Nội Dung Chính
- Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm mười hai kệ ngôn, Phẩm 1
- 2. Bhaddasālajātakaṃ – Bổn sanh Thần Cây May Mắn
- 3. Samuddavāṇijajātakaṃ – Bổn sanh Biển Cả Và Thương Buôn
- 4. Kāmajātakaṃ – Bổn sanh Các Dục
- 5. Janasandhajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Janasandha
- 6. Mahākaṇhajātakaṃ – Bổn sanh Con Chó Đen Lớn
- 7. Kosiyajātakam – Bổn sanh Kẻ Keo Kiệt Kosiya
- 7. . [470]
- 8. Meṇḍakapañhajātakaṃ – Bổn sanh Câu Hỏi Về Con Cừu
- 9. Mahāpadumajātakam – Bổn sanh Hoàng Tử Paduma Vĩ Đại
- 10. Mittāmittajātakaṃ – Bổn sanh Bạn Và Thù
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm mười hai kệ ngôn, Phẩm 1
1650. Khuddānaṃ lahucittānaṃ akataññūna dūbhinaṃ, nādevasatto puriso ṭhīnaṃ saddhātumarahati.
1650. Đàn bà là những người nhỏ nhen, có tâm khinh suất, vô ơn, bội bạc, Người đàn ông, nếu không bị phi nhân xâm nhập, thì không thể nào tin tưởng những người đàn bà.
24. Hèn hạ, đổi thay ấy nữ nhân,
Chúng còn bội nghĩa với vong ân
Nam nhân, ví thử không si ám,
Chẳng hạ cố tin chúng nói năng.
1651. Na tā pajānanti kataṃ na kiccaṃ na mātaraṃ pitaraṃ bhātaraṃ vā, anariyā samatikkantadhammā sasseva cittassa vasaṃ vajanti.
1651. Các nàng không biết đến ân nghĩa, không biết đến việc cần phải làm, không biết đến mẹ, cha, hay anh em trai. Các nàng không thánh thiện, vượt qua nguyên tắc, và đi theo sự sai khiến của chính tâm mình.
25. Chúng ít quan tâm bổn phận mình,
Hoặc lời kêu gọi của ân tình,
Vô tâm trước tấm lòng cha mẹ,
Hoặc mối buộc ràng của đệ huynh.
Chúng đóng vai người không hổ thẹn
Khi vi phạm luật lệ công bình,
Mọi hành vi chúng đều tuân phục
Ước vọng trong tâm của chính mình.
1652. Cirānuvuttampi piyaṃ manāpaṃ anukampaṃ pāṇasamampi santaṃ, āvāsu kiccesu ca naṃ jahanti tasmāhamitthīnaṃ na vissasāmi.
1652. Mặc dầu chàng đã sống chung thời gian dài, chàng đáng yêu, đáng mến, có lòng thương xót, thậm chí chàng còn được xem như là sanh mạng, các nàng cũng từ bỏ chàng trong những lúc rủi ro và trong những lúc hữu sự; vì thế, trẫm không tin cậy những người đàn bà.
26. Dù ở với chàng bao tháng năm,
Dù chàng yêu dấu lại ân cần,
Nồng nàn trong dạ và thân thiết
Như chính đời chàng quả thật chân,
Trong lúc gian lao và khốn khổ,
Chúng đành lòng bỏ đức phu quân.
Về phần ta chẳng bao giờ nữa
Còn đặt lòng tin bọn nữ nhân.
1653. Thīnañhi cittaṃ yathā vānarassa kannappakannaṃ yathā rukkhachāyā, calācalaṃ hadayaṃ itthiyānaṃ cakkassa nemi viya parivattati.
1653. Bởi vì tâm của những người đàn bà giống như tâm của loài khỉ. giống như bóng râm của cây luôn nhấp nhổm. Trái tim của những người phụ nữ luôn chao đảo, giống như cái vành của bánh xe quay vòng vòng.
27. Tâm nữ nhân thường thấy đổi thay
Như là loài vượn khỉ leo cây,
Hoặc như tàn lá cây soi bóng
Trên đỉnh non cao, vực thẳm dày.
Chủ đích ở trong lòng nữ giới
Sao cũng chập chờn cứ chuyển lay
Như thể bánh xe lăn vút mãi
Không hề có lúc nghỉ ngừng quay.
1654. Yadā tā passanti samekkhamānā ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ, saṇhāhi vācāhi nayanti menaṃ kambojakā jalajeneva assaṃ.
1654. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng dụ dỗ người ấy bằng những lời nói mềm mỏng, tựa như những người dân xứ Kamboja dụ dỗ con ngựa rừng bằng rong rêu (có bôi mật ong).
28. Khi đã nghĩ suy thật kỹ càng,
Chúng nhìn quanh quẩn kiếm tìm đàng
Ðể đi bắt một người giàu có,
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Những bọn dại khờ như vậy đó,
Chúng dùng lời mặt ngọt chiêu hàng,
Như chàng giữ ngựa miền Cam-bốt
Dùng cỏ thơm câu ngựa dã man.
1655. Yadā na passanti samekkhamānā ādeyyarūpaṃ purisassa vittaṃ, samantato naṃ parivajjayanti tiṇṇo nadīpāragatova kullaṃ
1655. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, không nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đã vượt qua, đã đi đến bờ bên kia của dòng sông, xa lánh chiếc bè.
29. Song nếu nhìn quanh thật kỹ càng
Mà không tìm thấy được con đường
Ðể mong chiếm đoạt phần tài sản
Biến gã thành mồi của chúng săn,
Chúng đuổi gã ngay như một kẻ
Ðã lên bờ nọ lúc sang ngang,
Tức thì bỏ mặc thuyền trôi dạt,
Thuyền ấy từ đây chúng chẳng màng.
1656. Silesūpamā sikhiriva sabbabhakkhā tikkhamāyā nadīriva sīghasotā, sevanti hetā piyamappiyañca nāgaṃ yathā orakulaṃ parañca.
1656. Phụ nữ giống như chất kết dính, tựa như ngọn lửa thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự lừa phỉnh mau lẹ, tựa như con sông có dòng nước chảy xiết. Bởi vì các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.
30. Như ngọn lửa thiêu đốt bạo hung
Chúng ôm ghì gã chặt trong lòng,
Hoặc là đẩy gã như dòng nước
Lũ lụt chảy cuồn cuộn tứ tung!
Chúng tán tỉnh chàng nào chúng ghét
Cũng nhiều như kẻ chúng tôn sùng,
Như con thuyền vẫn thường kề sát
Cả bến bờ xa lẫn bến gần!
1657. Na tā ekassa na dvinnaṃ āpaṇova pasārito, yo tā mayhanti maññeyya vātaṃ jalena bādhaye.
1657. Các nàng ấy không thuộc về một người, không thuộc về hai người, các nàng ấy tựa như cửa tiệm đã được trưng bày. Kẻ nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc về ta,’ kẻ ấy tưởng như có thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới.
31. Chúng chẳng thuộc về một hoặc hai,
Chúng như hàng quán mở ra mời;
Người dùng lưới bắt nhanh làn gió,
Như nữ nhân cầm giữ bọn trai.
1658. Yathā nadī ca pantho ca pānāgāraṃ sabhā papā, evaṃ lokitthiyo nāma velā tāsaṃ na vijjati.
1658. Giống như dòng sông, con đường, quán nước, phòng hội, lều nghỉ chân, những người đàn bà ở thế gian được gọi là như vậy, giới hạn của các nàng ấy không được biết đến.
32. Như quán nước, sông suối, mặt đường,
Hoặc như nhà trọ, sảnh công đường,
Nữ nhân buông thả cùng tất cả,
Tội chúng làm sao có thể lường!
1659. Ghatāsanasamāhetā kaṇhasappasirūpamā, gāvo bahi tiṇasseva omasanti varaṃ varaṃ.
1659. Thật vậy, các nàng ấy như là ngọn lửa tế thần, tựa như đầu con rắn độc màu đen, ví như bầy bò chỉ gặm những cọng ngon nhất của bãi cỏ ở bên ngoài.
33. Ðộc hại như đầu rắn hổ đen,
Tham mồi như ngọn lửa vừa nhen,
Như bò lựa cỏ ngon lành nhất,
Chúng muốn tình lang lắm của tiền!
1660. Ghatāsanaṃ kuñjariṃ kaṇhasappaṃ muddhābhisittaṃ pamadā ca sabbā, ete naro niccayatto bhajetha tesaṃ have dubbidu sabbabhāvo.
1660. Ngọn lửa tế thần, con voi, rắn độc màu đen, người được làm lễ phong vương, và tất cả các nữ nhân, năm hạng này, người nam có tánh thận trọng có thể giao thiệp. Thật vậy, mọi ý định của những hạng ấy khó mà biết được.
34. Tránh loài voi, rắn hổ đen mun,
Ngọn lửa tưới bằng lạc cháy bùng,
Người được phong vương và quán đảnh,
Bọn hồng quần, phải chạy nhanh chân.
Những ai biết sống luôn phòng hộ
Xem các thứ này tựa địch quân.
Quả thật chính là tâm địa chúng
Làm sao biết rõ, khó vô cùng!
1. Cūḷakuṇālajātakaṃ – Bổn sanh Chim Cu Cu Nhỏ.
1661. Nāccantavaṇṇā na bahūnaṃ kantā na dakkhiṇā pamadā sevitabbā, na parassa bhariyā na dhanassa hetu etitthiyo pañca na sevitabbā ”ti.
