ĐỊNH NGHĨA MỆNH ĐỀ
(73)Một mệnh đề là một phần của câu, chứa đựng một động từ đã chia (một câu phức tạp phải có ít nhất hai mệnh đề, một chính một phụ)
Có ba loại mệnh đề:
- Mệnh đề danh từ: thay thế một danh từ, làm chủ từ hay túc từ.
- Mệnh đề tĩnh từ: thay thế tĩnh từ và làm cho chủ từ hay túc từ thêm rộng nghĩa.
- Mệnh đề trạng từ: thay thế một trạng từ và trở thành khoáng trương của thuật từ.
Tỷ dụ:
- Mệnh đề danh từ:
“Saccaṃ kira tvaṃ, Nanda, sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi?” (Này Nanda, có đúng chăng, ngươi đã thông báo như vậy cho nhiều tỷ kheo)
Ở đây, thuật từ là: Saccaṃ (hoti) chủ từ là “tvaṃ sambahulānaṃ bhikkhunaṃ evaṃ ārocesi”. Đây là một mệnh đề danh từ vì nó thay thế chủ từ.
“Satthā tato pi jīvakambavanam. Gantukāmo” Tattha maṃ nethā: ti āha” (Đức Đạo sư muốn đi nói với Jīvaka: “hãy đem ta đến đấy Nếu ta đặt câu hỏi: “Ngài nói gì?” thì câu trả lời là “Hãy đem ta đến đấy” (tattha maṃ netha). Cả mệnh đề này làm túc từ cho āha.
- Mệnh đề tĩnh từ
“Yaṃ nissitā jagatiruhaṃ vihaṅgamā, svāyaṃ aggiṃ pamuñcati” (Sukuṇa – jātaka) (cây là chỗ những con chim nương ở, cây ấy bốc lửa)
Ở đây, chủ từ svāyaṃ = so + ayaṃ (cây ấy)
Toàn thể dòng đầu (hiểu ngầm động từ honti) đứng làm thuộc từ bổ nghĩa cho chủ từ.
- Mệnh đề trạng từ
(a) “Yadā te vivadissanti, tadā ehinti me vasaṃ” (cho đến khi nào chúng còn tranh chấp, cho đến khi ấy chúng còn chịu ảnh hưởng của tôi.
(b) “Kīdiso nirayo āsi, yatha dūsī apaccatha” (cái địa ngục như thế nào, nơi mà dūsī chịu khổ sở?)
NHỮNG MỆNH ĐỀ TRẠNG TỪ KHÁC NHAU
(74)Cũng như có nhiều loại trạng từ và đoản cú trạng từ, mệnh đề trạng từ cũng có nhiều loại như vậy.
(a) Mệnh đề trạng từ chỉ thời gian:
“Purā agacchate etaṃ anāgataṃ mahabbhayaṃ
Subbacā hotha sakhilā aññamaññaṃ sagāravā”. Theg.v,987.
(Trước khi nỗi sợ hãi lớn này sẽ đến trong tương lai, các ngươi hãy nhu hòa hiền lành, tôn trọng nhau)
(b) Chỉ nơi chốn:
“Maññe sovaṇṇayo rāsi, soṇṇamālā ca, Nandako
Yattha dāso āmajāto thito thullāni gajjati”. J.i, 226.
(Tôi nghĩ rằng có một đống vàng và những tràng hoa bằng vàng ở nơi Nandaka, người nô tỳ từ lúc sơ sinh, đang đứng nói những lời thô tháo)
(c) Chỉ cách thức:
“Yathā sāradikaṃ bījaṃ khette vuttaṃ virūhati, evaṃ rūhatu te nasā”. J.ii, 322. (Những hạt giống mùa xuân được gieo trong một cánh đồng sẽ nẩy mầm (mau chóng), mong cho cái mũi của ngươi hãy mọc như vậy)
(d) Chỉ lý do:
“Yato ca so bahutaraṃ bhojanaṃ ajjhupāhari, tato tatth’ eva saṃsīdi, amattaññū hi so ahu”. J.ii, 293. (Vì nó ăn quá nhiều, nó ngã quỵ tại chỗ ấy. Nó không biết tiết độ)
(e) Chỉ mức độ:
“Yāva so mattaṃ aññāsi bhojanasmiṃ vihaṅgamo tāva addhānaṃ āpādī; mātarañ ca aposayī”. Ibid. (chừng nào con chim ấy biết tiết độ trong sự ăn uống, chừng ấy, nó có thể bay xa và nuôi mẹ)
(f) Chỉ hậu quả:
“Sace yujjhitukāmo ‘si, jayaṃ samma dadāmi te”. J.ii, 11
(Nếu ngươi sẵn sàng chiến đấu, ta sẽ cho ngươi chiến thắng)
GHI CHÚ
- Thể tuyệt đối ở định sở cách, hay một đoản cú, hay một mệnh đề có thể tuyệt đối ở định sở cách, được liệt vào nhóm mệnh đề trạng từ thời gian.
