Nhân sinh của 5 pháp-chướng-ngại

Pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) có 5 pháp đối với các hạng phàm-nhân, mỗi pháp-chướng-ngại phát sinh đều do nhân của mỗi pháp.

Theo chú-giải trong Chi-bộ-kinh, phần pháp một-chi giảng giải được tóm lược như sau:

Giảng giải câu:

“Pháp-chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh.”

1- Kāmacchandanīvaraṇa: Tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh do

nhân nào?

Tham-dục chướng-ngại chưa sinh đối với số vị tỳ-khưu hành-giả như sau:

–    Số vị tỳ-khưu đang thực-hành các pháp- hành (vatta) của sa-di, tỳ-khưu.

–    Số vị tỳ-khưu đang học pháp-học Phật-giáo.

–    Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hạnh dhutaṅga (pháp-hạnh tẩy trừ phiền-não), pháp- hạnh biết tri túc gọi là pháp-hạnh đầu-đà.

–    Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hành thiền-định.

    Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

–    Số vị tỳ-khưu đang lo công việc xây dựng chỗ ở mới.

Phần giảng giải

*   Số vị tỳ-khưu đang thực-hành 14 pháp-hành (vatta) của sa-di, tỳ-khưu như sau:

    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu khách.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu chủ.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu sắp đi xa.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu thuyết pháp.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu ở trai đường.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đi khất thực.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu sống trong rừng.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu nơi chỗ ở.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu trong nhà tắm hơi nóng.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu nơi phòng vệ sinh.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đối với thầy tế độ.

–    Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đối với thầy dạy.

–    Pháp-hành của vị thầy tế độ đối với đệ-tử.

–    Pháp-hành của vị thầy dạy đối với đệ-tử.

Nếu khi vị tỳ-khưu nào có đại-thiện-tâm trong sạch thực-hành các pháp-hành (vatta) một cách chu đáo, và thực-hành phận-sự nơi cội Đại-Bồ- đề, nơi ngôi Tháp thờ Xá-lợi, v.v… thì phiền- não không có cơ hội phát sinh. Nhưng về sau vị tỳ-khưu ấy sao lãng thực-hành các pháp-hành (vatta) và phận-sự, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng sắc cho là subha: tốt, xinh đẹp, đáng yêu, làm nhân- duyên cho tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối-tượng sắc ấy.

* Số vị tỳ-khưu nào đang theo học pháp-học

Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi, học 5 bộ  trong Luật-tạng (Pārājika, Pācittiya, Mahā- vagga, Cūḷavagga, Parivāra); học 5 bộ trong Kinh-tạng (Trường-bộ-kinh, Trung-bộ-kinh, Đồng-loại-bộ-kinh, Chi-bộ-kinh, Tiểu-bộ-kinh); học 7 bộ trong Vi-diệu-pháp-tạng (bộ Pháp hội- tụ, bộ Pháp phân-tích, bộ Pháp phân-loại, bộ Pháp nhân-chế-định, bộ Pháp luận-đề, bộ Pháp song-đối, bộ Pháp duyên-hệ); học các bộ Chú- giải Pāḷi và các bộ Phụ-chú-giải Pāḷi.

Theo kỳ kết tập Tam-tạng lần thứ 6 tại động nhân-tạo Lokasāma (Kaba-aye) thủ đô Yangon nước Myanmar (Miến-điện), Phật-lịch 2500 năm.

–  Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển.

–  Chú-giải Pāḷi gồm có 51 quyển.

–  Phụ-chú-giải Pāḷi gồm có 26 quyển.

Nếu số vị tỳ-khưu ấy có đức-tin trong sạch, có trí nhớ tốt, có trí-tuệ sáng suốt quyết tâm tinh-tấn không ngừng theo học các bộ trong Tam-tạng Pāḷi, các bộ trong Chú-giải Pāḷi, các bộ Phụ-chú-giải Pāḷi, thì phiền-não không có cơ hội phát sinh. Nhưng mà về sau vị tỳ-khưu ấy sao lãng theo học các bộ trong Tam-tạng Pāḷi, … nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng sắc cho là subha: tốt, xinh đẹp, đáng yêu, làm nhân-duyên cho tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối-tượng sắc ấy.

