Phần 17

Tích Vidhurajātaka

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Vidhurajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức-vua Dhanañcaya Korabya ngự tại kinh-thành Indapattha trị vì đất nước Kuru. Đức-Bồ-tát Vidhurapaṇḍita là một vị quan trong triều đình được Đức-vua Dhanañcaya Korabya tấn phong ngôi vị Đại-Pháp-sư. 

Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp giảng dạy Đức-vua Dhanañcaya Korabya, cùng trong hoàng tộc, các quan trong triều, các đoàn binh cùng dân chúng trong kinh-thành và ngoài thành, các tỉnh thành lân cận.

Danh tiếng Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita được lan truyền khắp toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu, nên 101 Đức-vua ngự từ 101 kinh-thành đều ngự đến kinh-thành Indapattha, để nghe Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp.

Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp hay ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, đầy đủ ý nghĩa sâu sắc, văn chương hay làm cho 101 Đức-vua vô cùng hoan hỷ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư, nên không hồi cung ngự trở về kinh-thành của mình, cùng nhau ở lại kinh-thành Indapattha, để thường được thân cận với Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, để nghe Ngài thuyết pháp.

Bốn Vị Đạo-Sĩ

Vào thời ấy, trong kinh-thành Bārāṇasī có bốn vị Bà-la-môn giàu có là bạn thân thiết với nhau, khi lớn tuổi, bốn vị Bà-la-môn này thấy tội lỗi trong ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, nên từ bỏ nhà đi vào rừng Himavanta xuất gia trở thành đạo-sĩ, thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới và phép thần thông.

Hằng ngày, bốn vị đạo-sĩ sống trong rừng bằng các thứ trái cây lớn nhỏ, lá cây nấu chín để nuôi mạng, trải qua thời gian lâu dài, bốn vị đạo-sĩ ấy rời khỏi rừng núi Himavanta đi du hành đến xóm làng đi khất thực, dần dần mới đến kinh-thành Kālacampā đất nước Aṅga, trú trong vườn thượng uyển. Sáng ngày hôm sau, bốn vị đạo-sĩ đi vào kinh-thành để khất thực.

Bốn Thí-Chủ

Trong kinh-thành Kālacampā có bốn người bạn thân đều là người giàu sang phú quý, mỗi người kính thỉnh mỗi vị đạo-sĩ về nhà của mình để cúng dường vật thực và các thứ vật dụng cần thiết, có đức-tin trong sạch nơi mỗi vị đạo-sĩ ấy.

Sau khi dùng vật thực của mỗi thí chủ xong, mỗi vị đạo-sĩ nghỉ trưa tại mỗi nơi khác nhau như sau:

* Một vị đạo-sĩ xuất hiện lên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên nghỉ trưa.

* Một vị đạo-sĩ xuất hiện xuống dưới cõi long-cung nghỉ trưa.

* Một vị xuất hiện đến cõi Điểu-vương nghỉ trưa.

* Một vị xuất hiện đến vườn thượng uyển của Đức-vua Dhanañcaya Korabya nghỉ trưa.

* Vị đạo-sĩ nghỉ trưa tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên nhìn thấy cung điện lâu đài nguy nga tráng lệ của Đức-vua trời Sakka. Khi trở về cõi người, vị đạo-sĩ diễn tả lại cho người thí chủ của mình nghe cung điện lâu đài của Đức-vua trời Sakka, nên người thí chủ vô cùng hoan hỷ phát sinh ý nguyện muốn kiếp sau trở thành Đức-Vua-Trời Sakka.

* Vị đạo-sĩ nghỉ trưa tại cõi long-cung, nhìn thấy các lâu đài, cung điện bằng vàng ngọc quý báu của Đức-Long-vương. Khi trở lên cõi người, vị đạo-sĩ diễn tả lại cho người thí chủ của mình nghe về các lâu đài cung điện ấy của Đức-Long-vương, nên người thí chủ vô cùng hoan hỷ phát sinh ý nguyện muốn kiếp sau trở thành Đức-Long-vương. 

* Vị đạo-sĩ nghỉ trưa tại cõi Điểu-vương, nhìn thấy những đồ trang sức quý báu của Điểu-vương. Khi trở về cõi người, vị đạo-sĩ diễn tả lại cho người thí chủ của mình nghe về các đồ trang sức quý báu ấy của Điểu-vương, nên người thí chủ vô cùng hoan hỷ phát sinh ý nguyện muốn kiếp sau trở thành Điểu-vương.

* Vị đạo-sĩ nghỉ trưa tại vườn thượng uyển của Đức-vua Dhanañcaya Korabya, nhìn thấy cung vàng điện ngọc của Đức-vua Dhanañcaya Korabya. Khi trở về kinh-thành Kālacampā, vị đạo-sĩ diễn tả lại cho người thí chủ của mình nghe về cung vàng điện ngọc của Đức-vua Dhanañcayakorabya, nên người thí chủ vô cùng hoan hỷ phát sinh ý nguyện muốn kiếp sau trở thành Đức-vua Dhanañcaya Korabya.

