Nội Dung Chính
Pháp hạnh Nhẫn nại Ba la mật
Đức tính nhẫn nại là một trong mười pháp hạnh ba la mật mà chư Bồ Tát cần phải thực hành để trở thành Đức Phật Toàn Giác hoặc Đức Phật Độc Giác hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác tùy theo sở nguyện của mình.
TÍCH ĐẠO SĨ KHANTIVĀDĪ
Đạo sĩ Khanṭivādī là Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama, thực hành pháp hạnh nhẫn nại ba la mật trong tích tiền thân Khanṭivādījāṭaka (Khud. Bộ Jāṭaka, phần Caṭukanipāṭa, tích Khanṭivādī jāṭaka) được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại chùa Jeṭavana thuyết giảng về tiền thân của Ngài là một đạo sĩ tên Khanṭivādī, thực hành pháp hạnh nhẫn nại ba la mật. Trong quá khứ, Đức Bồ Tát sanh trưởng trong gia đình Bà la môn phú hộ tại kinh thành Bārāṇasi, tên Ngài là Kuṇṇala. Khi trưởng thành, Đức Bồ Tát được gởi đến kinh thành Takkasila để học các bộ môn theo truyền thống Bà la môn, tốt nghiệp xong trở về kinh thành Bārāṇasi. Thời gian sau, cha mẹ của Ngài qua đời, để lại toàn bộ gia sản cho Ngài.
Một hôm, Ngài suy tư rằng: “Ông bà, cha mẹ đã tích lũy của cải, tài sản nhiều như thế này, nhưng khi từ giã cõi đời, chẳng ai mang theo được một thứ nào cả, đến phiên ta cũng như vậy thôi! Ta nên đem tất cả của cải, tài sản này làm phước bố thí đến những người nghèo khổ, rồi ta sẽ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanṭa xuất gia trở thành đạo sĩ, sống bằng hoa quả…”.
Thực hiện theo ý nguyện, Đức Bồ Tát xuất gia trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi Himavanṭa một thời gian khá lâu. Để thay đổi món vật thực, Ngài ra khỏi khu rừng núi Himavanṭa, đến kinh thành Bārāṇasi, trú tại vườn thượng uyển của Đức vua Kalābu (Bộ Jāṭaka nước Thái Lan gọi Kalāpu). Hằng ngày Ngài đi khất thực đến từng nhà, vị quan thừa tướng của Đức vua Kalābu nhìn thấy Đức Bồ Tát phát sanh đức tin trong sạch, xin hộ độ cúng dường vật thực đến Ngài.
Một hôm, Đức vua Kalābu cùng với nhóm cung nữ đờn ca múa hát, du lãm đến vườn thượng uyển. Đức vua dùng rượu say nằm ngủ trên tảng đá, gối đầu trên đùi của một nàng cung nữ xinh đẹp. Nhóm cung nữ thấy Đức vua ngủ say, nên ngưng đờn ca múa hát và cùng nhau đi dạo chơi trong vườn thượng uyển, gặp Đức Bồ Tát đang ngồi dưới gốc cây, họ kéo nhau đến đảnh lễ Ngài, thỉnh Ngài thuyết pháp, rồi cùng nhau chăm chú ngồi lắng nghe pháp.
Đức vua Kalābu vừa tỉnh ngủ, nhưng vẫn còn say, không nhìn thấy nhóm cung nữ bèn hỏi:
— Các cung nữ đi đâu cả rồi?
Nàng cung nữ ngồi tại đó tâu:
— Tâu Bệ hạ, các cô ấy dẫn nhau đến chỗ vị đạo sĩ, đang ngồi lắng nghe pháp nơi cội cây đằng kia.
Đức vua nổi cơn thịnh nộ, vội vàng cầm thanh gươm đến định giết vị đạo sĩ, nhóm cung nữ nhìn thấy Đức vua giận dữ, tay cầm thanh gươm hằn học bước đến, một nàng cung nữ lanh trí chạy đến đón Đức vua, cướp lấy thanh gươm, tìm cách làm cho Đức vua nguôi bớt cơn thịnh nộ.