*   Số vị tỳ-khưu nào đang thực-hành pháp- hạnh dhutaṅga (1) (pháp-hạnh tẩy trừ phiền-não), pháp-hạnh biết tri túc, có 13 pháp-hạnh dhutaṅga (gọi là đầu-đà) như sau:

1-  Paṃsukūlikakaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) mặc y bằng cách lượm các miếng vải dơ đem về giặt giũ sạch sẽ, may thành tấm y, rồi nhuộm mặc, không nhận y của thí-chủ dâng.

2-  Tecīvarikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) chỉ mặc tam-y (y saṃghāṭi: y 2 lớp, y uttarasaṅga: y vai trái, y antara- vāsaka: y nội) mà thôi, không nhận thêm tấm y thứ tư.

3-  Piṇḍapātikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) đi khất thực và chỉ dùng những món vật thực mà thí-chủ bỏ vào trong bát mà thôi, không nhận lời thỉnh mời độ vật thực trong nhà thí-chủ.

4-  Sapadānacārikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) đi khất thực theo tuần tự từng nhà trước sau, không lựa chọn nhà.

5-  Ekāsanikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) ngồi độ vật thực một chỗ, nếu rời chỗ ngồi rồi, không còn ngồi độ vật thực lần thứ 2 trong ngày hôm ấy nữa.

6-  Pattapiṇḍikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) chỉ độ vật thực trong bát mà thôi, không sử dụng chén bát nào khác.

7-  Khalupacchābhattikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) chỉ độ vật thực có được do đi khất thực ban đầu mà thôi, không nhận vật thực của những người thí-chủ đem đến dâng sau.

8-  Āraññikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) nương nhờ sống ở nơi rừng núi cách xa xóm làng khoảng 500 lần bắn mũi tên rơi. Vị tỳ-khưu ấy không nương nhờ nơi chỗ ở gần xóm nhà mà chỉ sống ở nơi rừng núi mà thôi.

9-  Rukkhamūlikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) sống nương nhờ nơi dưới cội cây to lớn, nơi yên tĩnh, không có mái che và vách bao xung quanh. Vị tỳ-khưu ấy không ở trong chùa, trong cốc nào cả.

10-  Abbhokāsikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) sống nơi khoảng không gian trống trải hoàn toàn không có mái che chắn xung quanh.

11-  Sosānikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) sống nơi nghĩa địa mà người ta đem bỏ thi thể của người chết.

12-  Yathāsanthatikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) nhận chỗ ở tùy theo sự sắp đặt của tỳ-khưu có phận-sự. Chỉ định ở chỗ nào thì vị tỳ-khưu ấy ở chỗ ấy, không hề lựa chọn chỗ ở, bởi vì vị tỳ-khưu ấy biết tri túc nơi chỗ ở.

13-  Nesajjikaṅga: Vị tỳ-khưu hành-giả thọ trì pháp-hạnh (đầu-đà) ngăn oai-nghi nằm, bởi vì oai-nghi nằm dễ phát sinh sự dể duôi quên mình, nên hành-giả chỉ có sử dụng 3 oai-nghi là oai- nghi ngồi, oai-nghi đứng, oai-nghi đi mà thôi.

Hành-giả cần có chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh- giác, có tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp- hành thiền-tuệ.

Khi vị tỳ-khưu ấy là hành-giả đang thực-hành pháp-hạnh đầu-đà nào nên phiền-não không có cơ hội phát sinh. Nhưng về sau vị tỳ-khưu ấy  sao lãng thực-hành pháp-hạnh đầu-đà, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasi- kāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục (1) cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân-duyên cho tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối-tượng sắc ấy.

*    Số vị tỳ-khưu hành-giả nào thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đang thực- hành pháp-hành thiền-định, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, thường nhập thiền hưởng an-lạc trong bậc thiền ấy, nên phiền-não không có cơ hội phát sinh. Nhưng về sau vị tỳ- khưu ấy sao lãng không thường nhập bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, các bậc thiền sắc-giới thiện- tâm bị mất nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si- tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân-duyên cho tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối-tượng sắc ấy.