Mỗi thí chủ cố gắng tinh-tấn tạo mọi phước- thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, v.v… cho đến trọn kiếp.

Thành Tựu Như Ý Nguyện

* Sau khi một người thí chủ chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm Đức-vua trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên đúng như ý nguyện.

* Sau khi một người thí chủ chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm Đức-Long-vương dưới cõi long-cung, đúng như ý nguyện.

* Sau khi một người thí chủ chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm Đức Điểu-vương cõi Điểu-cung, đúng như ý nguyện.

* Sau khi một người thí chủ chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau vào lòng bà Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Dhanañcaya Korabya, đúng như ý nguyện. 

Bốn vị đạo-sĩ đều đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi chết, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên cõi trời sắc-giới phạm-thiên.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Dhanañcaya Korabya sinh hạ Thái-tử, Đức-vua cho đặt tên Thái-tử là Korabyakumāra: Thái-tử Korabya.

Đến lúc trưởng thành, khi Đức-vua Dhanañcaya Korabya băng hà, Thái-tử Korabya lên nối ngôi vua cha, ngự tại kinh-thành Indapattha trị vì đất nước Kuru.

Nghe theo lời khuyên dạy của Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Đức-vua Dhanañcaya Korabya lập ra các trại bố-thí phân phát của cải đến cho những người nghèo khổ.

Hằng ngày, Đức-vua làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Sa-môn, Bà-la-môn, giữ gìn ngũ-giới, thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

* Một hôm, nhằm vào ngày bát-giới uposathasīla hằng tháng, buổi sáng hôm ấy, sau khi thọ trì bát-giới uposathasīla xong, Đức-vua Dhanañcaya Korabya ngự đến vườn thượng uyển tìm một nơi yên tĩnh để thuận lợi thực hành pháp-hạnh Sa-môn.

* Cũng vào buổi sáng hôm ấy, sau khi thọ trì bát-giới uposathasīla xong, Đức-vua trời Sakka nghĩ rằng: “Trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên này có nhiều phiền toái.”

Vậy, ta nên hiện xuống cõi người ngự đến vườn thượng uyển của Đức-vua Korabya, tìm một nơi yên tĩnh để thuận lợi thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.

* Cũng vào buổi sáng hôm ấy, sau khi thọ trì bát-giới uposathasīla xong, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā nghĩ rằng: “Cõi long-cung này có nhiều phiền toái.” 

Vậy, ta nên hiện lên cõi người ngự đến vườn thượng uyển của Đức-vua Korabya, tìm một nơi yên tĩnh để thuận lợi thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.

* Cũng vào buổi sáng hôm ấy, sau khi thọ trì bát-giới uposathasīla xong, Đức-Điểu-vương Supaṇṇarājā nghĩ rằng: “Cõi điểu-cung này có nhiều phiền toái.”

Vậy, ta nên hiện đến vườn thượng uyển của Đức-vua Dhanañcaya Korabya, tìm một nơi yên tĩnh để thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.

Bốn Loài Chúng-Sinh Khác Nhau, Tâm Tư Giống Nhau

Vào buổi chiều hôm ấy, mỗi Đức-vua từ chỗ yên tĩnh ngự đến bờ hồ nước lớn, vừa mới gặp nhau mỗi Đức-vua vô cùng hoan hỷ chuyện trò với nhau bằng những lời chân tình thân thiết, bởi vì tiền-kiếp của bốn Đức-vua này vốn là bốn người bạn thân thiết với nhau. Cho nên, kiếp hiện-tại tuy mỗi Đức-vua khác nhau về phần thể xác, nhưng tâm tư rất thương yêu nhau. Bốn Đức-vua chuyện trò thân mật với nhau, rồi cùng nhau ngự đến tảng đá an lành.

Cuộc Đàm Đạo

Đức-vua trời Sakka ngồi chỗ cao quý, còn ba Đức-vua mỗi vị ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-vua trời Sakka truyền hỏi ba Đức-vua khác rằng:

Này ba vị Vua! Chúng ta là bốn vị Vua đều thọ bát-giới uposathasīla ngày hôm nay.

Vậy, trong bốn vị Vua chúng ta, Đức-vua nào có giới cao thượng hơn cả?

* Bắt đầu Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā tâu rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, bổn vương có giới cao thượng hơn cả. 

Đức-vua trời Sakka truyền hỏi rằng:

Này Đức-Long-vương, do nguyên-nhân nào Đức-Long-vương tâu như vậy?