1661. Không nên thân cận người nữ có sắc đẹp quá mức, không với người nữ được nhiều người yêu thương, cũng không với người đàn bà khéo léo, không với người là vợ của người khác, không với người vì nguyên nhân tài sản; năm hạng nữ nhân này không nên thân cận.”
35. Má hồng tài trì thật thông minh,
Hay có hình dung tuyệt đẹp xinh,
Và đám mày râu thường ái mộ,
Bọn này ta phải tránh cho nhanh;
Vợ người hàng xóm, cô nàng kiếm
Một phú ông loan phượng hợp thành,
Năm hạng nữ nhi này tất cả,
Nam nhân không được kết ân tình!
1662. Kā tvaṃ suddhehi vatthehi aghe vehāsayaṃ ṭhitā, kena tyāssūni vattanti kuto taṃ bhayamāgataṃ.
1662. “Ngài là ai mà đứng ở không trung, trên bầu trời, với y phục tinh khiết? Vì sao các giọt nước mắt của ngài tuôn rơi? Nỗi sợ hãi ấy từ đâu đến?”
1. Ngài là ai, đứng giữa không gian,
Mình khoác xiêm y tựa thánh thần,
Sao nỗi kinh hoàng kia phát khởi,
Mắt ngài sao đẫm lệ tuôn tràn?
1663. Taveva deva vijite bhaddasāloti maṃ vidū, saṭṭhiṃ vassasahassāni tiṭṭhato pūjitassa me.
1663. “Tâu bệ hạ, ở trong lãnh thổ của bệ hạ, mọi người đã biết rõ tôi là ‘Bhaddasāla’ (Cây May Mắn). Trong khi tồn tại sáu mươi ngàn năm, tôi đã được họ tôn vinh.
2. Ở trong quốc độ, hỡi quân vương,
Người biết danh cây: Ðại Cát Tường,
Ðã sáu mươi ngàn năm vẫn đứng,
Toàn dân đều cúng bái ta luôn.
1664. Kārayantā nagarāni agāre ca disampati, vividhe cāpi pāsāde na mante accamaññisuṃ, yatheva maṃ te pūjesuṃ tatheva tvampi pūjaya.
664. Tâu vị chúa tể các phương, trong khi cho xây dựng các thành phố, các ngôi nhà, và luôn cả các tòa lâu đài đa dạng, họ đã không xúc phạm đến tôi. Họ đã tôn vinh tôi như thế nào, mong rằng bệ hạ cũng hãy tôn vinh tôi y như thế.”
3. Dù chúng dựng xây lắm thị thành,
Lâu đài vương xá, các cung đình,
Tuy nhiên, chúng chẳng hề phiền nhiễu,
Cũng chẳng gây tai hại thần linh,
Vì chúng tôn sùng ta đến thế,
Xin ngài, Chúa thượng cũng tôn vinh!
1665. Tava ahaṃ na passāmi thullaṃ kāyena te dumaṃ, ārohapariṇāhena abhirūposi jātiyā.
1665. “Trẫm chưa nhìn thấy cây nào như ngài; thân cây của ngài đồ sộ về kích thước, về chiều cao, và về chu vi. Ngài là tuyệt vời về chủng loại.4. Song một thân cây vĩ đại này,
Trẫm chưa hề thấy tự xưa nay,
Chu vi đẹp cả chiều cao nữa,
Hùng mạnh, một cây vững chắc thay.
1666. Pāsādaṃ kārayissāmi ekatthambhaṃ manoramaṃ, tattha taṃ upanessāmi ciraṃ te yakkha jīvitaṃ.
1666. Trẫm sẽ cho làm tòa lâu đài có một cột trụ, làm thích ý. Trẫm sẽ đưa ngài về nơi ấy. Này vị Dạ-xoa, cuộc sống của ngài sẽ được lâu dài.”
5. Trẫm muốn xây nên mỹ lệ cung,
Chỉ cần độc nhất trụ làm chân,
Trẫm muốn đặt ngài vào chỗ đó,
Ðời ngài không ngắn ngủi đâu Thần.
1667. Evaṃ cittaṃ udapādi sarīrena vinābhāvo, puthuso maṃ vikantetvā khaṇḍaso avakantatha.
1667. “Nếu tâm của bệ hạ đã sanh khởi như vậy, là việc tách rời tôi với thân cây, vậy hãy cắt lìa tôi thành nhiều phần, hãy cắt đứt thành từng khúc.
6. Vì ngài mong muốn đẵn cây thần
Xin hãy chặt ta nhỏ mỗi phần,
Và xẻ thân này từng mảnh một,
Hoặc đừng gì cả, tấu Anh quân.
1668. Agge ca chetvā majjhe ca pacchā mūlañca chindatha, evaṃ me chijjamānassa na dukkhaṃ maraṇaṃ siyā.
1668. Sau khi cắt ở phần ngọn, ở phần giữa, và sau cùng hãy cắt ở phần gốc. Trong khi tôi bị cắt đứt như vậy, thì cái chết có thể là không đau đớn.”
7. Hãy chặt trước tiên lấy đỉnh đầu,
Kế là phần giữa, gốc về sau,
Nếu ngài đốn được ta như thế,
Cái chết chẳng còn tạo khổ sầu.
1669. Hatthapādaṃ yathā chinde kaṇṇanāsañca jīvite, tato pacchā siro chinde taṃ dukkhaṃ maraṇaṃ siyā.
1669. “Giống như chặt đứt bàn tay và bàn chân, rồi lỗ tai và lỗ mũi ở người còn sống, kế đến chặt đứt cái đầu sau cùng; cái chết ấy có thể là đau đớn.
8. Trước hết chân tay, kế mũi tai,
Khi người lâm nạn chửa tàn hơi,
Cuối cùng thủ cấp này rơi xuống,
Cái chết này đau đớn rụng rời.
1670. Sukhannu khaṇḍaso chinnaṃ bhaddasālavanaspati, kiṃ hetu kiṃ upādāya khaṇḍaso chinnam icchasi.
1670. Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, phải chăng việc được cắt thành khúc là an toàn? Điều gì là nguyên nhân, liên quan đến điều gì mà ngài lại muốn được cắt thành khúc?”
9. Cát Tường cổ thụ! Chúa sơn lâm!
Lạc thú gì ngài cảm thấy chăng?
Sao, lý do gì ngài ước muốn
Thân cây được xẻ nhỏ từng phần?
1671. Yañca hetuṃ upādāya hetu dhammūpasaṃhitaṃ, khaṇḍaso chinnam3icchāmi mahārāja suṇohi me.
1671. “Việc tôi muốn được cắt thành khúc là có nguyên nhân, liên quan đến nguyên nhân được gắn liền với thực tế. Tâu đại vương, xin hãy lắng nghe tôi.
10. Vì lý do nào cao cả thay,
Cớ sao ta muốn xẻ thân này,
Phân ra từng mảnh, tâu Hoàng thượng,
Xin lắng nghe lời ta nói đây.
1672. Ñātī me sukhasaṃvaddhā mama passe nivātajā, tepihaṃ upahiṃseyyaṃ paresaṃ asukhocitaṃ.
1672. Các thân quyến của tôi được phát triển an toàn, được sanh ra yên ổn ở bên cạnh tôi. Tôi lại có thể gây tổn thương đến họ, là việc đem lại sự không an toàn cho những người khác (nếu bị đốn ngã nguyên cây).”
11. Quanh ta phồn thịnh đám thân bằng,
Sinh trưởng nhờ nơi trú vẹn toàn,
Nếu ta ngã mạnh, đè tan chúng,
Nỗi đớn đau kia sẽ ngập tràn.
2. Bhaddasālajātakaṃ – Bổn sanh Thần Cây May Mắn
1673. Cetabbarūpaṃ cetesi bhaddasālavanaspati, hitakāmosi ñātīnaṃ abhayaṃ samma dadāmi te ”ti.
1673. “Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, ngài suy nghĩ có vẻ thấu đáo. Ngài có sự mong muốn điều lợi ích cho các thân quyến, thưa ngài, trẫm ban cho ngài sự không sợ hãi.”
12. Cát tường cổ thụ, Chúa rừng xanh!
Tư tưởng ngài cao cả thật tình,
Ngài muốn giúp thân bằng quyến thuộc,
Vậy trẫm cho ngài thoát hãi kinh!
1674. Kasanti vapanti te janā manujā kammaphalūpajīvino, nayimassa dīpakassa bhāgino jambudīpā idameva no varaṃ.
1674. “Các cư dân ấy cày và gieo hạt. Những người sống nhờ vào kết quả của công việc không phải là những người có phần chia của hòn đảo nhỏ này. Chính nơi này của chúng tôi còn quý báu hơn Jambudīpa.”
1. Người thì gieo hạt, kẻ đi cày,
Sống với mồ hôi ở cuối mày,
Chúng chẳng hưởng vùng ta được sống,
Hơn xa Ấn Ðộ chính nơi này!
1675. Tipañcarattūpagamamhi cando vego mahā hohiti sāgarassa, uplāpayaṃ dīpamimaṃ uḷāraṃ mā vo vadhi gacchatha leṇamaññaṃ.
1675. “Mặt trăng vào ba hay năm đêm sắp đến, sẽ có một đợt triều lớn của biển cả tràn ngập hòn đảo cao quý này. Cái chết chớ có xảy ra cho quý vị. Quý vị hãy đi đến chỗ nương náu khác.”