*    Số vị tỳ-khưu hành-giả nào thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đang thực- hành pháp-hành thiền-tuệ có đối-tượng sắc-pháp hoặc danh-pháp tam-giới, dẫn đến phát sinh trí- tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; và phát sinh trí-tuệ-thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, nên phiền-não không có cơ hội phát sinh.

Nhưng về sau vị tỳ-khưu hành-giả ấy sao lãng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân-duyên cho tham-dục chướng- ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối- tượng sắc ấy.

*    Số vị tỳ-khưu nào đang lo công việc xây dựng một ngôi chùa mới, vị tỳ-khưu ấy lo các thứ vật liệu, lo điều hành các công việc, nên phiền-não không có cơ hội phát  sinh.  Nhưng sau khi công việc xây dựng một ngôi chùa mới đã hoàn thành hoặc bỏ dở công việc, vị tỳ-khưu ấy rảnh rỗi nên phát sinh tâm dể duôi quên  mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân- duyên cho tham-dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối-tượng sắc ấy.

Tuy nhiên, số vị tỳ-khưu mà tiền-kiếp vốn là vị phạm-thiên có đại-thiện-tâm trong sạch thanh- tịnh, bởi vì không có tâm tham-dục trong ngũ- dục nên phiền-não tham-dục không sinh. Nhưng về sau vị tỳ-khưu ấy tiếp xúc với các đối-tượng ngũ-dục tốt đẹp đáng hài lòng, nên phát sinh  tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân-duyên cho tham-dục chướng- ngại chưa sinh thì phát sinh, say mê trong đối- tượng sắc ấy.

Như vậy, phiền-não chưa sinh thì phát sinh, bởi vì tâm dể duôi quên mình, có ayoniso- manasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong đối-tượng ngũ-dục cho là subha: tốt đẹp, đáng hài lòng, làm nhân-duyên cho tham- dục chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, khi tham-dục chướng-ngại đã phát sinh thì càng tăng thêm nhiều.

2- Byāpādanīvaraṇa: Sân-hận chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh do nhân nào?

Tương tự như tham-dục chướng-ngại, sân-hận chướng-ngại chưa sinh đối với số vị tỳ-khưu hành-giả như sau:

–   Số vị tỳ-khưu đang thực-hành các pháp-hành (vatta) của sa-di, tỳ-khưu.

–   Số vị tỳ-khưu đang cố gắng tinh-tấn học pháp-học Phật-giáo.

–   Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hạnh dhutaṅga (pháp-hạnh tẩy trừ phiền-não), pháp- hạnh biết tri túc gọi là pháp-hạnh đầu-đà.

–   Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hành thiền-định.

–   Số vị tỳ-khưu đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

–   Số vị tỳ-khưu đang lo làm công việc xây dựng chỗ ở mới.

Trong byāpādanīvaraṇa: Sân-hận chướng-ngại này chỉ có khác về phiền-não sân-hận chướng- ngại và đối-tượng hận thù làm nhân sinh của phiền-não sân-hận chướng-ngại mà thôi.

Byāpāda: Sân-hận đó là sân tâm-sở đồng sinh với 2 sân-tâm tiếp xúc với đối-tượng hận thù cho người ấy là kẻ thù đã từng làm hại mình, đã từng làm hại các người thân trong gia đình của mình.

Paṭighanimitta: Đối-tượng hận thù đó là kẻ thù đã từng làm khổ mình, đã từng làm khổ các người thân trong gia đình của mình.

Nếu khi vị tỳ-khưu ấy gặp đối-tượng hận thù, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayoniso- manasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm nơi đối-tượng hận thù (paṭigha) ấy cho là kẻ thù đáng ghét, làm nhân-duyên cho sân-hận chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh, sân-tâm muốn hại kẻ thù ấy.

(Phần còn lại tương tự như tham-dục chướng- ngại đã trình bày.)

3- Thinamiddhanīvaraṇa: Buồn-chán – buồn-ngủ chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh do nhân nào?

