hữu bị suy giảm.

11. Gặp gỡ quá nhiều cũng xấu xa,
Khác nào chẳng gặp gỡ bao giờ.
Hỏi xin ân huệ nào nhanh quá
Cũng khiến tình thân hóa nhạt nhòa!

3460. Tasmā nābhikkhaṇaṃ gacche na ca gacche cirāciraṃ, kālena yācaṃ yāceyya evaṃ mittā na jīyare.

3460. Vì thế, không nên qua lại thường xuyên, và quá lâu không qua lại, nên bày tỏ yêu cầu lúc hợp thời, như vậy thì các thân hữu không bị suy giảm.

12. Viếng bạn, song đừng đến viếng luôn,
Cũng không nấn ná bước dừng chân,
Ðúng thời, ta mới cầu ân huệ,
Nhờ thế tình thân chẳng lụi dần.

3461. Aticiraṃ nivāsena piyo bhavati appiyo, āmanta kho taṃ gacchāma purā te homa appiyā.

3461. Do việc cư ngụ quá lâu mà người yêu quý không còn được yêu quý. Thật vậy, hãy để chúng tôi chào bệ hạ và ra đi, trước khi chúng tôi đây không còn được yêu quý.”

13. Ai cứ kéo dài cuộc trú chân,
Thấy thường bằng hữu hóa cừu nhân;
Trước khi ta mất tình bằng hữu,
Xin giã biệt ngay, tiến bước đường.

3462. Evaṃ ce yācamānānaṃ añjaliṃ nāvabujjhasi, paricārakānaṃ sattānaṃ vacanaṃ na karosi no, evaṃ taṃ abhiyācāma puna kayirāsi pariyāyaṃ.

3462. “Nếu như ngài không để tâm đến việc chắp tay của những người đang thỉnh cầu, nếu ngài không nói lời nào với chúng tôi, những người hộ độ ngài, thì chúng tôi thỉnh cầu ngài như vầy: Mong rằng ngài có thể thực hiện việc quay trở lại lần nữa.”

14. Dù trẫm chắp tay khẩn thiết nài,
Ngài không muốn để lọt vào tai,
Chẳng dành lời nói cho quần chúng
Tha thiết cầu ân đức của ngài,
Trẫm khát khao ngài ban tối huệ
Xin về đây viếng trẫm nay mai.

3463. Evaṃ ce no viharataṃ antarāyo na hessati, tumhaṃ cāpi mahārāja amhaṃ vā raṭṭhavaḍḍhana, appeva nāma passema ahorattānamaccaye.

3463. “Tâu đại vương, nếu như sẽ không có nguy biến xảy ra cho chúng tôi trong khi sinh sống, và đối với bệ hạ nữa, hoặc đối với (cả hai) chúng ta, tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, có lẽ chúng ta sẽ gặp lại (sau một thời gian) khi những ngày đêm đã qua đi.”

15. Nếu không gì gián đoạn dòng đời,
Ví thử ngài, ta, Ðại đế ôi!
Còn sống, hỡi người-nuôi-quốc-độ,
Ta bay về lại chốn này thôi,
Rồi ta còn dịp lành tương kiến
Trong lúc ngày đêm lờ lững trôi.

3464. Udīraṇā ce saṅgatyā bhāvāya manuvattati, akāmā akaraṇīyaṃ vā karaṇīyaṃ vāpi kubbati, akāmakaraṇīyasmiṃ kvidha pāpena lippati.

3464. “Nếu nói rằng: Thế gian này diễn tiến d0 điều kiện tự nhiên của sự hội tụ, con người tạo tác việc không nên làm (việc ác) hay việc nên làm (việc thiện) không do ước muốn; trong trường hợp việc được làm không do ước muốn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

16. Nếu thuyết ngài cho “thiện, ác hành”
Ðều do duyên cớ tự nhiên sinh,
Thì trong các việc làm vô ý,
Tội lỗi làm sao thấy chỗ mình?

3465. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.

3465. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

17. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.

3466. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.

3466. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

18. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.