2. Trong hai tuần nữa thấy tròn trăng,
Từ biển này dâng ngọn sóng thần
Tràn ngập đảo to này: Hãy vội
Di cư để khỏi hại người dân.
1676. Na jātayaṃ sāgaravārivego uppāṭaye dīpamimaṃ uḷāraṃ, taṃ me nimittehi bahūhi diṭṭhaṃ mā bhetha kiṃ socatha modathavho.
1676. “Đợt triều của nước biển được sanh lên này không có thể tràn ngập hòn đảo cao quý này. Điều này đã được ta thấy nhờ vào nhiều điềm báo. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.
3. Theo nhiều dấu hiệu đã nêu rằng
Dân chúng nghe tin đợt sóng thần
Sẽ chẳng hề tràn lên đảo lớn,
Vui lên đừng sợ, chớ đau buồn.
1677. Pahūtabhakkhaṃ bahu-annapānaṃ pattattha āvāsamimaṃ uḷāraṃ, na vo bhayaṃ paṭipassāmi kiñci āputtaputtehi pamodathavho.
1677. Có nhiều thức ăn, có nhiều cơm nước, có sự thành tựu về của cải. Chỗ trú ngụ này là cao quý. Ta không nhìn thấy bất cứ sự sợ hãi nào cho quý vị. Quý vị hãy vui đùa cùng các con cháu.”
4. Các ông gặp chốn rộng nơi đây,
Các thức uống ăn lại đủ thay,
Ta thấy chẳng gì nguy, cứ hưởng
Ðến đời sau, lạc thú như vầy.
1678. Yo tvevayaṃ dakkhiṇassaṃ disāyaṃ khemanti pakkosati tassa saccaṃ, na uttaro vedi bhayābhayassa mā bhetha kiṃ socatha modathavho.
1678. “Chính vị thần ở hướng nam tuyên bố về sự thật của điều ấy là ‘an toàn.’ Vị thần hướng bắc đã không biết về sự sợ hãi và không sợ hãi. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.”
5. Từ hướng Nam, Thần ấy hét vang,
Chúng ta nghe: “Vạn sự bình an”,
Từ Thần này nói là thật,
Sợ hãi, hay không phải hoảng hồn,
Vị Bắc thần kia nào có biết,
Vui lên đừng sợ, chớ lo buồn!
1679. Yathā ime vippavadanti yakkhā eko bhayaṃ saṃsati khemameko, tadiṅgha mayhaṃ vacanaṃ suṇātha khippaṃ lahuṃ mā vinassimha sabbe.
1679. “Giống như các Dạ-xoa này tranh cãi nhau, một bên bảo là sợ hãi, một bên bảo là an toàn. Vậy thì quý vị hãy lắng nghe lời nói của tôi. Mong rằng tất cả quý vị chớ bị tiêu hoại một cách mau chóng và chớp nhoáng.
6. Khi nói ngược nhau, nhị hải Thần,
Một kêu sợ hãi, một an toàn,
Nghe lời ta dặn, e giây lát
Tất cả người đây chết cả đoàn.
1680. Sabbe samāgamma karoma nāvaṃ doṇiṃ daḷhaṃ sabbayantūpapannaṃ, sace ayaṃ dakkhiṇo saccamāha moghaṃ paṭikkosati uttaro ayaṃ.
1680. Tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và làm chiếc thuyền, chiếc ghe chắc chắn, có đầy đủ tất cả bộ phận di chuyển (cây chèo, bánh lái, v.v…). Nếu vị thần ở hướng nam đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng bắc tuyên bố điên rồ.
7. Ta cùng xây một đại thương thuyền,
Thuyền lớn, hành trang cất hết lên,
Nếu vị Nam thần này nói thật,
Thần kia nói nhảm nhí quàng xiêng;
1681. Sace vano hohiti āpadatthā imañca dīpaṃ na pariccajema, sace ca kho uttaro saccamāha moghaṃ paṭikkosati dakkhiṇo ayaṃ, tameva nāvaṃ abhiruyha sabbe evaṃ mayaṃ sotthi tāremu pāraṃ.
1681. Con thuyền sẽ thật sự có lợi ích cho chúng ta sau này khi có tai họa sanh khởi, và chúng ta sẽ không rời bỏ hòn đảo này. Và nếu vị thần ở hướng bắc đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng nam tuyên bố điên rồ. Tất cả hãy leo lên chính chiếc thuyền ấy, như vậy chúng ta có thể vượt đến bờ kia một cách an toàn.
8. Khi cần, thuyền sẽ ích cho ta,
Ta chẳng rời ngay đảo ấy mà,
Song nếu Bắc thần kia nói đúng,
Thần Nam chỉ nói chuyện điên rồ,
Ta cùng lúc ấy lên thuyền cả,
Nơi có bình an, sẽ vội qua,
1682. Na ve sugaṇhaṃ paṭhamena seṭṭhaṃ kaniṭṭhamāpāthagataṃ gahetvā, yo cīdha majjhaṃ paviceyya gaṇhati save naro seṭṭhamupeti ṭhānaṃ.
1682. Thật vật, trong khi không nắm lấy theo người thứ nhất là điều đúng đắn, sau khi nắm lấy việc đi theo quan điểm của người sau, và ở đây, người nào suy xét điều ở giữa rồi nắm lấy, chính người nam ấy đạt đến vị thế tốt nhất.”
9. Ðừng xem ưu, liệt, chuyện vừa nghe,
Ai để lọt tai cả mọi phe,
Xét kỹ, rồi theo phần chính giữa,
Bến bình an nhất, kéo neo về.
1683. Yathāpi te sāgaravārimajjhe sakammunā sotthiṃ vahiṃsu vāṇijā, anāgatatthaṃ paṭivijjhiyāna appampi nāccetisa bhūripañño.
1683. “Cũng giống như những người kia ở giữa dòng nước của biển cả, những người thương buôn đã đi đến sự an toàn nhờ vào hành động của bản thân. Sau khi thấu triệt lợi ích ở tương lai, người nào không bỏ qua dầu là việc có tính chất nhỏ nhen, người ấy là vị có trí tuệ uyên bác.
10. Do nghiệp làm, như giữa đại dương,
Nên người trí hiểu điều sâu kín,
Chẳng phạm ngày sau lỗi cỏn con.
1684. Bālā ca mohena rasānugiddhā anāgataṃ appaṭivijjhiyatthaṃ, paccuppanne sīdanti atthajāte samuddamajjhe yathā te manussā.
1684. Và những kẻ ngu tham đắm theo hương vị bởi vì si mê, sau khi không thấu triệt lợi ích trong tương lai, chúng ngồi yên trong hiện tại khi có sanh lên công việc, giống như là những người đàn ông ấy (bị mất mạng) ở giữa biển cả.
11. Kẻ ngu, khờ dại nuốt tham lam,
Chẳng hiểu tương lai hiểm họa tràn,
Chìm ngập trước nhu cầu hiện tại,
Như người tận số giữa trùng dương.
3. Samuddavāṇijajātakaṃ – Bổn sanh Biển Cả Và Thương Buôn
1685. Anāgataṃ paṭikayirātha kiccaṃ mā maṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhesi, taṃ tādisaṃ paṭigata kiccakāriṃ na taṃ kiccaṃ kiccakāle vyadhetī ”ti.
1685. Nên làm trước công việc cần làm cho thời vị lai (nghĩ rằng): ‘Mong rằng công việc không làm cho tôi rối loạn vào thời điểm của công việc.’ Vị ấy là người như thế ấy, có sự thực hiện công việc cần phải làm trước thời hạn. Công việc không làm cho vị ấy rối loạn vào thời điểm của công việc.”
12. Hãy làm xong việc trước khi cần,
Ðừng để túng cùng phải khổ thân,
Ai đúng thời làm điều thiết yếu,
Chẳng hề lâm cảnh ngộ đau buồn.
1686. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.
1686. “Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.
1. Người nào mong muốn việc trong lòng,
Khi ước nguyện kia được vẹn toàn,
Chắc chắn tâm tràn đầy hỷ lạc,
Vì nay đã đạt được cầu mong.
1687. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati, tato naṃ aparaṃ kāme ghamme taṇhaṃva vindati.
1687. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, từ đó người ấy có các dục nhiều thêm, tựa như người có cơn khát vào mùa nóng nực.
2. Người nào ước vọng việc trong lòng,
Khi ước vọng kia được vẹn tròn,
Ước vọng tràn vào tâm trí mãi,
Như đang cơn khát gặp oi nồng.
1688. Gavaṃva siṅgino siṅgaṃ vaḍḍhamānassa vaḍḍhati, evaṃ mandassa posassa bālassa avijānato, bhiyyo taṇhā pipāsā ca vaḍḍhamānassa vaḍḍhati.
1688. Tựa như loài bò, khi con bò có sừng phát triển (cơ thể) thì cái sừng của nó cũng phát triển; tương tự như vậy, đối với kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức, tham ái và sự khao khát phát triển nhiều thêm khi kẻ ấy tăng trưởng (về tuổi tác).
3. Trong loại bò trâu có mọc sừng,
Sừng kia càng lớn, cứ to dần,
Cũng như tâm địa người vô trí
Chẳng biết chút gì, chẳng biệt phân,
Trong lúc người kia càng lớn tuổi,
Thì niềm khát vọng cứ gia tăng.