Trong pháp thinamiddhanīvaraṇa: Buồn-chán – buồn-ngủ chướng-ngại này là bất-thiện-tâm không thích trong công việc, nên phát sinh tâm biếng nhác buông bỏ đối-tượng, làm nhân sinh phiền-não buồn-chán – buồn-ngủ chướng-ngại.

Thinamiddha đó là thinacetasika và middha- cetasika.

–    Thinacetasika: Buồn-chán tâm-sở biếng nhác trong công việc, không muốn biết đối- tượng, muốn buông bỏ đối-tượng.

–    Middhacetasika: Buồn-ngủ tâm-sở làm cho tâm với tâm-sở buông bỏ đối-tượng, buồn ngủ không biết đối-tượng.

Hai loại bất-thiện tâm-sở này luôn luôn đồng sinh với 4 tham-tâm cần tác-động và 1 sân-tâm cần tác-động, làm cho tâm với tâm-sở đồng sinh biếng nhác trong công việc, buồn ngủ buông bỏ đối-tượng.

–    Đối-tượng ví như đối-tượng thiền-định.

Nếu khi vị tỳ-khưu hành-giả ấy thực-hành pháp- hành thiền-định với đối-tượng thiền-định không thích hợp với bản tính và trí-tuệ của mình thì dễ phát sinh buồn-chán – buồn-ngủ chướng-ngại, khó dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

Trong bộ Chú-giải Vibhaṅga giảng giải về phần pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) có các pháp làm chướng-ngại như sau:

–   Arati: Sự không hài lòng, trạng-thái không hài lòng, chán nản, sợ sệt nơi vắng vẻ, …

–   Tandī: Sự biếng nhác, tâm biếng nhác không tha thiết trong công việc.

–   Vijambhikā: Sự vặn mình qua lại, sự ngáp, sự buồn ngủ.

–   Bhattasammado: Sự say vật thực, bởi vì ăn no quá nên buồn ngủ.

–   Cetaso ca līnattaṃ: Sự lười biếng của tâm, sự biếng nhác của tâm, …

Các pháp này hợp với bất-thiện-tâm cần tác- động, đó là 4 tham-tâm cần tác-động và 1 sân- tâm cần tác-động, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm nơi đối-tượng làm nhân-duyên phát sinh buồn-chán – buồn-ngủ chướng-ngại.

4- Uddhaccakukkuccanīvaraṇa: Phóng-tâm – hối-hận chướng-ngại chưa sinh thì phát sinh do nhân nào?

Pháp uddhaccakukkuccanīvaraṇa: Phóng-tâm – hối-hận chướng-ngại này là phiền-não làm tâm với tâm-sở đồng sinh không an tịnh, làm nhân sinh phóng-tâm – hối-hận chướng-ngại.

Uddhaccakukkuccanīvaraṇa đó là uddhacca- cetasika và kukkuccacetasika.

–   Uddhaccacetasika: Phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, phóng tâm chưa hết chuyện này liền sang chuyện khác, làm cho tâm bất an, không trụ trong đối-tượng nào nhất định.

–   Kukkuccacetasika: Hối-hận tâm-sở đồng sinh với 2 sân-tâm là bất-thiện-tâm hối-hận không tạo các đại-thiện-nghiệp mà tạo các ác- nghiệp, làm cho tâm bất an, không trụ trong đối- tượng nào nhất định.

–   Cetaso avūpasamo: Không an tịnh của tâm là tính chất của 2 tâm-sở uddhaccacetasika và kukkuccacetasika nên đồng sinh với bất-thiện-tâm làm cho tâm không an tịnh (avūpasamo), nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasi- kāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm nơi đối-tượng làm nhân-duyên phát sinh phóng-tâm – hối-hận chướng-ngại.

5- Vicikicchānīvaraṇa: Hoài-nghi chướng- ngại chưa sinh thì phát sinh do nhân nào?

Vicikicchānīvaraṇa: Hoài-nghi chướng-ngại này là phiền-não làm cho bất-thiện-tâm với tâm- sở hoài nghi nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hoài nghi nơi nghiệp và quả của nghiệp, nên phát sinh tâm dể duôi quên mình, có ayonisomanasikāra: sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm nơi đối-tượng làm nhân-duyên phát sinh hoài-nghi chướng-ngại.

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app