- Một danh từ ở sở dụng cách hay một đoản cú, hay một mệnh đề có nghĩa ấy, được liệt vào nhóm mệnh đề trạng từ cách thức.
- Những đoản cú có một phân từ bất biến quá khứ, như gantvā được liệt vào nhóm mệnh đề trạng từ thời gian, vì chúng chỉ một việc gì được làm trước khi hành động chính thức xảy ra.
(75)Do những ví dụ nêu trên, ta thấy rằng:
(i) Một mệnh đề danh từ được dẫn nhập bằng iti (hiểu ngầm)
(ii) Một mệnh đề tĩnh từ được dẫn nhập bằng đại danh từ
(iii) Một mệnh đề trạng từ được dẫn nhập bằng:
- Yathā (tathā)
- Yadā (tadā)
- Yattha (tattha)
- Yena (tena)
- Yato (tato)
- Yāva (tāva)
- Yāvatā (tāvatā)
- Ce, sace, yadi
- Iva, viya
- Yadā, atha
- Seyyathā pi (evaṃ eva)
TỶ DỤ NHÓM 16
Định nghĩa những mệnh đề khác nhau:
|
CHÚ GIẢI NHÓM 16
1. Sau khi đả thương vị tỷ kheo ấy (một việc làm) khiến cho cung trời vua Đế Thích rung chuyển với ngón chân cái của ông ta, này Kaṇha, ngươi sẽ chịu khổ sở.
2. Này Mahāvīra, này Sa Môn, đúng như ngươi nói; ở đây, một vài người chìm đắm giống như con bò già chìm đắm trong một ao lầy. 3. Như một miếng vải sạch đã hết những vết dơ có thể sẵn sàng ăn màu nhuộm, cũng thế, pháp nhãn thanh tịnh vô cấu phát sinh nơi 84.000 người ngay tại chỗ ngồi này. 4. Sara, ở đây có nghĩa một loại lau sậy. 5. Bây giờ liệu kẻ trộm có được phép từ những người hành quyết rằng: “Xin Chư vị hành quyết hãy đợi tôi trở về sau khi trình diện với bạn bè huyết thống của tôi ở làng kia, thành phố kia. 6. Nếu các ngươi không có được một người bạn, một người có đức hạnh và khôn ngoan để cùng đi, thì hãy như một vị vua từ bỏ vương quốc đã chiếm được, ngươi hãy đi một mình như một con voi đi trong rừng. 7. (a) Abhiññā ca samāpattiyo ca: thắng tri và thiền chứng (b) Brahmalokūpago ahosi: sanh lên cõi phạm thiên. 9. Catūhi ….. upaṭṭhahi: hỗ trợ cho vị ấy bằng bốn duyên (tứ sự cúng dường: thực phẩm, dược phẩm, y phục, trú xứ). 10. Hãy đi, này các tỷ kheo, vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương tưởng đối với thế gian, vì mục đích, vì lợi ích và an lạc của trời người. 11. Thật không thích hợp để cho tôn giả Kūṭadanta đến yết kiến sa môn Gotama, trái lại thật thích hợp để sa môn Gotama đến yết kiến. Tôn giả Kūṭadanṭa. 12. Rồi vương tử Pāyāsi cho gọi thanh niên Uttara mà bảo rằng: Uttara thân mến, có đúng thật chăng, nghe rằng ngươi nói thế này: Mong rằng do sự bố thí này, tôi được gặp vương tử Pāyāsi ngay trong đời này, không phải đời sau. 13. “Này vương tử, có phải ngươi nhận rằng trong khi ngươi đang ngủ trưa, ngươi đã mộng thấy những khu vườn khả ái?” 14. “Này Cunda, một người tự mình bị sa lầy lại chắc chắn kéo người khác ra khỏi bùn lầy, sự tình ấy không xảy ra”. 15. Này các tỷ kheo, nếu những tài sản ấy không đến cho người thiện gia nam tử tinh cần, nỗ lực, cố gắng như thế, thì nó sẽ sầu khổ, phiền muộn, than khóc. 16. Bạch Thế Tôn, sự tình là như vậy, thì lời nói của người ấy trở thành có căn cứ. 17. Xin Tôn giả biết cho rằng: sa môn Mahākaccāna một mực công kích, bài bác giáo điển của Bà La Môn. |