1689. Pathavyā sāliyavakaṃ gavāssaṃ dāsaporisaṃ, datvāpi nālamekassa iti vidvā samañcare.
1689. Thậm chí sau khi đã ban cho ruộng lúa sāli, ruộng lúa mạch, bò, ngựa, nô lệ, và con người ở trái đất cũng không đủ cho một người, sau khi biết như thế, nên hành xử công bằng.
4. Ðem hết lúa ngô ở cõi đời,
Bò trâu, nô lệ, ngựa, cho người,
Vẫn chưa đầy đủ, này nên biết,
Và giữ đường công chính mãi thôi.
1690. Rājā pasayha paṭhaviṃ vijetvā sasāgarantaṃ mahimāvasanto, oraṃ samuddassa atittarūpo pāraṃ samuddassapi patthayetha.
1690. Vị vua sau khi chiến thắng trái đất bằng vũ lực, trong khi cư ngụ ở phần đất liền có đại dương bao quanh, có vẻ không thỏa mãn bờ bên này của biển cả, luôn bờ bên kia của biển cả cũng mong mỏi.
5. Một vua chinh phục cả phàm trần,
Trần thế trải mình tận đại dương,
Ở phía bên này chưa thỏa mãn,
Vật ngoài khơi vẫn thấy thèm thuồng.
1691. Yāva anussaraṃ kāme manasā titti nājjhagā, tato nivattā paṭikkamma disvā, te ve tittā ye paññāya tittā.
1691. Chừng nào còn tưởng nhớ các dục ở trong tâm, người ấy còn chưa đạt đến sự thỏa mãn. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi, từ đó quay trở lại, dừng lại; những người nào đã được thỏa mãn về trí tuệ, những người ấy quả thật đã được thỏa mãn.
6. Dục tham ấp ủ ở trong tim,
Tri túc chẳng hề phát khởi lên,
Người tránh dục tham tìm đúng thuốc,
Người nào tri túc, trí như nguyền.
1692. Paññāya tittinaṃ seṭṭhaṃ na so kāmehi tappati, paññāya tittaṃ purisaṃ taṇhā na kurute vasaṃ.
1692. Sự thỏa mãn về trí tuệ là cao quý, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục. Với người đã được thỏa mãn về trí tuệ, tham ái không tạo được quyền lực.
7. Tối ưu là trí tuệ đầy tràn,
Tham dục không hề đốt cháy tan,
Chẳng có bao giờ người trí tuệ
Lại làm nô lệ của lòng tham.
1693. Apacinetheva kāmāni appicchassa alolupo, samuddamatto puriso na so kāmehi tappati.
1693. Thật vậy, nên giảm thiểu các dục, nên là người có ham muốn ít, không tham lam. Người (có trí tuệ lớn lao) ước chừng như biển cả, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục.
8. Thiểu dục, phá tan mọi dục tham,
Chẳng ham chiếm đoạt cả trăm phần,
Người kia cũng giống như lòng biển,
Chẳng bị đốt thiêu bởi dục tầm,
Như thợ giày luôn bào guốc, dép,
Hợp làn da bọc ở bàn chân.
1694. Rathakārova cammassa parikantaṃ upāhanaṃ, yaṃ yaṃ cajati kāmānaṃ taṃ taṃ sampajjate sukhaṃ, sabbañce sukhamiccheyya sabbe kāme pariccaje.
1694. Tựa như người thợ thuộc da đang cắt miếng da tạo thành chiếc giày, mỗi khi dứt bỏ được chút nào của các dục, thì đạt đến hạnh phúc được chút ấy. Nếu mong muốn hạnh phúc trọn vẹn, thì nên lìa bỏ tất cả các dục.”
9. Cứ mỗi dục tham đuợc bỏ đi,
Một niềm hạnh phúc đến liền khi,
Người nào muốn hưởng tròn an lạc,
Phải bỏ mọi tham dục tức thì.
1695. Aṭṭha te bhāsitā gāthā sabbā honti sahassiyo, patigaṇha mahābrahme sādhetaṃ tava bhāsitaṃ.
1695. “Tám kệ ngôn đã được ngài nói, tất cả đều xứng đáng bạc ngàn. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy thọ nhận. Lành thay lời đã nói ấy của ngài.”
10. Tám khúc chàng ngâm đáng tám ngàn,
Ngàn vàng mỗi khúc, Ðại La-môn,
Xin chàng nhận số vàng, vì lẽ
Lời nói chàng nay thật dịu dàng.
1696. Na me attho sahassehi satehi nahutehi vā, pacchimaṃ bhāsato gāthaṃ kāme me na rato mano.
1696. “Không có lợi ích gì cho ta với một ngàn, với một trăm, hay với mười ngàn. Trong khi ta nói kệ ngôn cuối cùng, tâm ý của ta không còn thích thú ở dục.”
11. Dù có ngàn, muôn, triệu, triệu lần
Ngàn vàng, ta cũng chẳng mơ màng,
Như lời kệ cuối vừa ngâm ấy,
Tham dục tâm ta đã lụi tàn.
4. Kāmajātakaṃ – Bổn sanh Các Dục
1697. Bhaddo vatāyaṃ māṇavako sabbalokavidū muni, yo taṇhaṃ dukkhajananiṃ parijānāti paṇḍito ”ti.
1697. “Chàng thanh niên thật sự hiền thiện, là bậc hiền sĩ hiểu biết tất cả thế gian, là bậc sáng suốt biết toàn diện tham ái, nguồn sanh ra khổ đau.”
12. Quả thiếu sinh này thiện trí nhân,
Am tường mọi kiến thức trần gian,
Dục tham kia chính là sinh mẫu
Của khổ đau, chàng mới vạch trần.
1698. Dasa khalu imāni ṭhānāni yāni pubbe akāritvā, sa pacchā manutappati iccāha rājā janasandho.
1698. “‘Quả thật, có mười sự việc này, mà người nào trước đây đã không làm thì sau này người ấy bị hối tiếc,’ đức vua Janasandha đã nói như thế.
1. Chúa tể Ja-na nói thế này,
Có mười điều đúng thật như vầy,
Nếu người quên việc thi hành chúng,
Thì kẻ đó liền chịu khổ ngay!
1699. Aladdhā cittaṃ tapati pubbe asamudānitaṃ, na pubbe dhanamesissaṃ iti pacchānutappati.
1699. Tâm nóng nảy sau khi không đạt được vật đã không được tích lũy trước đây (nghĩ rằng): ‘Trước đây ta đã không tầm cầu tài sản,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
2. Không tạo, chẳng tích trữ đúng thời,
Lòng kia giày xéo khổ đau hoài,
Về sau hối tiếc vì suy nghĩ:
“Không kiếm giàu sang thuở trước rồi!”
1700. Sakyarūpaṃ pure santaṃ mayā sippaṃ na sikkhitaṃ, kicchā vutti asippassa iti pacchānutappati.
1700. ‘Trong khi có vẻ có khả năng (để học tập) trước đây, nghề nghiệp đã không được ta học tập, sự sinh sống của người không có nghề nghiệp là khó khăn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
3. Với người không học, sống gian lao!
Suy nghĩ, ăn năn, nó khổ sầu:
Kiến thức mà nay cần sử dụng,
Nó không thèm học trước đi nào!
1701. Kūṭavedī pure āsiṃ pisuno piṭṭhimaṃsiko, caṇḍo ca pharuso cāsiṃ iti pacchānutappati.
1701. ‘Trước đây, ta đã là người biết giả dối, đâm thọc, nói lén sau lưng. Và ta đã là người tàn nhẫn và thô lỗ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
4. Hai lưỡi ngày xưa, chẳng thật thà,
Vọng ngôn, ý ngữ chẳng nhân từ:
Xưa ta độc ác và cay nghiệt,
Nay thấy nhân duyên khổ đó mà.
1702. Pāṇātipātī pure āsiṃ luddo cāsiṃ anāriyo, bhūtānaṃ nāvadāyissaṃ iti pacchānutappati.
1702. ‘Trước đây, ta đã có sự giết hại sanh mạng và đã là người hung dữ, không thánh thiện. Ta đã không thương xót các sinh linh,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
5. Xưa ta sát hại thật hung tàn,
Chẳng một người nào được phát ban,
Vì việc đáng khinh này, (tự nhủ),
Nay ta phải chịu lắm buồn than.
1703. Bahūsu vata santīsu anapādāsu itthisu, paradāraṃ asevissaṃ iti pacchānutappati.
1703. ‘Thật vậy, trong khi đang có nhiều người phụ nữ không cưới hỏi, tôi đã quyến rũ vợ của người khác,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
6. Nó nghĩ, xưa ta lắm thiếp thê,
Ta đành mắc nợ đám người kia,
Vì ta bỏ chúng theo nàng khác,
Việc ấy, nay ta hối tiếc ghê!
1704. Bahumhi vata santamhi annapāne upaṭṭhite, na pubbe adadiṃ dānaṃ iti pacchānutappati.
1704. ‘Thật vậy, trước đây ta đã không ban phát vật thí trong khi có nhiều cơm nước được sẵn sàng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
7. Xưa đã chứa đầy thức uống ăn,
Nay buồn, nó hối tiếc vô ngần,
Nghĩ rằng nó chẳng bao giờ cả
Thuở trước đem ban bố một lần.
1705. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi jiṇṇake gatayobbane, pahū santo na posissaṃ iti pacchānutappati.