3467. Issaro sabbalokassa sace kappeti jīvitaṃ, iddhi byasanabhāvañca kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, niddesakārī puriso issaro tena lippati.

3467. Nếu vị chúa tể của toàn bộ thế gian xếp đặt cuộc sống, sự thành tựu, sự được mất, và việc làm tốt xấu, con người là công cụ làm theo sự chỉ định, thì vị chúa tể bị lấm nhơ bởi điều ấy.

19. Nếu có Chúa trời đủ vạn năng
Cho người thiện, ác, lạc, ưu tràn,
Ðấng kia quả thật mang đầy tội,
Người theo ý chúa, chỉ chuyên làm.

3468. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.

3468. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

20. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.

3469. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.

3469. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

21. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.

3470. Sace pubbekatahetu sukhadukkhaṃ nigacchati, porāṇakaṃ kataṃ pāpaṃ tameso muñcate iṇaṃ,porāṇaka iṇamokkho kvidha pāpena lippati.

3470. Nếu con người đi đến sướng hay khổ do nhân đã làm kiếp trước, và người ấy thoát khỏi món nợ là việc ác đã làm thời xưa ấy, với việc thoát khỏi món nợ thời xưa ấy, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

22. Lạc, ưu, khởi tự nghiệp duyên xưa,
Khỉ ấy nay đền tội đã qua,
Mỗi nghiệp ta làm đều trả nợ,
Vậy thì tội lỗi ở đâu ra?

3471. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.

3471. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

23. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.

3472. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijānīyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.

3472. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

24. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.

3473. Catunnaṃyevupādāya rūpaṃ sambhoti pāṇinaṃ, yato ca rūpaṃ sambhoti tattheva anupagacchati.

3473. Sắc liên quan đến bốn thành phần (đất, nước, lửa, gió) tạo nên sinh vật. Và sắc hình thành từ nơi nào thì sẽ tiến đến chính nơi ấy.

25-26. Tứ đại họp thành mỗi loại sinh,
Mạng chung, mọi bộ phận tan tành,
Mất đi, người chết còn đâu nữa,
Người sống vẫn theo cuộc sống mình,
Ví thử thế gian đều hủy diệt,
Người ngu, bậc trí thảy đi nhanh,
Chẳng ai tội lỗi đầy ô uế
Giữa cõi trần gian đã hoại hình.

3474. Idheva jīvati jīvo pecca pecca vinassati, ucchijjati ayaṃ loko ye bālā ye ca paṇḍitā, ucchijjamāne lokasmiṃ kvidha pāpena lippati.

3474. Mạng sống sinh sống ở ngay tại nơi này và tiêu hoại sau khi chết đi, lần này đến lần khác. Thế gian này bị đứt đoạn, những ai là kẻ ngu hay những ai là người trí (đều như nhau). Trong lúc thế gian này bị đứt đoạn, thì ở đây, ai bị lấm nhơ bởi tội ác?

3475. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.

3475. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

3476. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

27. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.

3476. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.

28. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.

3477. Āhu khattavidhā loke bālā paṇḍitamānino, mātaraṃ pitaraṃ haññe atho jeṭṭhampi bhātaraṃ, haneyya puttadāre ca attho ce tādiso siyā.

3477. Hạng người theo thuyết vua chúa ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt, đã bảo rằng có thể giết chết mẹ, cha, rồi anh trai và luôn cả em trai, có thể giết chết vợ và con, nếu mục đích như thế ấy là cần thiết.

29. Sát-đế-lỵ kia vẫn bảo rằng:
– Lũ ngu lại tưởng chúng khôn ngoan-
Mẹ cha cũng giết, tùy cơ hội,
Anh chị, vợ con, nếu có cần.

3478. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.

3478. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ phản bội bạn bè là kẻ ác xấu.

30. Bóng mát ta ngồi xuống nghỉ chân,
Cành cây ta chặt đứt lìa thân,
Tội kia bội nghĩa vong ơn đấy,
Bằng hữu dối gian, hãy ghét căm.

3479. Atha atthe samuppanne samūlamapi abbahe, attho me sambalenāsi suhato vānaro mayā.

3479. Rồi khi có nhu cầu sanh khởi thì có thể nhổ lên thậm chí luôn cả gốc rễ. Tôi đã có nhu cầu về vật dự phòng, và nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

31. Song nếu do cơ hội nảy sinh,
Thì ta chặt gốc, rễ cây cành,
Vì cần phục vụ nhu cầu đó,
Nên giết khỉ kia cũng hợp tình.

3480. So ce attho ca dhammo ca kalyāṇo na ca pāpako, bhoto ce vacanaṃ saccaṃ suhato vānaro mayā.

3480. Nếu ý nghĩa và giáo pháp ấy là tốt lành và không xấu xa, nếu lời nói của ngài là sự thật, thì nhờ tôi mà con khỉ đã được chết tốt đẹp.

32. Nếu lý thuyết này ngài chủ trương,
Và đây là Giáo pháp như chân,
Thì hành vi của ta là đúng
Khi giết khỉ kia để hưởng phần.

3481. Attano ce hi vādassa aparādhaṃ vijāniyā, na maṃ tvaṃ garaheyyāsi bhoto vādo hi tādiso.

3481. Bởi vì, nếu học thuyết của bản thân ngài đã cho rằng không có tội lỗi, thì ngài không thể chê trách tôi; chính học thuyết của ngài là như thế ấy.

33. Song nếu ngài trông thấy rõ ràng
Ðây là lý thuyết thật sai lầm,
Thì ngài sẽ chẳng bao giờ nữa
Khiển trách việc ta với luận đàm.

3482. Ahetuvādo puriso yo ca issarakuttiko, pubbekatī ca ucchedī yo ca khattavidho naro.

3482. Có người với học thuyết không nguyên nhân, và có người tin vào sự sáng tạo của vị chúa tể, người thì quan niệm do việc đã làm kiếp trước, người thì cho rằng có sự đứt đoạn, và người theo thuyết vua chúa,–

34. Người này quả quyết:”Chẳng nguyên nhân”.
Kẻ khác:”Có trời, Đấng chí tôn”.
Kẻ nói:”Nghiệp này do nghiệp trước”.
Người thì:” Thế giới thảy tiêu vong”.

3483. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.

3483. –những người này là các kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

35. Sát-đế-lỵ cùng ngoại đạo sư,
Tưởng mình có trí, cả bầy ngu,
Ác nhân gây tội, khuyên làm ác,
Truyền bá ác hành, tạo khổ ưu.

3484. Urabbharūpena bakāsu pubbe asaṅkito ajayūthaṃ upeti, hantvā uraṇiṃ ajiyaṃ ajañca citrāsayitvā yena kāmaṃ paleti.

3484. Vào thời quá khứ, có con sói giả dạng con cừu rồi đi đến gần bầy dê, và đã không bị nghi ngờ. Sau khi giết hại cừu, dê cái, và dê đực, sau khi làm cho khiếp sợ, nó tẩu thoát theo như ý muốn.

36. Sói đội lốt cừu một thuở xưa,
Đến gần chuồng nọ chẳng ai ngờ
Giết đàn cừu hoảng hồn kinh vía,
Xông tới đồng xanh chạy thẳng giò!

3485. Tathā vidheke samaṇabrāhmaṇāse chadanaṃ katvā vañcayantī manusse, anāsakā thaṇḍilaseyyakā ca rajojallaṃ ukkuṭikappadhānaṃ, pariyāyabhattañca apāṇakattaṃ pāpācārā arahanto vadānā.

3485. Tương tự như thế, có một số hạng Sa-môn và Bà-la-môn thực hiện việc che đậy rồi lừa gạt nhiều người. Họ không ăn, và nằm ở trên mặt đất, có bụi bặm và cáu ghét, ra sức ngồi chồm hổm, có bữa ăn theo định kỳ, và thực hiện việc không uống nước, có hành vi xấu xa, có sự khoe khoang là A-la-hán.

37. Cũng vậy, Sa-môn hoặc đạo nhân
Thường dùng chiếc áo gạt lương dân,
Kẻ nằm trên đất, mình dơ bẩn,
Chồm hổm người ngồi, kẻ nhịn ăn.

38-39. Bọn thì không uống, bọn thì ăn
Theo luật, tạo ra vẻ thánh thần,

3486. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.

3486. Những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

Bọn chúng đều là phường bất thiện,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân.
Bọn này không những gây bao tội,
Chúng lại khuyên người khác lỗi lầm.
Truyền bá ác hành luôn tạo quả
Khổ đau và hoạn nạn muôn phần.

3487. Yamāhu natthi viriyanti hetuñca apavadanti ye, parakāraṃ attakārañca ye tucchaṃ samavaṇṇayuṃ.

3487. Những người nào đã nói là không có sự nỗ lực, những người nào không tuyên thuyết về nhân, và những người nào đã ca ngợi việc làm của bản thân và hành động của người khác là rỗng không,–

40. Bảo rằng: “Mọi vật chẳng nguồn căn”,
Chúng phủ nhận luôn mọi nghiệp nhân,
Xem nhẹ nghiệp mình cùng kẻ khác
Như là huyễn hoặc, hỡi vương quân.

3488. Ete asappurisā loke bālā paṇḍitamānino, kareyya tādiso pāpaṃ atho aññampi kāraye, asappurisasaṃsaggo dukkaṭo kaṭukudrayo.

3488. –những người này là những kẻ phi chân nhân ở thế gian, những kẻ ngu dốt lại tự hào là sáng suốt. Kẻ như thế ấy có thể làm điều ác, rồi còn xúi người khác làm. Sự tiếp xúc với kẻ phi chân nhân là việc làm sai trái, là nguồn tạo ra sự đắng cay.

41. Bọn chúng đều là lũ bất lương,
Người ngu lại tưởng chúng hiền nhân,
Chúng gây tội lỗi, còn khuyên ác,
Truyền bá ác hành, tạo khổ thân.

3489. Sace hi viriyaṃ nāssa kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, na bhare vaḍḍhakiṃ rājā napi yantāni kāraye.

3489. Bởi vì nếu không có sự nỗ lực, không có nghiệp thiện và ác, đức vua không cấp dưỡng người thợ mộc thì cũng không thể cho thực hiện các công trình xây dựng.

42. Nếu chẳng nghiệp nhân ở chốn nào,
Cũng không có thiện, ác hành, sao
Vua thường tuyển thợ đầy tài khéo
Ðể hưởng lợi nhờ kỷ xảo cao?

3490. Yasmā ca viriyaṃ atthi kammaṃ kalyāṇapāpakaṃ, tasmā yantāni kāreti rājā bharati vaḍḍhakiṃ.

3490. Và bởi vì có sự nỗ lực, có nghiệp thiện và ác, cho nên đức vua cấp dưỡng người thợ mộc và cho thực hiện các công trình xây dựng.

43. Vậy cũng chính vì có nghiệp nhân
Thiện hành, ác nghiệp có thông thường,
Nên vua chúa tuyển người tài khéo
Ðể hưởng lợi nhiều bởi kỹ năng.

3491. Yadi vassasataṃ devo na vasse na himaṃ pate, ucchijjeyya ayaṃ loko vinasseyya ayaṃ pajā.

3491. Nếu một trăm năm trời không đổ mưa, cũng không rơi tuyết, thế gian này có thể bị gián đoạn, loài người này có thể bị diệt vong.

44. Ví thử trăm năm chẳng có mưa,
Tuyết sương chẳng rớt đúng theo mùa
Ở trong thế giới suy tàn cả
Dân chúng diệt vong chẳng kẻ chừa.

3492. Yasmā ca vassati devo himaṃ cāpi phusīyati, tasmā sassāni paccanti raṭṭhañca pallate ciraṃ.

3492. Và nhờ vào trời đổ mưa và còn rơi tuyết xuống nữa, nhờ thế các mùa màng được chín rộ và đất nước được hộ trì lâu dài.

45. Song có mưa rơi, với tuyết sương,
Bốn mùa thay đổi luật thông thường
Làm cho thóc lúa dần dần chín,
Ðất nước trải bao thế kỷ trường.

3493. Gavañce taramānānaṃ jimhaṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā jimhaṃ gacchanti nette jimhaṃ gate sati.

3493. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi quanh co, tất cả các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co.

46. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
Cả đám bò con lạc hướng luôn,
Vậy trưởng đoàn theo đường hiểm trở,
Ðưa bầy thuộc hạ đến đường cùng,

3494. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ce adhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ dukkhaṃ seti rājā ce hoti adhammiko.

3494. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành không đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu đức vua là kẻ không công minh.

Và toàn quốc độ đều ân hận,
Thời đại buông lung phóng dật tràn.

3495. Gavañce taramānānaṃ ujuṃ gacchati puṅgavo, sabbā tā ujuṃ gacchanti nette ujugate sati.

3495. Trong khi bầy bò đang vượt qua sông, nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng.

3496. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so ceva dhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko.

3496. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, nói gì thêm những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công minh.

3497. Mahārukkhassa phalino āmaṃ chindati yo phalaṃ, rasañcassa na jānāti bījañcassa vinassati.

3497. Kẻ nào hái trái cây còn non của cội cây lớn đang kết trái, kẻ ấy không biết được vị ngon của trái cây này và hủy hoại hạt giống của nó.

47. Kẻ hái trái còn quá nhỏ nhoi
Trước khi trái ấy chín cho muồi,
Chính là hủy hoại bao mầm hạt,
Chẳng thể biết đâu quả ngọt bùi.

3498. Mahārukkhūpamaṃ raṭṭhaṃ adhammena yo pasāsati, rasañcassa na jānāti raṭṭhañcassa vinassati.

3498. Đất nước được ví như cội cây lớn, kẻ nào cai trị đất nước không công minh, kẻ ấy không biết rõ tiềm lực của nó và hủy hoại đất nước của mình.

48. Cũng vậy người nào tri quốc dân
Bằng nền cai trị chẳng công bằng,
Chẳng hề thưởng thức bao mùi ngọt
Phát xuất từ đường lối chánh chân.

3499. Mahārukkhassa phalino pakkaṃ chindati yo phalaṃ, rasañcassa vijānāti bījañcassa na nassati.

3499. Người nào hái trái cây đã chín của cội cây lớn đang kết trái, người ấy biết được vị ngon của trái cây này và không hủy hoại hạt giống của nó.

49. Nhưng kẻ nào hay để trái tươi
Trên cây, khi trái chín cho muồi,
Là người giữ được bao mầm hạt,
Biết hưởng trái ngon ngọt tuyệt vời.

3500. Mahārukkhūpamaṃ raṭṭhaṃ dhammena yo pasāsati, rasañcassa vijānāti raṭṭhañcassa na nassati.

3500. Đất nước được ví như cội cây lớn, người nào cai trị đất nước công minh, người ấy biết rõ tiềm lực của nó và không hủy hoại đất nước của mình.

50. Cũng vậy, người nào trị quốc dân
Bằng đường chân chánh giữ giang sơn,
Trái cây công lý bao ngon ngọt,
Có thể hưởng cho thật vẹn tròn.

3501. Yo ca rājā janapadaṃ adhammena pasāsati, sabbosadhīhi so rājā viruddhaṃ hoti khattiyo.

3501. Và vị vua nào cai trị xứ sở không công minh, vị vua ấy là Sát- đế- lỵ bị thất bại với mọi giải pháp cứu chữa.

51. Quốc vương cai quản cả giang san
Dùng bạo quyền trị nước bất công,
Phải chịu mất đi nhiều thảo mộc
Dù cho đất kết quả bao phần.

3502. Tatheva negame hiṃsaṃ ye yuttā kayavikkaye, ojadānabalīkāre sa kosena virujjhati.

3502. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các thị dân, là những người gắn bó với việc buôn bán, thông qua việc quy định thuế má vào việc vận chuyển hàng hóa, vị vua ấy bị thất bại với ngân sách tồn trữ.

52. Nếu vua làm hại đám thần dân,
Có đủ tài sinh lợi bán buôn,
Khi lợi tức kia đà giảm sút,
Kho tàng vua cũng cạn vơi dần.

3503. Pahāravarakhettaññū saṅgāme katanissame, ussite hiṃsayaṃ rājā sabalena virujjhati.

3503. Trong khi hãm hại những người tài giỏi về lãnh vực chiến đấu đã thể hiện sự ra sức ở chiến trường, đã được nổi bật, vị vua ấy bị thất bại với quân đội của chính mình.

53. Nếu vua quấy nhiễu đám hùng anh
Có tài điều khiển việc đao binh,
Ðội quân sẽ giã từ vua ấy
Và tước của vua mọi bạo hành.

3404. Tatheva isayo hiṃsaṃ saṃyame brahmacārino, adhammacārī khattiyo so saggena virujjhati.

3504. Tương tự y như thế, trong khi hãm hại các vị ẩn sĩ có sự tự kiềm chế, có sự thực hành Phạm hạnh, bằng sự hành xử không công minh, vị Sát-đế-lỵ ấy bị thất bại với cõi Trời.

54. Nếu làm sai, với Thánh hiền nhân
Vua ấy về sau hưởng xứng phần,
Dù quý tộc mà gây tội lỗi,
Cũng đều phải mất cảnh thiên đàng.

3505. Yo ca rājā adhammaṭṭho bhariyaṃ hanti adūsakaṃ, luddaṃ pasavate pāpaṃ puttehi ca virujjhati.

3505. Và vị vua nào duy trì phi pháp, giết chết người vợ không phải là kẻ lăng loàn, và gây ra tội ác tàn bạo, (vị vua ấy) bị thất bại với các con.

55. Nếu hôn quân giết một vương phi
Dầu chẳng hề gây tội lỗi gì,
Vua liền bị khổ đau xâu xé
Bởi các con cùng địa ngục kia.

3506. Dhammañcare jānapade negamesu balesu ca, isayo ca na hiṃseyyaṃ puttadāre samañcare.

3506. Nên hành xử công minh đối với dân chúng, đối với các thị dân, và đối với các đội quân binh. Và không nên hãm hại các vị ẩn sĩ, nên hành xử bình đẳng với vợ con.

56. Hãy xử công bằng với quốc dân,
Ân cần tử tế với toàn quân,
Với thê nhi hãy đầy thân ái,
Ðể các hiền nhân an trú chân.

3507. Sa tādiso bhūmipati raṭṭhapālo akodhano, sāmante sampakampeti indova asurādhipo ”ti.

3507. Vị như thế ấy là chúa tể của trái đất, đấng hộ trì đất nước, có sự khoan dung, làm cho các lân bang phải khiếp sợ, tựa như vị thần Inda, chúa tể của loài A-tu-la.

57. Vị vua như vậy, hỡi Vương quân,
Giải thoát được bao nỗi hận sân,
Chẳng khác In-dra, Thiên chủ ấy,
Tạo nên khiếp phục giữa quần thần.

Câu chuyện 528

Mahābodhijātakaṃ.

*** 

Bổn Sanh Bậc Đại Nhân Mahābodhi. [528]

*** 

TASSUDDĀNAṂ

Sanaḷīnikamavhayano paṭhamo dutiyo pana sa-ummadantivaro, tatiyo pana bodhi sirivhayano kathitā pana tīṇi jinena subhā ”ti.

TÓM LƯỢC NHÓM NÀY

Câu chuyện thứ nhất có tên là Công Chúa Nalinikā, rồi thứ nhì là chuyện Mỹ Nữ Ummadantī, thêm chuyện thứ ba có tên gọi cao quý là Bậc Đại Nhân Mahābodhi,
ba câu chuyện hay đã được thuyết giảng bởi đấng Chiến Thắng.  

Paññāsanipāto niṭṭhito.

–ooOoo–

Nhóm Năm Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc BỔN SANH II - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app