Đức vua bèn hỏi Đức Bồ Tát rằng:
— Sa môn, ngươi thuyết pháp gì?
— Tâu Đại vương, bần đạo thuyết giảng pháp hạnh nhẫn nại.-Đức Bồ Tát tâu.
— Pháp hạnh nhẫn nại là thế nào?-Đức vua hỏi.
Đức Bồ Tát từ tốn tâu rằng:
— Tâu Đại vương, pháp hạnh nhẫn nại là pháp vô sân, không tức giận người chửi rủa, mắng nhiếc mình, đánh đập làm khổ mình.
Đức vua nổi giận quát tháo rằng:
— Được rồi! Bây giờ ta sẽ thấy pháp hạnh nhẫn nại của ngươi.
Đức vua liền truyền lệnh gọi tên đao phủ đến ngay. Tên đao phủ mang mã tấu, roi gai đến trình diện Đức vua tâu rằng:
— Tâu Bệ hạ, hạ thần phải làm gì?
Đức vua truyền lệnh tên đao phủ xô Đức Bồ Tát nằm xuống đất, dùng roi gai đánh trước ngực, sau lưng, hai bên hông tất cả hai ngàn (2.000) roi.
Tên đao phủ tuân theo lệnh của Đức vua, đánh Đức Bồ Tát làm rách da, nát thịt, máu chảy ra dầm dề.
Đức vua hỏi lại một lần nữa:
— Sa môn, ngươi có pháp gì?
Đức Bồ Tát tâu rằng:
— Tâu Đại vương, bần đạo có pháp hạnh nhẫn nại, Đại vương tưởng rằng pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo ở nơi da thịt hay sao! Pháp hạnh nhẫn nại không có trên da thịt, Đại vương không thể nhìn thấy pháp hạnh nhẫn nại được đâu.
Tâu Đại vương, pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo an trú trong tâm.
Đức vua càng tức giận truyền lệnh tên đao phủ lấy mã tấu chặt hai tay, hai chân của Đức Bồ Tát, máu phun ra từ cánh tay, hai ống chân bị đứt.
Đức vua bèn hỏi lại:
— Sa môn, ngươi có pháp gì?
Đức Bồ Tát vẫn điềm nhiên tâu rằng:
— Tâu Đại vương, bần đạo có pháp hạnh nhẫn nại, Đại vương tưởng rằng pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo ở hai tay, hai chân hay sao. Pháp hạnh nhẫn nại không có nơi hai tay, hai chân, Đại vương không thể nhìn thấy pháp hạnh nhẫn nại được đâu.
Tâu Đại vương, pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo an trú sâu thẳm trong tâm.
Đức vua càng thêm tức giận điên cuồng truyền lệnh tên đao phủ cắt hai lỗ tai, lỗ mũi, toàn thân máu chảy ướt dầm dề.
Đức vua hỏi lại:
— Sa môn, ngươi có pháp gì?
Đức Bồ Tát có thiện tâm trong sáng với vô sân tâm sở vững chắc, từ tốn tâu rằng:
— Tâu Đại vương, bần đạo có pháp hạnh nhẫn nại, Đại vương tưởng rằng pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo ở nơi hai tai, lỗ mũi hay sao! Pháp hạnh nhẫn nại không có nơi hai tai, lỗ mũi, Đại vương không thể nhìn thấy pháp hạnh nhẫn nại được đâu.
Tâu Đại vương, pháp hạnh nhẫn nại của bần đạo an trú sâu thẳm ở trong tâm.
Đức vua vô cùng thịnh nộ, điên cuồng quát tháo rằng:
— Này tên Sa môn ương ngạnh, ngươi nằm ở đây mà gìn giữ pháp hạnh nhẫn nại của ngươi.
Đức vua lấy chân đạp mạnh vào ngực của Đức Bồ Tát rồi bỏ đi.
Khi Đức vua Kalābu đi khỏi nơi ấy, vị quan thừa tướng cảm thấy vô cùng thương xót Đức Bồ Tát, lấy khăn lau máu toàn thân, nhặt hai tay, hai chân, hai lỗ tai và mũi bỏ vào trong bao rồi đỡ Đức Bồ Tát ngồi dậy, đảnh lễ Đức Bồ Tát bèn bạch rằng:
— Kính bạch Ngài đạo sĩ cao thượng! Nếu Ngài tức giận, thì chỉ tức giận một mình Đức vua làm khổ Ngài mà thôi, cúi xin Ngài có tâm bi thương xót, không giận dân chúng trong xứ sở này, để cho xứ sở này tránh nạn diệt vong.
Đức Bồ Tát an nhiên tự tại dạy rằng:
Kaṇṇa-nāsañca chedayi
Ciraṃ jīvaṭu so rājā
Na hi kujjhanṭi mādisā”.
(Này vị quan thừa tướng!
Đức vua nào truyền lệnh,
Chặt hai tay, hai chân,
Cắt hai tai và mũi,
Cầu mong Đức vua ấy
Có tuổi thọ sống lâu,
Bậc trí như bần đạo,
Chẳng hề có tức giận).
Đức vua Kalābu ngự ra đến cổng vườn thượng uyển, nơi khuất mắt Đức Bồ Tát, bỗng mặt đất rung động nứt nẻ, từ dưới khe nứt phun lên một ngọn lửa thiêu hủy xác ông rút sâu tận lòng đất. Sau khi chết, do ác nghiệp tàn nhẫn làm hại Đức Bồ Tát, cho quả sa đoạ vào cõi ác giới, đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.
Còn Đức Bồ Tát bị thương tích nặng, cũng qua đời ngay ngày hôm ấy. Sau khi qua đời, do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiên giới, hưởng mọi sự an lạc nơi cõi ấy.
Toàn thể dân chúng trong kinh thành Bārāṇasi vô cùng tôn kính Đức Bồ Tát, mang hoa, vật thơm, v.v… đến cúng dường thi thể Đức Bồ Tát rồi đem đi hoả táng.
Những nhân vật trong tích Đức Bồ Tát Khanṭivādī, tiền thân của Đức Phật Goṭama, liên quan đến hậu thân trong kiếp hiện tại là:
— Vị quan thừa tướng: kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāripuṭṭa.
— Đức Bồ Tát Khanṭivādī: kiếp hiện tại là Đức Phật Goṭama.
(Xong tích tiền thân Khanṭivādī).
Đức tính nhẫn nại đó là vô sân tâm sở đồng sanh trong đại thiện tâm, khi tiếp xúc với đối tượng làm cho bất bình, nghịch cảnh, nghịch duyên. Cho nên, đối tượng xấu hoặc tốt không quan trọng, mà điều quan trọng là tâm hiểu biết khi tiếp xúc đối tượng ấy, làm cho phát sanh đại thiện tâm hoặc bất thiện tâm (ác tâm).
Ví dụ:
— Đức Phật là một đối tượng tốt, hoàn hảo: Đối với hàng Phật tử chiêm ngưỡng Đức Phật, phát sanh đại thiện tâm, có đức tin trong sạch tăng trưởng mọi thiện pháp. Nhưng đối với hàng ngoại đạo nhìn thấy Đức Phật, phát sanh bất thiện tâm (ác tâm), bởi vì họ nghĩ rằng: “Do Sa môn Goṭama này làm cho chúng ta mất nhiều lợi lộc, mất nhiều sự lễ bái cúng dường”.
— Tử thi là một đối tượng xấu: Đối với hành giả tiến hành thiền định, tử thi là đề mục thiền định, mà họ có thể chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, và đối với hành giả tiến hành thiền tuệ có thể chứng đắc Thánh Đạo-Thánh Quả và Niết Bàn. Nhưng đối với số người có tánh hay sợ khi gặp tử thi trong rừng, nơi thanh vắng, thì tâm sân phát sanh hoảng sợ đến mất trí.
Quan niệm về đối tượng rất quan trọng làm cho phát sanh thiện tâm hoặc ác tâm.