1705. ‘Trong khi có khả năng, ta đã không nuôi dưỡng mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
8. Nó khổ vì khi có thể làm,
Nó không lo phụng dưỡng chăm nom
Mẹ cha nay đã thành già yếu,
Tuổi trẻ ngày nay đã lụi tàn.
1706. Ācariyamanusatthāraṃ sabbakāmarasāharaṃ, pitaraṃ atimaññissaṃ iti pacchānutappati.
1706. ‘Ta đã khi dễ người cha, người thầy và người cố vấn đang đem lại cho ta sự hưởng thụ mọi điều ước muốn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
9. Vì đã khinh thường vị giáo sư,
Những người khuyên bảo hoặc ông cha
Cố làm nó đạt tròn tâm nguyện,
Việc ấy gây đau khổ xót xa.
1707. Samaṇe brāhmaṇe cāpi sīlavante bahussute, na pubbe payirupāsissaṃ iti pacchānutappati.
1707. ‘Trước đây, ta đã không hộ độ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, luôn cả những bậc có giới hạnh, các vị nghe nhiều hiểu rộng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
10. Ðối với Sa-môn quá hững hờ,
Nhiều nhà tu khổ hạnh ngày xưa
Sống đời thánh thiện và thông thái,
Khiến nó ăn năn tự bấy giờ.
1708. Sādhu hoti tapo ciṇṇo santo ca payirupāsito, na ca pubbe tapo ciṇṇo iti pacchānutappati.
1708. ‘Lành thay hạnh khắc khổ đã được hành trì, và bậc an tịnh đã được hộ độ! Và trước đây hạnh khắc khổ đã không được ta hành trì,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.
11. Khổ hạnh thực thi thật tốt lành,
Thiện nhân thường vẫn được tôn vinh,
Trước kia nó chẳng làm điều đó,
Nay phải buồn khi kể chuyện mình.
5. Janasandhajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Janasandha
1709. Yo ca etāni ṭhānāni yoniso paṭipajjati, karaṃ purisakiccāni sa pacchā nānutappatī ”ti.
1709. Và người nào thực hành đúng đường lối các sự việc này trong khi làm các phận sự của con người, người ấy sau này không bị hối tiếc.”
12. Mười điều nhờ trí tuệ khôn ngoan,
Người thực hiện cho được vẹn toàn,
Ðối với mọi người làm phận sự,
Sẽ không hề phải chịu ăn năn.
1710. Kaṇho kaṇho ca ghoro ca sukkadāṭho patāpavā, baddho pañcahi rajjūhi kiṃ dhīra sunakho tava.
1710. “Thưa bậc sáng trí, có phải con chó đen tuyền và ghê rợn, có răng nanh trắng hếu, oai vệ, bị buộc lại bằng năm sợi dây thừng là của ngài?”
1.Chó săn đen sẫm buộc năm dây,
Nanh trắng nhe ra cả miệng này,
Oai vệ gây kinh hoàng dữ dội,
Nó làm gì được với người đây?
1711. Nāyaṃ migānaṃ atthāya usīnara bhavissati, manussānaṃ anayo hutvā tadā kaṇho pamokkhati.
1711. “Tâu đức vua Usīnara, con chó này sẽ không vì mục đích (ăn thịt) các loài thú; khi nào có sự sai trái của con người, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
2. Chó đen chẳng đến để săn mồi,
Song nó làm công dụng trị người,
Ðại đế U-si này, phải biết.
Khi ta thả lỏng nó ra thôi.
1712. Pattahatthā samaṇakā muṇḍā saṃghāṭipārutā, naṅgalehi kasissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1712. Khi nào các hạng Sa-môn, cạo đầu, tay cầm bình bát, trùm y hai lớp, sẽ cày đất với các lưỡi cày, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
3. Giả làm Tăng chúng, bát trong tay,
Mình khoác chiếc y, cạo tóc này,
Lại muốn theo nghề cày ruộng đất,
Thì ta sẽ thả Chó đen ngay.
1713. Tapassiniyo pabbajitā muṇḍā saṃghāṭipārutā, yadā loke gamissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1713. Khi nào các nữ đạo sĩ khổ hạnh, đã được xuất gia, cạo đầu, trùm y hai lớp, sẽ đi đến thế gian (ngũ dục), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
4. Khi nào Ni chúng Giáo đoàn này,
Ðắp một chiếc y, cạo tóc vầy,
Lại thấy đua chen đời thế tục,
Thì ta sẽ thả Chó đen đây.
1714. Dīghuttaroṭṭhā jaṭilā paṅkadantā rajassirā, iṇaṃ vodāya gacchanti tadā kaṇho pamokkhati.
1714. Khi nào các vị đạo sĩ bện tóc, có râu dài, có răng bị đóng bợn, với đầu lấm bụi, đi đến việc cho vay lấy lãi, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
5. Khi nhà tu lại muốn cho vay
Nặng lãi, môi trên chẫu thật dài,
Cả miệng răng hôi, đầu tóc bẩn,
Thì ta sẽ thả Chó đen này.
1715. Adhicca vede sāvittiṃ yaññatantrañca brahmaṇā, bhatikāya yajissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1715. Khi nào các vị Bà-la-môn, sau khi học thuộc lòng kinh Sāvittī thuộc Vệ Đà và trình tự của lễ tế, sẽ làm lễ tế với tiền công, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
6. Giáo sĩ không kinh thánh, lễ đàn,
Lại dùng hết cả mọi tài năng
Tế đàn vì chí ham tiền của,
Lúc ấy ta liền thả Chó săn.
1716. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi jiṇṇake gatayobbane, pahū santā na bharanti tadā kaṇho pamokkhati.
1716. Khi nào những đứa con không đỡ đần mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ, trong khi chúng có khả năng, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
7. Nay đã già nua, nhị lão thân
Ðến thời tàn tạ hết ngày xuân,
Nó không cấp dưỡng dù dư sức,
Chống nó, ta liền thả Chó săn!
1717. Mātaraṃ pitaraṃ vāpi1 jiṇṇake gatayobbane, bālā tumheti vakkhanti tadā kaṇho pamokkhati.
1717. Khi nào chúng sẽ nói với mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ, rằng: ‘Các người là ngu dốt,’ khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
8. Kẻ nào đối với mẹ cha già
Nay đến lúc tàn, xuân đã qua,
Kêu:”Các người kia, đồ ngốc dại!”
Chống y, ta thả Chó săn ra.
1718. Ācariyabhariyaṃ sakhābhariyaṃ mātulāniṃ pitucchayaṃ, yadā loke gamissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1718. Khi nào ở thế gian, chúng sẽ đi đến (quyến rũ) vợ của thầy, vợ của bạn, vợ của cậu, em của cha (cô, o), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
9. Khi đàn ông tán vợ người ta,
Vợ của thầy hay của bạn nhà,
Em của cha mình hay vợ cậu,
Thì ta liền thả Chó đen ra.
1719. Asicammaṃ gahetvāna khaggaṃ paggayha brāhmaṇā, panthaghātaṃ karissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1719. Khi nào các vị Bà-la-môn cầm lấy gươm với cái khiên rồi giơ gươm lên và sẽ gây ra việc giết chóc ở đường lộ, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
10. Khi mộc trên vai, kiếm dưới tay,
Làm quân cường đạo, vũ trang đầy,
Chiến trường giết hại, và ăn cướp,
Ta sẽ thả ra Hắc cẩu này.
1720. Sukkacchavī vedhaverā thullabāhu apātubhā, mithubhedaṃ karissanti tadā kaṇho pamokkhati.
1720. Khi nào những đứa con trai của các góa phụ, có nước da trắng, có cánh tay lớn, không trung thực, sẽ thực hiện việc chia rẽ bạn bè, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
11. Con trai bà góa dưỡng da ngà,
Vô dụng không tài giỏi việc nhà,
Lực lưỡng, chỉ gây trò đánh lộn,
Thì ta sẽ thả Chó săn ra.
1721. Māyāvino nekatikā asappurisacintakā, yadā loke bhavissanti tadā kaṇho pamokkhatī ”ti.
6. Mahākaṇhajātakaṃ – Bổn sanh Con Chó Đen Lớn
1721. Khi nào những kẻ xảo trá, gian lận, có ý nghĩ gây khổ đau cho người khác sẽ xuất hiện ở thế gian, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.
12. Khi tâm người chứa rẫy ý tà,
Những kẻ dối gian, chẳng thật thà,
Quanh quẩn vào ra trong thế giới,
Thì ta sẽ thả Chó đen mà.
1722. Neva kiṇāmi napi vikkiṇāmi na cāpi me sannicayo ca atthi, sukiccharūpaṃ vatidaṃ parittaṃ patthodano nālamayaṃ duvinnaṃ.
1722. “Ta chẳng những không mua, cũng không bán. Thậm chí, sự tích lũy của ta cũng không có. Thật vậy, phần có được vô cùng khó khăn này là ít ỏi. Lượng cơm này không đủ cho hai người.”
1. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!
1723. Appamhā appakaṃ dajjaṃ anumajjhato majjhakaṃ, bahumhā bahukaṃ dajjā adānaṃ nūpapajjati.
1723. “Có chút ít thì nên bố thí chút ít, có vừa phải nên bố thí vừa phải, có nhiều nên bố thí nhiều, không bố thí là không thích đáng.
2. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
1724. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
1724. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”
3. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
1725. Moghañcassa hutaṃ hoti moghañcāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
1725. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người này là vô ích, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là vô ích.
4. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn
Cho thực khách đây một ít phần.
1726. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
1726. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”
5. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
1727. Saccaṃ tassa hutaṃ hoti saccaṃ cāpi samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
1727. “Người nào không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người ấy là sự thật, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là sự thật.
6. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
1728. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
1728. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”
7. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
1729. Sarañca juhati poso bāhukāya gayāya ca, doṇe timbarutitthasmiṃ sīghasote mahāvahe.
1729. “Người cúng tế ở hồ nước, và ở nhiều nơi, ở Gayā, ở Doṇa, ở bến nước Timbaru, ở dòng nước chảy xiết, ở sông lớn.
8. Hồ, lạch Ga-yà chảy xiết dòng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Tim-ba hoặc Do-na ấy
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng,
1730. Atra cassa hutaṃ hoti atra cassa samīhitaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ neko bhuñjati bhojanaṃ.
1730. Sự cúng tế của người này là ở đây, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là ở đây. Người này không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước).
Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
1731. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
1731. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”
9. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
1732. Baḷisaṃ hi so niggilati dīghasuttaṃ sabandhanaṃ, atithismiṃ yo nisinnasmiṃ eko bhuñjati bhojanaṃ.
1732. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt phải lưỡi câu có sợi cước dài, có sự trói buộc.
10. Như cá tham ăn vội nuốt mau
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo
Khi có khách này kế cận sao?
1733. Taṃ taṃ vadāmi kosiya dehi dānāni bhuñja ca, ariyaṃ maggaṃ samāruha nekāsī labhate sukhaṃ.
1733. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”
11. Ko-si, ta nói một đôi lời:
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
1734. Uḷāravaṇṇā vata brāhmaṇā ime ayañca vo sunakho kissa hetu, uccāvacaṃ vaṇṇanibhaṃ vikubbati akkhātha no brāhmaṇā ke nu tumhe.
1734. “Thật vậy, các vị Bà-la-môn này có màu sắc cao quý. Và đây là con chó của các ngài, nguyên nhân là thế nào? Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh sáng. Thưa các vị Bà-la-môn, xin các ngài hãy nói cho chúng tôi, các ngài là những người nào vậy?”
12. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.
1735. Cando ca suriyo ca ubho idhāgatā ayaṃ pana mātali devasārathi, sakkohamasmi tidasānamindo eso ca kho pañcasikhoti vuccati.
1735. “Canda và Suriya, cả hai đã đi đến nơi này. Còn đây là Mātali, người điều khiển Thiên xa. Ta là Sakka, Chúa của cõi Tam Thập. Và vị kia được gọi là Pañcasikha.
13. Kìa! Can-da với Su-ri-ya,
Và nọ, Mà-ta-li quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế Thích
Ở trên Thiên giới Ba-mươi ba,
Pañ-ca-si chính là Thần nhạc
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.
1736. Pāṇissarā mudiṅgā ca murajāḷambarāni ca, suttamenaṃ pabodhenti paṭibuddho ca nandati.
1736. Các điệu nhạc, các trống nhỏ, các trống một mặt, và các trống lớn đánh thức người đang ngủ ấy. Và người ấy vui mừng khi được thức tỉnh.
14. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng
Đánh thức thần dây khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trổi khúc
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.
1737. Ye kecime maccharino kadariyā paribhāsakā samaṇabrāhmaṇānaṃ, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti.
1737. Những người nào là những người bỏn xẻn, keo kiệt, những kẻ mắng nhiếc các vị Sa- môn và Bà-la-môn, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục.
15. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.
1738. Ye kecime suggatimāsasānā dhamme ṭhitā saṃyame saṃvibhāge, idheva nikkhippa sarīradehaṃ kāyassa bhedā sugatiṃ vajanti.
1738. Những người nào là những người đang mong mỏi cõi Trời, đứng vững ở đạo đức, ở sự tự chế ngự, và ở sự san sẻ, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến chốn an vui.
16. Kiên trì chánh hạnh, đạt thiên đàng,
Bố thí, điền thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết, bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.
1739. Tvaṃ nosi ñāti purimāsu jātisu so maccharī rosako pāpadhammo, taveva atthāya idhāgatamhā mā pāpadhammo nirayaṃ apattha.
1739. Ông là thân quyến của chúng tôi ở những kiếp sống trước. Ông đây bỏn xẻn, giận dữ, có bản chất ác độc. Vì lợi ích cho chính ông mà chúng tôi đã đi đến nơi này. Mong sao cho kẻ có bản chất ác độc chớ đọa vào địa ngục.”
17. Dù trong đời trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.
1740. Addhā hi maṃ vo hitakāmā yaṃ maṃ samanusāsatha, sohaṃ tathā karissāmi sabbaṃ vuttaṃ hitesihi.
1740. “Các ngài quả thật là những người mong muốn điều lợi ích cho tôi, nên các ngài mới chỉ dạy cho tôi. Tôi đây sẽ thực hành đúng theo mọi điều đã được nói ra bởi các bậc hữu ân.
18. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ý sâu xa.
1741. Esāhamajjeva upāramāmi nacāpahaṃ kiñci kareyya pāpaṃ, nacāpi me kiñcimadeyyamatthi nacāpadatvā udakampahaṃ pibe.
1741. Ngay từ hôm nay, tôi đây ngưng hẳn. Tôi cũng không làm bất cứ điều gì ác độc, cũng không có bất cứ cái gì mà tôi không thể bố thí, và tôi cũng không thể uống nước sau khi tôi chưa bố thí.
19. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài, cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.
1742. Evañca me dadato sabbakālaṃ bhogā ime vāsava khīyissanti, tato ahaṃ pabbajissāmi sakka hitvāna kāmāni yathodhikānī ”ti.
7. Kosiyajātakam – Bổn sanh Kẻ Keo Kiệt Kosiya
1742. Và trong khi tôi bố thí vào mọi lúc như vậy, thưa vị chúa của chư Thiên, các của cải này sẽ cạn kiệt. Kế đó, tôi sẽ xuất gia, thưa Thiên chủ Sakka, sau khi tôi từ bỏ các dục tùy theo mức giới hạn (của chúng).”
7. . [470]
20. Sak-ka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
1743. Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ sakkhiṃ sattapadampi imasmiṃ loke, jātā amittā duve sahāyā paṭisandhāya caranti kissa hetu.
1743. “Đối với những kẻ thù trước đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân ở thế gian này, giờ họ đã trở thành hai người bạn sống liên kết với nhau; nguyên nhân là thế nào?
5. Hai kẻ thù theo lẽ tự nhiên,
Chưa từng bảy bước đứng kề bên,
Trở thành bạn thiết không rời nữa,
Duyên cớ là đâu? Các bậc hiền!
1744. Yadi me ajja pātarāsakāle paṇhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ, raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe na hi mattho duppaññajātikehi.
1744. Nếu hôm nay, vào bữa ăn sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi xứ sở, bởi vì với những kẻ có tuệ tồi thì không có lợi ích cho trẫm.”
6. Nếu không giải đáp trước trưa nay,
Trẫm sẽ đuổi luôn hết cả bầy,
Trẫm không cần những người ngu nữa,
Vậy hãy tìm lời giải đáp ngay.
1745. Mahājanasamāgamamhi ghore janakolāhalasaṅgamamhi jāte, vikkhittamanā anekacittā pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ.
1745. “Ở nơi tập trung đông đảo dân chúng, ở nơi hãi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng tôi có ý nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy.
7. Giữa đám đông người tụ tập trung,
Thật ồn ào quá, trí mông lung,
Không sao tập hợp tư duy được,
Để giải đáp ngay, tâu Đại vương.
1746. Ekaggacittā ca ekamekā rahasigatā atthaṃ nicintayitvā, paviveke sammasitvāna dhīrā atha vakkhanti janinda atthametaṃ.
1746. Tâu vị chúa của loài người, các bậc sáng trí với tâm được chuyên nhất và chỉ một mình, đã đi đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ý nghĩa, sau khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ý nghĩa ấy.”
8. Nhưng hễ khi nào được độc cư,
Bình tâm tĩnh trí để suy tư,
Vấn đề xem xét cho tường tận,
Sẽ giải đáp ngay, hãy đợi chờ.
1747. Uggaputtarājaputtiyānaṃ urabbhamaṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ, na te sunakhassa adenti maṃsaṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
1747. “Đối với các trai trẻ dòng quý tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu, đáng chuộng. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”
9. Bọn hành khất trẻ, các ông hoàng,
Rất thích thịt dê đực ngọt ngon,
Thịt chó, họ đều không thọ dụng,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.
1748. Cammaṃ vihananti eḷakassa assapiṭṭhattharaṇasukhassa hetu, na ca te sunakhassa attharanti atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
1748. Họ lột da của loài cừu vì nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”
10. Họ lấy da dê phía núi rừng,
Phủ che ngựa quý ở trên lưng,
Còn da của chó không dùng được,
Nhưng chó dê cùng kết bạn thân.
1749. Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo na ca sunakhassa visāṇāni atthi, tiṇabhakkho maṃsabhojano ca atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
1749. Bởi vì cừu là loài thú có sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”
11. Cặp sừng cong xoắn, chú dê rừng,
Nhưng chó lại không có cặp sừng,
Một con ăn cỏ, con ăn thịt,
Tuy thế, chó, dê, kết bạn thân.