Tâu Đức-vua trời Sakka, bởi vì Đức-Điểu-vương là kẻ thù của loài long chúng tôi đã sinh và chưa sinh. Tuy vậy, bổn vương gặp Đức-Điểu-vương nhưng bổn vương không phát sinh tâm sân đối với Đức-Điểu-vương. Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

Đọc câu kệ rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka,

Người nào không phát sinh tâm sân với hạng người đáng sân.

Người nào là bậc thiện-trí không hề phát sinh tâm sân bất cứ trường hợp nào, dù người ấy có tâm sân cũng không để cho tâm sân phát sinh.

Chư bậc thiện-trí gọi người ấy là bậc thiện-trí chế ngự, làm lắng dịu được phiền não trong tâm.

Tâu Đức-vua trời Sakka, bổn vương có đức tính nhẫn-nại, chế ngự được tâm sân. 

Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

* Nghe Đức-Long-vương tâu như vậy, Đức-Điểu-vương tâu rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, tuy Đức-Long-vương là món ăn ngon ưa thích của bổn vương, nhưng khi gặp Đức-Long-vương, bổn vương đè nén, chế ngự được tâm tham không ăn Đức-Long-vương ấy, nên không tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

Đọc câu kệ rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, Người nào đói bụng thèm ăn, nhưng chế ngự được tâm tham ăn, là người tự dạy mình, có sự tinh-tấn thiêu huỷ được phiền não, biết tri túc trong vật thực, không tạo ác-nghiệp do nguyên nhân vật thực.

Bậc thiện-trí gọi người ấy là bậc thiện-trí chế ngự, làm lắng dịu được phiền não trong tâm.

Tâu Đức-vua trời Sakka, bổn vương không tạo ác-nghiệp do nguyên nhân vật thực.

Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

* Đức-vua trời Sakka truyền rằng:

Này ba Vị, bổn vương rời khỏi ngai vàng, lâu đài nguy nga tráng lệ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, tránh xa mọi sự dục lạc trên cõi trời, xuất hiện xuống cõi người để gìn giữ bát-giới uposathsīla.

Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

Đọc câu kệ rằng:

Người nào tránh xa sự vui chơi, không thoả thích trong ngũ-dục, không nói lời vô ích, tránh xa sự hành dâm, tránh xa sự trang điểm thân thể, …

Chư bậc thiện-trí gọi người ấy là bậc thiện-trí chế ngự, làm lắng dịu được phiền não trong tâm.

Hôm nay, bổn vương tránh xa mọi sự an-lạc trên cõi trời, xuất hiện xuống cõi người để thọ trì bát-giới uposathasīla, thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.

Cho nên, bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

* Nghe ba Đức-vua mỗi vị truyền mỗi cách như vậy, Đức-vua Dhanañcaya Korabya tâu rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, hôm nay bổn vương rời khỏi ngai vàng điện ngọc mà bổn vương quý nhất, xa lánh các hoàng-hậu và 60.000 cung phi mỹ nữ, ngự đến vườn thượng uyển này để thọ trì bát-giới uposathasīla và thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.

Cho nên bổn vương có giới cao thượng hơn cả.

Đọc câu kệ rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, 

Người nào có trí-tuệ thấy rõ tội lỗi trong vật-dục (vatthukāma) và phiền-não-dục (kilesakāma), từ bỏ được vật-dục và phiền-não-dục. Chư bậc thiện-trí gọi người ấy là người tự dạy mình diệt tâm tham-ái chấp thủ của ta, tâm không có tham muốn, làm lắng dịu mọi phiền não trong tâm.

Như vậy, mỗi Đức-vua tự đề cao mình có giới cao thượng hơn cả ba vị khác. Khi ấy, Đức-vua trời Sakka truyền hỏi Đức-vua Dhanañcaya Korabya rằng:

Này Đại-vương! Trong triều đình của Đại-vương có ai là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt phán xét rõ vấn đề giới của chúng ta hay không?

Đức-vua Dhanañcaya Korabya tâu rằng:

Tâu Đức-vua trời Sakka, trong triều đình của bổn vương có vị quan Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt chắc chắn phán xét rõ về vấn đề giới của mỗi chúng ta được.

Kính thỉnh ba vị cùng nhau ngự đến gặp bậc đại-thiện-trí Vidhurapaṇḍita.

Đức-Bồ-Tát Vidhurapaṇḍita Phán Xét

Bốn Đức-vua đều đồng tâm nhất trí cùng ngự đến hội trường trang hoàng pháp tòa trang nghiêm, rồi thỉnh Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita lên ngồi trên pháp tòa ấy, còn bốn Đức-vua ngồi một nơi hợp lẽ bèn thưa rằng:

Kính thưa Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Ngài là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt thấu suốt tận tường mọi việc.

Thưa Ngài Đại-Pháp-sư, bốn Đức-vua chúng tôi đều thọ trì bát-giới uposathasīla, rồi đang tranh luận với nhau, Đức-vua nào cũng tự cho mình có giới cao thượng hơn cả.

Vậy, kính thỉnh Ngài Đại-Pháp-sư phán xét, làm rõ ràng Đức-vua nào có giới cao thượng hơn cả, để chúng tôi không còn thắc mắc nữa.

Nghe bốn Đức-vua truyền hỏi như vậy, Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita tâu rằng:

Tâu quý Đại-vương, quý Đại-vương đã tranh luận với nhau về giới của mình như thế nào, hạ thần chưa từng nghe, chưa được hiểu, thì hạ thần làm sao có thể tâu cho quý Đại-vương rõ ràng tường tận, không còn thắc mắc nữa.

Vậy, kính xin mỗi Đại-vương truyền bảo cho hạ thần biết ý kiến của mỗi Đại-vương như thế nào?

Nghe Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita tâu như vậy, mỗi Đức-vua tuần tự truyền bảo rằng:

* Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā tự đề cao mình có đức tính nhẫn-nại nên truyền bảo rằng:

Trẫm không hề phát sinh tâm sân nơi đối-tượng đáng phát sinh tâm sân.

* Đức-Điểu-vương Supaṇṇarājā tự đề cao mình không tham ăn, không tạo ác-nghiệp sát-sinh do nguyên nhân vật thực, nên truyền bảo rằng:

Trẫm biết tri túc trong vật thực.

* Đức-vua trời Sakka tự đề cao mình tránh xa sự say mê ngũ-dục trong cõi trời, nên truyền bảo rằng: 

Trẫm không say mê ngũ-dục trong cõi trời.

* Đức-vua Dhanañcaya Korabya tự đề cao mình không bị ràng buộc nơi ngai vàng điện ngọc, nơi các hoàng-hậu, nên truyền bảo rằng:

Trẫm không dính mắc nơi ngai vàng điện ngọc, cảnh an-lạc đế vương.

Sau khi nghe mỗi Đức-vua truyền bảo ý kiến của mình, Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita tâu rằng:

Tâu quý Đại-vương, mỗi Đại-vương truyền bảo ý kiến của mình đều là lời thiện-ngôn (subhāsitā) cả.

Thật vậy, những lời ấy hoàn toàn không phải lời ác ngôn chút nào.

Mỗi lời thiện-ngôn này là mỗi đức tính tốt được hiện hữu trong Đức-vua nào, chư bậc thiện-trí gọi Đức-vua ấy là bậc thiện-trí chế ngự, làm lắng dịu được phiền não trong tâm.

Như vậy, bốn Đại-vương đều có giới đức cao thượng, mỗi vị một đức tính tốt không hơn không kém.

Nghe Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita tâu như vậy, bốn Đức-vua đều phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita rằng:

Kính thưa Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Ngài là bậc đại-thiện-trí cao thượng nhất không ai sánh được, Ngài có trí-tuệ siêu-việt thấy rõ, biết rõ sâu sắc các pháp, đã phán xét công minh và hợp pháp về vấn đề giới của chúng tôi.

Bốn Đức-vua chúng tôi hết lòng tôn kính Ngài, bởi Ngài là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt đã giải đáp rõ ràng minh bạch vấn đề giới, làm tiêu tan mọi sự hoài nghi, sự thắc mắc của chúng tôi ngày hôm nay. 

Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp tế độ bốn Đức-vua, sau khi nghe pháp xong, bốn Đức-vua vô cùng hoan hỷ thực-hành theo lời giáo huấn của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita.

Cúng Dường Pháp

Khi ấy Đức-vua trời Sakka thưa rằng:

Kính thưa Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Trẫm rất hài lòng hoan hỷ với lời phán xét công minh của Ngài, Trẫm xin kính dâng lên Ngài tấm vải trời vô giá có hình hoa sen màu xanh, chất vải mịn màng, gọi là lễ vật cúng dường pháp.

* Đức-Điểu-vương Supaṇṇarājā thưa rằng:

Kính thưa Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Trẫm cũng rất hài lòng hoan hỷ với lời phán xét công minh của Ngài, Trẫm kính xin dâng lên Ngài đóa hoa vàng quý báu có trăm cánh, nhuỵ bằng hàng ngàn viên ngọc quý, gọi là lễ vật cúng dường pháp.

* Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā thưa rằng:

Kính thưa Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Trẫm cũng rất hài lòng hoan hỷ với lời phán xét công minh của Ngài, Trẫm kính dâng lên Ngài viên ngọc maṇi quý báu, món đồ trang sức xinh đẹp vô giá của Trẫm, gọi là lễ vật cúng dường pháp.

* Đức-vua Dhanañcaya Korabya thưa rằng:

Kính thưa Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Trẫm cũng rất hài lòng hoan hỷ với lời phán xét công minh của Ngài, Trẫm xin ban cho Ngài 1000 con bò sữa, 1000 con bò đực báu, 10 chiếc xe ngựa báu, 16 xóm nhà để thâu thuế, gọi là lễ vật cúng dường pháp.

Sau khi làm lễ cúng dường pháp xong, Đức-vua trời Sakka hồi cung ngự trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-Điểu-vương Supaṇṇarājā ngự trở về cõi Điểu cung, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā ngự trở về cõi long cung, Đức-vua Dhanañcaya Korabya ngự trở vào cung điện của mình.

Chánh-Cung Hoàng-Hậu Vimalādevī

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī của Đức-Long vương Varuṇanāgarājā không nhìn thấy viên ngọc maṇi trang sức trên cổ Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā nên tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng, sao thần thiếp không thấy viên ngọc maṇi của Hoàng-thượng?

Này Ái-khanh Vimalādevī! Khi Trẫm nghe pháp của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, Trẫm đã phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài ấy, nên Trẫm đã đem viên ngọc maṇi quý báu ấy dâng đến Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, gọi là lễ vật cúng dường pháp.

Lễ cúng dường pháp ấy không chỉ có Trẫm, mà còn có Đức-vua trời Sakka cúng dường tấm vải trời vô giá, Đức-Điểu-vương cúng dường đóa hoa vàng quý báu có 100 cánh, Đức-vua Dhanañcaya Korabya cúng dường 1000 con bò sữa, 1000 con bò đực báu, v.v…

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng, Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita là người như thế nào?

Này Ái-khanh Vimalādevī! Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt thuyết pháp hay ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, đầy đủ ý nghĩa sâu sắc, văn chương hay, làm cho 101 Đức-vua trong cõi Nam-thiện-bội-châu ngự đến kinh-thành Indapattha nghe Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp, không có một Đức-vua nào hồi cung ngự trở về kinh-thành của mình, mà cùng nhau ở lại kinh-thành Indapattha, để thường được gần gũi thân cận và nghe Ngài Đại-Pháp-sư thuyết pháp.

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā tán dương ca tụng Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī muốn nghe pháp của Ngài Đại-Pháp-sư, nên bà nghĩ rằng:

“Nếu ta tâu xin Đức-Long-vương thỉnh mời Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đến cõi long cung này, để Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thuyết pháp tế độ ta thì chắc chắn Đức-Long-vương sẽ không thỉnh Ngài Đại-Pháp-sư đến. Vậy, ta nên bày kế bị lâm bệnh muốn trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita.”

Nghĩ xong, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī thực hành ngay ý định, bà cho truyền gọi các nữ tỳ đến, bà Chánh-cung Hoàng-hậu truyền bảo rằng:

Này các ngươi! Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā hỏi đến ta thì các ngươi tâu rằng:

“- Muôn tâu Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā, Lệnh bà bị lâm trọng bệnh”.

Truyền bảo xong, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalā-devī ngự vào phòng nằm giả bị bệnh.

Không nhìn thấy bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalā-devī đến chầu, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền hỏi các nữ tỳ rằng:

Này các ngươi! Sao bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī vắng mặt?

Muôn tâu Hoàng-thượng, Lệnh bà bị lâm trọng bệnh.

Nghe các nữ tỳ tâu như vậy, Đức-Long-vương rời ngai vàng ngự đến thăm bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī, ngồi một bên vuốt thân mình của bà Chánh-cung Hoàng-hậu rồi truyền hỏi rằng:

Này Ái-khanh Vimalādevī yêu quý! Ái-khanh bị lâm bệnh như thế nào, mà thân hình gầy ốm, nước da nhợt nhạt, sức khoẻ yếu đuối như vậy?

Trẫm truyền hỏi, vậy, Ái-khanh hãy tâu cho Trẫm rõ.

Trái Tim Của Ngài Đại-Pháp-Sư Vidhurapaṇḍita

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền hỏi như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng, bậc cao cả trong cõi long cung này, lòng mong ước là tính chất của phái nữ.

Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita (Vidhurassa hadayaṃ). Nếu Hoàng-thượng đem được trái tim ấy về đây một cách hợp pháp, không phải bất hợp pháp cho thần thiếp thì sinh-mạng của thần thiếp còn duy trì được.

Nếu thần thiếp không được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita thì chắc chắn thần thiếp sẽ vĩnh biệt Hoàng-thượng tại nơi này.

Nghe bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī tâu như vậy, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā hiểu lầm rằng: Trái tim thịt của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, (Vidhurapaṇḍitassa hadayamaṃsaṃ), nên truyền bảo rằng:

Này Ái-khanh Vimalādevī yêu quý! Ái-khanh muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita như là muốn được mặt trời, mặt trăng hoặc gió, bởi vì Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita được 101 Đức-vua trong cõi Nam-thiện-bội-châu bảo vệ nghiêm ngặt, cho nên khó có người khác đến gần gũi thì làm sao lấy được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita hoặc bắt Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đem về cõi long cung này một cách hợp pháp được.

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo như vậy, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī thất vọng tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng cao cả nhất trong cõi long cung, nếu thần thiếp không được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita trong vòng bảy ngày thì chắc chắn thần thiếp sẽ vĩnh biệt Hoàng-thượng tại nơi này.

Tâu xong, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī nằm quay lưng, lấy tấm vải trùm mặt lại. Đức-Long-vương phát sinh khổ tâm ngự trở về lâu đài của mình, ngồi trên bệ suy nghĩ rằng:

“Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita, nếu không được thì sinh-mạng Chánh-cung Hoàng-hậu của ta sẽ không còn nữa. Vậy, ta làm thế nào để có được trái tim thịt của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita ấy.”

Khi ấy, Công-chúa long Irandhatī cùng với đoàn tuỳ tùng đến chầu đảnh lễ Đức Phụ-vương, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, nhìn thấy gương mặt của Đức Phụ-vương buồn khổ, nên tâu rằng:

Muôn tâu Đức Phụ-vương cao cả trong cõi long cung này, do nguyên nhân nào làm cho Đức Phụ-vương khổ tâm gương mặt thiểu não vậy?

Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo Công-chúa Irandhatī rằng:

Này Irandhatī con yêu quý! Mẫu-hậu của con muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita. Ngài Đại-Pháp-sư ấy được bảo vệ nghiêm ngặt. 

Vậy, ai có khả năng đem Ngài Đại-Pháp-sư Vidhura-paṇḍita đến cõi long cung này một cách hợp pháp.

Này Irandhatī con yêu quý! Con hãy nên tìm cách cứu sinh-mạng Mẫu-hậu của con. 

Vậy, con nên đi tìm một vị phu-quân có khả năng đem Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đến cõi long cung này một cách hợp pháp được không?

Nghe truyền bảo như vậy, Công-chúa Irandhatī tâu cho Đức-Long-vương an tâm, rồi đến chầu thăm Mẫu-hậu Vimalādevī, cũng tâu cho Mẫu-hậu an tâm, Công-chúa Irandhatī đảnh lễ Mẫu-hậu, rồi xin phép trở về lâu đài của mình.

Công-chúa Irandhatī trang điểm lộng lẫy với tâm tham ái muốn tìm một phu quân xứng đáng, nên rời khỏi cõi long cung ngay trong đêm hôm ấy. Công-chúa Irandhatī bay đến đỉnh núi Kāḷapabbata cao sáu mươi do tuần gần bãi biển tại rừng núi Himavanta.

Công-chúa Irandhatī đi tìm các thứ hoa thơm trong rừng núi Himavanta đem về trang hoàng trên đỉnh Kāḷapabbata xinh đẹp lộng lẫy, Công-chúa Irandhatī đờn ca múa hát những câu kệ hay với giọng lánh lót, câu kệ thứ bảy rằng:

Hỡi các thiên-nam, các Dạ-xoa nam, các điểu nam dạng người hay các người nam! Nếu vị nào tài giỏi có khả năng làm vừa lòng mong ước của Mẫu-hậu của Irandhatī, là “muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita” một cách hợp pháp, thì vị ấy sẽ là vị phu-quân yêu quý của công-chúa Irandhatī suốt đời.

Khi ấy, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka, cháu của Đức Đại-Thiên-vương Vessavaṇṇamahārājā cỡi ngựa trời Manomayasindhava cao ba gāvuta bay đi dự đại hội Dạ-xoa, ngang qua đỉnh núi Kāḷapabbata nghe tiếng hát của công-chúa Irandhatī làm cho vị thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka say mê đắm đuối tiếng hát ấy, bởi vì tiền-kiếp của Công-chúa Irandhatī đã từng là phu-nhân của thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka. 

Cho nên, kiếp hiện-tại này nghe lại tiếng hát, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka liền đem lòng thương yêu tha thiết, nên cho ngựa quay trở lại, ngồi trên lưng ngựa nói với Công-chúa Irandhatī rằng:

Này Công-chúa Irandhatī có đôi mắt xinh đẹp! Công-chúa nên an tâm, ta có khả năng đem trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita về dâng lên Mẫu-hậu của công-chúa một cách hợp pháp, bằng trí-tuệ của ta, rồi ta sẽ là vị phu-quân của công-chúa và công-chúa sẽ là phu-nhân của thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka này.

Khi thấy và nghe lời nói của vị thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka, công-chúa Irandhatī liền đem lòng thương yêu, bởi vị vị thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka này đã từng là vị phu-quân kiếp trước vừa qua của công-chúa Irandhatī, nên công-chúa thưa với thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka rằng:

– Thưa thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka, tiện thiếp tên là Irandhatī công-chúa của Đức-Long-vương Varuṇanāga-rājā và Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī.

Này chàng thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka! Tiện thiếp sẽ dẫn chàng đến yết kiến Đức Phụ-vương của thiếp, rồi Đức Phụ-vương sẽ truyền bảo cho chàng rõ.

Công-chúa Irandhatī xinh đẹp nắm tay thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka đến yết kiến đảnh lễ Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā, rồi thống-tướng Dạ-xoa tâu rằng:

Tâu Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā cao cả trong cõi long cung, hạ thần mong muốn làm lễ thành hôn với công-chúa Irandhatī của Đức-Long-vương. 

Vậy, kính xin Đức-Long-vương hoan hỷ nhận những đồ sính lễ của hạ thần, gồm có 100 con voi, 100 con ngựa, 100 cỗ xe ngựa chở đầy các thứ ngọc quý, rồi kính xin Đức-Long-vương ban công-chúa Irandhatī cho hạ thần, để làm phu-nhân của hạ thần.

Nghe thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka tâu như vậy, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo rằng:

Này thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka! Ngươi nên chờ đợi Trẫm bàn bạc với Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalā-devī của Trẫm và hoàng gia trước.

Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā ngự đến gặp Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī truyền bảo rằng:

Này Ái-khanh Vimalādevī yêu quý! Thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka đến cầu hôn công-chúa Irandhatī yêu quý của chúng ta, chúng ta không nên đòi hỏi những đồ sính lễ có phải không?

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā bàn bạc như vậy, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thượng, chúng ta sẽ ban công-chúa Irandhatī yêu quý của chúng ta cho thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka không đòi hỏi những đồ sính lễ, mà chỉ có một điều kiện mà thôi. Nếu thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka có khả năng đem được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đến cõi long cung này một cách hợp pháp, thì thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka sẽ được thành hôn với công-chúa Irandhatī yêu quý của chúng ta.

Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp chỉ muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita mà thôi. Ngoài ra, không muốn thứ của cải nào khác cả.

Nghe Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī tâu như vậy, Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā ngự trở lại gặp thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka truyền bảo rằng: 

Này thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka! Ngươi muốn cầu hôn với công-chúa Irandhatī yêu quý của chúng ta, không phải bằng những đồ sính lễ nào cả, mà chỉ có một điều kiện mà thôi. Nếu ngươi có khả năng đem trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đến cõi long cung này một cách hợp pháp, thì Trẫm sẽ ban công-chúa yêu quý của Trẫm cho ngươi đem về làm phu-nhân, bởi vì Chánh-cung Hoàng-hậu Vimalādevī của Trẫm chỉ muốn được trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita mà thôi. Ngoài ra, không muốn thứ của cải nào khác cả.

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo như vậy, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka tâu rằng:

Tâu Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā cao thượng nhất trong cõi long cung này, kính xin Đức-Long-vương truyền bảo cho hạ thần biết rõ Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đang làm gì và ở đâu?

Này thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka! Hiện nay, Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita là vị quan thuyết pháp giảng dạy Đức-vua Dhanañcaya Korabya tại kinh-thành Indapattha, đất nước Kuru.

Nếu ngươi có khả năng đem trái tim của Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita đến cõi long cung này một cách hợp pháp, thì Trẫm sẽ ban Công-chúa Irandhatī yêu quý của Trẫm cho ngươi đem về làm phu-nhân của ngươi.

Nghe Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā truyền bảo rõ ràng như vậy, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Long-vương Varuṇanāgarājā, rồi xin phép trở về chỗ ở của mình.

Thống-tướng Puṇṇaka cỡi con ngựa báu Sindhava bay trở về với tâm tham-ái say mê công-chúa Irandhatī, đến chầu đảnh lễ Đại-Thiên-vương Kuvera Vessavaṇṇa cao cả nhất trong hàng Dạ-xoa, rồi xin phép ra đi. 

Thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka cỡi con ngựa báu Sindhava bay lên hư không nghĩ rằng:

“Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita được các Đức-vua bảo vệ nghiêm ngặt, ta không dễ bắt sống Ngài Đại-Pháp-sư Vidhurapaṇḍita được, nhưng nếu được như vậy thì cũng không hợp pháp.

Ta biết Đức-vua Dhanañcaya Korabya có tài chơi môn cờ gieo con súc sắc.

Vậy, ta nên tìm một viên ngọc maṇi quý báu nhất, đó là một viên ngọc maṇi báu đặc biệt, là đồ trang sức của Đức-vua Chuyển-luân Thánh-vương để ở tại đỉnh núi Vepula gần kinh-thành Rājagaha. Ta nên đến đỉnh núi Vepula để lấy viên ngọc maṇi có nhiều oai lực phi thường ấy đem khoe với Đức-vua Dhanañcaya Korabya.

Nhìn thấy viên ngọc maṇi báu đặc biệt ấy, chắc chắn Đức-vua Dhanañcaya Korabya sẽ phát sinh tâm tham muốn được viên ngọc maṇi báu ấy, nên Đức-vua chấp thuận chơi môn cờ gieo súc sắc thắng thua với ta.”

Nghĩ xong, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka bay thẳng đến kinh-thành Rājagaha, bay lên đỉnh núi Vepula để tìm viên ngọc Maṇi ấy.

Viên Ngọc Maṇi Báu

Thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka nhìn thấy viên ngọc maṇi báu đặc biệt ấy nằm giữa đỉnh núi Vepula, phát ra hào quang ánh sáng trong trẻo xinh đẹp lạ thường lan toả một vùng rộng lớn, tại nơi ấy, có 100 ngàn Dạ-xoa ngày đêm giữ gìn bảo vệ viên ngọc maṇi báu ấy.

Khi nhìn thấy chúng, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka làm bộ nổi giận trừng đôi mắt thì tất cả nhóm Dạ-xoa hoảng sợ chạy trốn nơi xa tít.

Khi ấy, thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka đến lấy viên ngọc maṇī báu ấy, bay thẳng đến kinh-thành Indapattha đất nước Kuru.

Khi thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka đáp xuống trước cung điện của Đức-vua Dhanañcaya Korabya, biến hoá ra thành một chàng trai trẻ với tư cách dũng cảm hiên ngang đi vào nơi triều đình có Đức-vua Dhanañcaya Korabya cùng với 101 Đức-vua trong tòan cõi Nam-thiện-bội-châu đang hội họp.

Khi ấy, chàng trai trẻ đưa viên ngọc maṇi báu ấy lên mà thách thức các Đức-vua rằng:

Tất cả các Đức-vua trong triều đình này, có Đức-vua nào dám đánh môn cờ gieo súc sắc với tên tiện dân này hay không?

Nếu Đức-vua nào thắng được kẻ tiện dân này thì kẻ tiện dân này sẽ dâng viên ngọc maṇi báu đặc biệt vô giá này đến Đức-vua ấy, và nếu tiện dân này thắng cờ Đức-vua nào thì Đức-vua ấy phải ban cho kẻ tiện dân này báu vật đặc biệt.

Khi nghe chàng trai trẻ thách thức các Đức-vua đánh môn cờ gieo súc sắc như vậy, Đức-vua Dhanañcaya Korabya nghĩ rằng:

“Trước đây ta chưa từng thấy ai dũng cảm, dõng dạc nói như vậy, ta muốn biết chàng trai trẻ này là ai?”

Đức-vua Dhanañcaya Korabya truyền hỏi rằng:

Này chàng trai trẻ! Chắc chắn ngươi không phải là dân Kuru của Trẫm. Vậy, ngươi tên gì? Thuộc dòng dõi nào? Từ đâu đến đây? 

Thống-tướng Dạ-xoa Puṇṇaka nghĩ rằng: “Đức-vua Dhanañcaya Korabya hỏi tên của ta, dòng dõi, dân tộc của ta. Có kẻ tôi tớ tên là Puṇṇaka, nếu ta tâu tên ta là Puṇṇaka thì Đức-vua sẽ khinh thường ta.”

Vậy, ta nên tâu dòng dõi kiếp trước của ta rằng:

Tâu Đại-vương Dhanañcaya Korabya cao quý nhất trong nước Kuru này, tiện dân tên Puṇṇaka thuộc dòng dõi Kaccayana tại kinh-thành Kālacampā đất nước Aṅga.

Tâu Đại-vương Dhanañcaya Korabya, nghe danh tiếng Đại-vương là bậc chơi môn cờ gieo súc sắc vô địch, nên hôm nay tiện dân đến xin chơi môn cờ gieo súc sắc với Đại-vương.

Này chàng trai trẻ! Ngươi là kẻ thường dân không của cải, ngươi chơi cờ với Trẫm, nếu Trẫm thắng ngươi thì ngươi có gì dâng đến Trẫm.

Chàng trai trẻ tâu rằng:

Tâu Đại-vương Dhanañcaya Korabya, tiện dân có một viên ngọc maṇi báu này và một con ngựa báu, nếu Đại-vương thắng cờ tiện dân, thì tiện dân sẽ dâng viên ngọc maṇi báu và con ngựa báu này lên Đại-vương.

Này chàng trai trẻ! Ngươi chỉ có một viên ngọc maṇi báu và một con ngựa báu kia có đáng gì đâu! Trẫm có nhiều viên ngọc maṇi và nhiều con ngựa báu.

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app