1750. Tiṇamāsi palāsamāsi meṇḍo na ca sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ, gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ atha meṇḍassa suṇena sakhyamassa.
1750. Cừu là loài ăn cỏ và là loài ăn lá. Còn chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn bắt thỏ và mèo. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”
12. Cừu dê ăn cỏ, lá cây luôn,
Cỏ, lá thì con chó chẳng ăn,
Chó thích ăn mèo hay thịt thỏ,
Nhưng dê- chó giữ mối thân bằng.
1751. Aḍḍhaṭṭhapādo catuppadassa meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno, chādiyamāharati ayaṃ imassa maṃsaṃ āharati ayaṃ amussa.
1751. “Là con thú bốn chân thuộc loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị phát hiện. Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này.
13. Con dê cao tám tất dùng chân,
Tám móng, không ai thấy, vội mang,
Món thịt về cho con chó ấy,
Chó đem cỏ đến chú dê rừng.
1752. Pāsādagato videhaseṭṭho vitihāraṃ aññamañña bhojanānaṃ, addakkhi kira sakkhi taṃ janindo bobhukkhassa ca puṇṇamukhassa cetaṃ.
1752. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đi đến tòa lâu đài, vị chúa của loài người đã thực sự nhìn thấy tận mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.”
14. Vi-đề-ha, chúa toàn dân chúng,
Đứng tại thượng lầu tận mắt trông,
Việc lấy thức ăn trao đổi ấy,
Giữa dê, chó kết mối thân bằng.
1753. Lābhā vata me anapparūpā yassa medisā paṇḍitā kulamhi, pañhassa gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā.
1753. “Thật vậy, lợi ích có hình thức không phải là nhỏ đã có cho trẫm, là việc trẫm đây có được các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo, các bậc sáng trí thấu triệt ý nghĩa vi tế và sâu sắc của câu hỏi.
15. Trẫm có các bậc hiền giả tại triều
Thật là ích lợi biết bao nhiêu,
Vấn đề tế nhị và uyên áo,
Họ thấu triệt, lời lẽ tối ưu.
1754. Assatarīrathañca ekamekaṃ phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ, sabbesaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ paramapatītamano subhāsitenā ”ti.
8. Meṇḍakapañhajātakaṃ – Bổn sanh Câu Hỏi Về Con Cừu
1754. Với tâm ý được hài lòng tột đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả các bậc sáng suốt các khanh mỗi vị một cỗ xe kéo bởi lừa cái, mỗi vị một ngôi làng hạng nhất, giàu có.”
16. Cứ mỗi hiền khanh, trẫm thưởng ban,
Một xe, la cái, một ngôi làng,
Giàu sang thượng hạng cho người trí,
Trẫm thích thú lời lẽ ngọc vàng !
1755. Nādiṭṭhā parato dosaṃ aṇuṃthūlāni sabbaso, issaro paṇaye daṇḍaṃ sāmaṃ appaṭivekkhiya.
1755. “Sau khi chưa nhìn thấy tội lỗi của người khác, sau khi chưa tự mình xem xét các tội nhỏ lớn về mọi khía cạnh, vị chúa tể không nên ra lệnh hình phạt.
1. Vua chẳng nên trừng phạt tội hình
Mà không nghe lý lẽ phân minh,
Cũng không tự xét suy cho kỹ
Mọi mặt, dù to, nhỏ thật tình.
1756. Yo ca appaṭivekkhitvā daṇḍaṃ kubbati khattiyo, sakaṇṭakaṃ so gilati jaccandhova samakkhikaṃ.
1756. Và vị Sát-đế-lỵ nào không xem xét mà thực hành hình phạt, vị ấy là kẻ nuốt phải xương, tựa như người mù bẩm sinh ăn phải ruồi.
2. Tướng quân trừng phạt lỗi lầm sai
Trước lúc đem ra xử hẳn hòi,
Giống kẻ sinh ra mù cặp mắt,
Ăn toàn xương xẩu lẫn đàn ruồi.
1757. Adaṇḍiyaṃ daṇḍayati daṇḍiyañca adaṇḍiyaṃ, andhova visamaṃ maggaṃ na jānāti samāsamaṃ.
1757. Người gia hình kẻ không đáng bị phạt và không gia hình kẻ đáng bị phạt, tựa như người mù đi ở đường gồ ghề không nhận biết chỗ bằng phẳng và không bằng phẳng.
3. Ai phạt kẻ không có tội gì,
Ðể người có tội lọt qua đi,
Khác gì hơn một người mù mắt
Bụi trên đường cái quá gồ ghề.
1758. Yo ca etāni ṭhānāni aṇuṃthūlāni sabbaso, sudiṭṭhaṃ cānusāseyya sace voharitum arahati.
1758. Và vị nào có thể chỉ dạy sau khi đã xem xét kỹ lưỡng các sự việc lớn nhỏ ấy về mọi khía cạnh, vị ấy quả thật xứng đáng để phát biểu.
4. Người xét xem toàn thể sự tình
Trong việc dù to, nhỏ thật rành,
Cai trị nước nhà theo cách ấy
Xứng ngôi chúa tể giữa quần sinh.
1759. Nekantamudunā sakkā ekantatikhiṇena vā, attaṃ mahante ṭhāpetuṃ tasmā ubhayamācare.
1759. Không thể thiết lập bản thân vào địa vị quan trọng theo cách quá nhu nhược hay theo cách quá khắc nghiệt; vì thế, nên hành xử cả hai cách.
5. Người nào ở địa vị cao sang
Xử sự không nên quá dễ dàng,
Cũng chẳng nên làm khe khắt quá,
Song song thực hiện cả đôi đàng.
1760. Paribhūto mudu hoti atitikkho ca veravā, etañca ubhayaṃ ñatvā anumajjhaṃ samācare.
1760. Người nhu nhược thì bị khinh miệt, và người quá khắc nghiệt thì có kẻ thù nghịch. Sau khi biết cả hai điều ấy, nên thực hành theo lối trung dung.
6. Quá dễ dàng hay bị miệt khinh,
Khắt khe thường nổi trận lôi đình,
Giữa hai điều ấy cần thông hiểu
Và giữ đường trung chính hợp tình.
1761. Bahumpi ratto bhāseyya duṭṭhopi bahubhāsati, na itthikāraṇā rāja puttaṃ ghātetumarahasi.
1761. Người bị ái luyến có thể nói nhiều, người bị sân hận cũng nói nhiều. Tâu bệ hạ, không vì nguyên nhân phụ nữ, mà ngài có thể giết hại con trai.”
7. Người đang nổi giận, hỡi Quân vương,
Cũng nói nhiều như kẻ bất lương,
Và thế là đừng vì phụ nữ,
Giết vương nhi nối dõi tông đường.
1762. Sabbo ca loko ekanto itthī ca ayamekikā, tenāhaṃ paṭipajjissaṃ gaccha pakkhipatheva naṃ.
1762. “Tất cả thế gian là một phe, và người phụ nữ này chỉ một mình. Vì thế, trẫm sẽ thực hành theo lời vương hậu. Ngươi hãy đi. Các khanh hãy ném nó xuống vực.”
8. Cả nước này đang đứng một bên,
Bên kia ái hậu một mình riêng,
Với nàng, tuy vậy, ta khăng khít,
Thả nó vào hang, hãy cút liền!
1763. Anekatāle narake gambhīre ca suduttare, pātito giriduggasmiṃ kena tvaṃ tattha nāmari.
1763. “Con đã bị ném vào khe núi, ở địa ngục có nhiều cây thốt-nốt, sâu thẳm, và khó vượt qua; vì sao con đã không chết ở nơi ấy?”
9. Con bị thả vào miệng vực sâu,
Bên sườn núi dựng, dốc đèo cao,
Chẳng ai cứu giúp, rừng dừa rậm,
Con vẫn bình an bởi cách nào?
1764. Nāgo nāgabalo tattha thāmavā girisānujo, paccaggahī maṃ bhogehi tenāhaṃ tattha nāmariṃ.
1764. “Ở nơi ấy, có con rắn có oai lực của loài rắn, có sức mạnh, được sanh ra ở vùng núi đồi, đã đón nhận con bằng những vòng thân thể cuộn tròn; vì thế, con đã không chết ở nơi ấy.”
10. Một mãnh xà kia đủ lực hùng
Sinh ra sống dưới đất trong rừng,
Bắt con cuộn lấy trong mình rắn,
Con được bình an, thoát tử thần.
1765. Ehi taṃ paṭinessāmi rājaputta sakaṃ gharaṃ, rajjaṃ kāresi bhaddante kiṃ araññe karissasi.
1765. “Này hoàng tử, hãy đến, trẫm sẽ đưa con về lại nhà của mình. Con hãy cai trị xứ sở. Này người đạo đức, con sẽ làm gì ở trong rừng?”
11.Cha sẽ đưa con, hỡi thiếu nhi,
Quay về cung điện của cha đi,
Con làm gì nữa trong rừng núi,
Hạnh phúc con nay sẽ trị vì.
1766. Yathā gilitvā baḷisaṃ uddhareyya salohitaṃ, uddharitvā sukhī assa evaṃ passāmi attanaṃ.
1766. “Giống như con cá cắn lưỡi câu, khi kéo lên thì có chảy máu. Sau khi đã kéo lên thì có sự thoải mái; con nhìn thấy bản thân mình tương tự như vậy.”
12. Kẻ nào đã nuốt móc mồi câu,
Khi kéo móc ra, máu đỏ trào,
Kéo được móc rồi là hạnh phúc,
Lòng con hỷ lạc tuyệt thanh cao.
1767. Kinnu tvaṃ baḷisaṃ brūsi kiṃ tvaṃ brūsi salohitaṃ, kinnu tvaṃ ubbhataṃ brūsi tamme akkhāhi pucchito.
1767. “Con nói cái gì về lưỡi câu? Con nói cái gì về có chảy máu? Con nói cái gì về đã được kéo lên? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”
13. Sao con nói đến móc mồi câu?
Con nói vậy sao đến máu đào?
Con lại nói sao về rút móc?
Cha nay muốn biết việc kia nào?
1768. Kāmāhaṃ baḷisaṃ brūmi hatthiassaṃ salohitaṃ, cattāhaṃ ubbhataṃ brūmi evaṃ jānāhi khattiya.
1768. “Con nói sự ham muốn là lưỡi câu, voi và ngựa là có chảy máu. Con nói đã bị từ bỏ là đã được kéo lên. Thưa vị Sát- đế- lỵ, ngài hãy nhận biết như thế.”
14. Dục tham là chính móc mồi câu,
Con nói ngựa voi, chính máu đào,
Con rút ra nhờ lìa thế tục,
Cha cần biết chuyện ấy, muôn tâu.
9. Mahāpadumajātakam – Bổn sanh Hoàng Tử Paduma Vĩ Đại
1769. Ciñcāmāṇavikā mātā devadatto ca me pitā, ānando paṇḍito nāgo sāriputto ca devatā, ahaṃ tadā rājaputto evaṃ dhāretha jātakan ”ti.
1769. “Kiều nữ Ciñcā là vương hậu, Devadatta là vua cha của Ta, Ānanda là con rắn sáng suốt, Sāriputta là vị Thiên nhân, khi ấy Ta là vị hoàng tử, các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh là như vậy.”
15. Kế mẫu ta là ả Cin-ca,
Ðề-bà-đạt, ấy chính vua cha,
Ta là thái tử Liên Hoa nọ,
Còn vị thần non thuở ấy là
Xá-lợi-phất giờ đây Trưởng lão,
Thiện xà chúa nọ A-nan-đà,
Và này Tăng chúng, Ta tuyên bố
Kết thúc Tiền thân ấy của ta.
1770. Kāni kammāni kubbānaṃ kathaṃ viññū parakkame, amittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca paṇḍito.
1770. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe kẻ đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh, có thể nhận biết đây là thù? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra kẻ ấy)?”
1. Làm sao người trí phải tinh cần,
Phân biệt làm sao được thực chân,
Những việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ rằng kẻ ấy chính cừu nhân?
1771. Na naṃ umhayate disvā na ca naṃ paṭinandati, cakkhūni cassa na dadāti paṭilomaṃ ca vattati.
1771. “Gã không tươi cười sau khi thấy vị kia, không vui mừng với vị kia, không đáp trả những ánh mắt của vị này, và xử sự theo cách ngược lại.
2. Khi ngài thăm, nó chẳng tươi cười,
Nó chẳng tỏ ra muốn đón mời
Nó chẳng quay nhìn theo cách ấy,
Và trả lời không có với ngài.
1772. Amitte tassa bhajati mitte tassa na sevati, vaṇṇakāme nivāreti akkosante pasaṃsati.
1772. Gã giao thiệp với những kẻ thù của vị ấy, không phục vụ các bạn bè của vị ấy, ngăn chận những người có ý muốn tán dương, khen ngợi những kẻ đang khiển trách (vị ấy).
3. Kẻ thù ngài, nó lại tôn vinh,
Bạn thiết của ngài, nó miệt khinh,
Nó cản người khen ngài tốt đẹp,
Những người phỉ báng, nó hoan nghênh.
1773. Guyhañca tassa nakkhāti tassa guyhaṃ na gūhati, kammaṃ tassa na vaṇṇeti paññassa nappasaṃsati.
1773. Gã không nói điều bí mật cho vị ấy, không che dấu điều bí mật của vị ấy, không tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.
4. Nó chẳng hề tâm sự mảy may,
Chuyện ngài tâm sự, nó phơi bày,
Việc ngài làm, chẳng hề khen tốt,
Cũng chẳng hề khen trí tuệ ngài.
1774. Abhave nandati tassa bhave tassa na nandati, acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa nuppajjate sati, tato naṃ nānukampati aho sopi labheyyito.
1774. Gã hân hoan ở sự không thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, không tưởng nhớ đến vị ấy. Gã không có lòng trắc ẩn đến vị kia từ phần chia ở nơi ấy, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.’
5. Khi ngài hạnh phúc nó không mừng,
Ô nhục ngài mang, nó thỏa lòng,
Nếu được món ngon, không nghĩ tới
Tên ngài, trong dạ chẳng buồn thương,
Cũng không kêu lớn: ô này bạn,
Ta ước bạn ta cũng có phần!
1775. Iccete soḷasākārā amittasmiṃ patiṭṭhitā, yehi amittaṃ jāneyya disvā sutvā ca1 paṇḍito.
1775. Như thế, mười sáu biểu hiện này được thiết lập ở kẻ thù; nhờ vào những điều ấy, người sáng suốt sau khi nhìn thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là thù.”
6. Mười sáu điều trên, cớ rõ ràng
Cho ngài thấy được một cừu nhân,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Sẽ biết kẻ thù để nhận chân.
1776. Kāni kammāni kubbānaṃ kathaṃ viññū parakkame, mittaṃ jāneyya medhāvī disvā sutvā ca1 paṇḍito.
1776. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe người đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh có thể nhận biết đây là bạn? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra người ấy)?”
7. Làm sao người trí phải tinh cần
Phân biệt làm sao được thực chân,
Các việc làm nào tai mắt thấy
Tỏ ra người ấy chính thân bằng?
1777. Pavuttaṃ cassa sarati āgataṃ abhinandati, tato kelāyito hoti vācāya paṭinandati.
1777. “Người ấy ghi nhớ việc đã đi xa của vị này, vui mừng việc trở lại của vị này. Do việc ấy, người được yêu thích đáp lại sự hân hoan qua lời nói.
8. Kẻ ấy nhớ người lúc vắng xa,
Mừng vui khi bạn trở về nhà,
Trong lòng hoan hỷ lên cao độ,
Chàng cất tiếng liền đón rước ta.
1778. Mitte tasseva bhajati amitte tassa na sevati, akkosante nivāreti vaṇṇakāme pasaṃsati.
1778. Người ấy giao thiệp với những bạn bè của chính vị ấy, không phục vụ các kẻ thù của vị ấy, ngăn chận những kẻ đang khiển trách, khen ngợi những người có ý muốn tán dương (vị ấy).
9. Chàng chẳng tôn vinh kẻ chống ngài,
Chỉ ưa phụng sự bạn ngài thôi,
Những ai phỉ báng, chàng ngăn cản,
Ai tán tụng ngài, lại thấy vui.
1779. Guyhañca tassa akkhāti tassa guyhañca gūhati, kammañca tassa vaṇṇati paññaṃ tassa pasaṃsati.
1779. Người ấy nói điều bí mật cho vị ấy, che đậy điều bí mật của vị ấy, tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.
10. Chàng kể nhiều tâm sự với ngài,
Chuyện ngài tâm sự, chẳng phơi bày,
Ðề cao những việc ngài làm được.
Khen ngợi tài năng bạn thật hay.
1780. Bhave ca nandati tassa abhave tassa na nandati, acchariyaṃ bhojanaṃ laddhā tassa uppajjate sati, tato taṃ anukampati aho sopi labheyyito.
1780. Người ấy hân hoan ở sự thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự không thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, liền tưởng nhớ đến vị ấy. Người ấy có lòng trắc ẩn đến vị ấy từ phần chia ở nơi đó, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.
11. Chàng khổ lòng khi bạn ố danh
Chàng vui khi nghe bạn được an lành
Nếu được gì cao lương mỹ vị,
Chàng liền nghĩ đến bạn thân mình,
Cảm thương ngài quá, chàng kêu lớn:
Ta ước ao phần bạn được dành!
10. Mittāmittajātakaṃ – Bổn sanh Bạn Và Thù
1781. Iccete soḷasākārā mittasmiṃ suppatiṭṭhitā, yehi mittaṃ ca jāneyya disvā sutvā ca paṇḍito ”ti.
1781. Như thế, mười sáu biểu hiện này khéo được thiết lập ở người bạn, nhờ vào những điều ấy, người sáng suốt sau khi nhìn thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là bạn.”
12. Mười sáu điều trên ấy chứng minh,
Rõ ràng xác định bạn thân tình,
Nếu người có trí nào nghe thấy,
Có thể nói ngay bạn chí thành.
TASSUDDĀNAṂ
Lahucitta sāsāla kasanti puna atha kāma dasakhaluṭṭhāna varo, atha kaṇha sukosiya meṇḍavaro padumo puna mittavare dasa. Dvādasakanipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Có tâm khinh suất, Thần cây May Mắn, họ cày đất,rồi chuyện về dục, và quả thật có mười sự việc, rồi con chó đen, Kosiya tốt lành, và chuyện con cừu, hoàng tử Paduma, rồi chuyện bạn hữu, là mười.
Nhóm Mười Hai Kệ Ngôn được chấm dứt.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda