Nội Dung Chính
Phần 5
Đức-Bồ-Tát Mahosadhapaṇḍita Chọn Bạn Đời
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita trưởng thành có chức trọng quyền cao trong triều đình của Đức-vua Vedeha. Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī theo dõi những việc làm phi thường của Đức-Bồ-tát, nên phát sinh đức tin trong sạch và khâm phục trí-tuệ siêu-việt của Đức-Bồ-tát, nên Bà nghĩ rằng: “Mahosadhapaṇḍita, người em trai của ta đã trưởng thành, lên 16 tuổi, có chức trọng quyền cao trong triều đình.
Vậy, ta nên chọn người con gái xứng đáng để làm lễ thành hôn cho em của ta.” Nghĩ xong, Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī đến chầu Đức-vua Vedeha, tâu điều suy nghĩ ấy lên Đức-vua. Đức-vua chuẩn y theo lời tâu của Bà.
Chánh-cung Hoàng-hậu liền truyền gọi Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đến, Bà truyền bảo rằng:
– Này Mahosadhapaṇḍita em yêu quý! Chị đã tâu lên Hoàng-thượng, đã được Hoàng-thượng chuẩn y cho phép chị chọn một người con gái xứng đáng để làm lễ thành hôn với em. Vậy, em có đồng ý hay không?
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đồng ý nhận lời Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī, nhưng Đức-Bồ-tát nghĩ rằng: “Người con gái mà Chánh-cung Hoàng-hậu tìm cho ta, biết đâu không thích hợp với ta.
Vậy, tốt hơn, ta nên đi tìm người con gái mà ta hài lòng yêu thích.”
Nghĩ xong Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita tâu với Chánh-cung Hoàng-hậu rằng:
– Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, chị kính yêu! Xin chị cho phép em đi tìm người con gái mà em hài lòng yêu thích. Kính xin chị chờ đợi em đôi ba ngày nữa.
Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī đồng ý cho phép. Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đảnh lễ Bà, rồi xin phép trở về tư dinh của mình, báo tin cho các bạn hữu biết sẽ vắng mặt đôi ba ngày.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đến chầu Đức-vua Vedeha, xin phép đi tìm người bạn đời đem về trình Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī. Đức-vua Vedeha cho phép, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đảnh lễ Đức Phụ-vương, xin bái biệt đôi ba ngày.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita cải trang thành người thợ may vá, một mình ra khỏi cửa thành hướng Bắc, đi đến xóm nhà cánh đồng lúa mạch hướng Bắc (uttarayavamajjhakagāma).
Trong xóm nhà ấy có một gia đình ngày xưa là phú hộ, có một cô con gái tên Amarā rất xinh đẹp, thùy mị, đoan trang, đầy đủ đức tính tốt. Cô là người có trí-tuệ, có phước lớn.
Sáng hôm ấy, cô Amarā đem cháo cho cha đang cày ruộng ngoài đồng, cô từ nhà đi theo con đường xóm nhà ra đồng ruộng.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đang đi trên con đường vào xóm nhà, gặp cô đang đi đến. Đức-Bồ-tát thoáng nhìn thấy cô đi liền nghĩ rằng: “Cô gái này có đầy đủ mọi tướng tốt, nếu cô chưa có chồng thì thật là diễm phúc đối với ta biết dường nào! Ta sẽ chọn cô gái này làm vợ.”
Còn cô Amarā, khi vừa nhìn thấy Đức-Bồ-tát Mahosadha liền nghĩ rằng: “Nếu ta được chàng trai trẻ này làm chồng thì thật là diễm phúc đối với ta biết dường nào!”
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita nghĩ tiếp rằng: “Để biết cô gái này đã có chồng hay chưa, ta nên hỏi bằng cách ra dấu tay, nếu cô là người có trí-tuệ thông minh thì sẽ hiểu được ý nghĩa câu hỏi của ta.”
Nghĩ xong, đứng lại cách một khoảng, Đức-Bồ-tát nắm bàn tay phải đưa lên.
Nhìn thấy như vậy, Cô Amarā hiểu ý nghĩa rằng: “Chàng trai trẻ này muốn hỏi ta có chồng hay chưa.”
Cô đứng lại, ngửa bàn tay ra. 4
Đã hiểu rõ ý của 2 người với nhau, nên Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đến gần cô bèn hỏi rằng:
Maho: – Này tiểu thư! Tên tiểu thư gọi là gì?
Ama: – Thưa công-tử, pháp nào không có quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, pháp ấy là tên của tiện nữ.
Maho: – Này tiểu thư! Chỉ có pháp bất tử mới không có quá-khứ, vị-lai, hiện-tại mà thôi. Vậy, tên tiểu thư gọi là Amarā đúng không?
Ama: – Thưa công-tử, đúng như vậy, tên của tiện nữ gọi là Amarā.
Maho: – Này tiểu thư Amarā! Tiểu thư đem cháo cho ai vậy?
Ama: – Thưa công-tử, tiện nữ đem cháo cho vị chư thiên đầu tiên (pubbadevatā) của tiện nữ.
Maho: – Này tiểu thư! Cha mẹ gọi là vị chư thiên đầu tiên. Vậy, tiểu thư đem cháo cho phụ-thân của tiểu thư.
Ama: – Thưa công-tử, đúng như vậy, tiện nữ đem cháo cho phụ-thân của tiện nữ.
Maho: – Này tiểu thư! Phụ-thân của tiểu thư làm gì?
Ama: – Thưa công-tử, phụ-thân của tiện nữ làm một đường ra thành hai.
Maho: – Này tiểu thư! Công việc cày đất là làm một đường ra thành hai. Vậy, phụ-thân của tiểu thư cày ruộng, đúng không?
Ama: – Thưa công-tử, đúng như vậy, phụ-thân của tiện nữ cày ruộng.
Maho: – Này tiểu thư! Phụ-thân của tiểu thư cày ruộng chỗ nào?
Ama: – Thưa công-tử, phụ-thân của tiện nữ cày ruộng gần chỗ mà người ta đưa đến đó một lần không bao giờ trở về nữa.
Maho: – Này tiểu thư! Nghĩa địa là chỗ mà người ta đưa người chết đến đó một lần không bao giờ trở về nữa. Vậy, phụ thân của tiểu thư cày ruộng gần nghĩa địa, đúng không?
Ama: – Thưa công-tử, đúng như vậy, phụ-thân của tiện nữ cày ruộng gần nghĩa địa.
Maho: – Này tiểu thư! Tiểu thư lúc nào trở về nhà?
Ama: – Thưa công-tử, nếu nó lên thì tiện nữ chưa trở về nhà, nếu nó chưa lên thì tiện nữ trở về nhà.
Maho: – Này tiểu thư! Phụ-thân của tiểu thư cày ruộng bên kia sông, nếu khi nước lên thì tiểu thư chưa trở về nhà, nếu nước sông chưa lên thì tiểu thư trở về nhà, có đúng không?
Ama: – Thưa công-tử, đúng như vậy.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita với cô Amarā đàm thoại với nhau rất tâm đầu ý hợp, rồi cô mời Đức-Bồ-tát dùng cháo.
Đức-Bồ-tát nghĩ rằng: “Nếu ta từ khước thì đó là điều không nên.” Nghĩ vậy xong, Đức-Bồ-tát nhận lời mời của cô.
Cô Amarā đặt nồi cháo xuống đất, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita nghĩ rằng: “Nếu cô ta không rửa bát, không dâng nước cho ta rửa tay, trước khi dùng cháo thì ta sẽ từ bỏ cô Amarā tại nơi đây.”
Amarā là cô gái hiền thục, thông minh, đảm đang, khéo léo, cô rửa bát xong, lấy nước rửa tay dâng lên Đức-Bồ-tát. Cô chia phần cháo dành cho phụ thân, phần còn lại, cô múc ra bát, dâng đến Đức-Bồ-tát. Ăn cháo, xúc miệng, uống nước xong, Đức-Bồ-tát nói với cô rằng:
– Này tiểu thư! Tôi muốn đến nhà tiểu thư. Vậy, xin cô chỉ đường cho tôi.
Cô Amarā thưa rằng:
– Lành thay! Thưa công-tử.
Rồi cô đọc bài kệ với ý nghĩa rằng:
– Thưa công-tử, công-tử theo con đường này vào trong xóm nhà, nhìn thấy tiệm bán gạo, qua tiệm bán gạo đến tiệm bán nước quýt (nước chua), trước tiệm nước có cây kovilāra trổ đầy hoa, đi qua cây kovilāra rồi rẽ qua con đường bên phải, bỏ con đường bên trái. Đó là con đường đi đến nhà của tiện nữ, có mẫu thân tiện nữ ở nhà trong xóm nhà vùng lúa mạch hướng Bắc.
Sau khi chỉ đường xong, hôm ấy cô Amarā cảm thấy vô cùng hoan hỷ, rồi đem cháo đến cho thân-phụ đang cày ruộng bên kia sông gần nghĩa địa.
Nghe cô Amarā chỉ dẫn đường đến nhà cô, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita có trí-tuệ siêu-việt, thông minh, đi đúng đường đến nhà của cô. Mẹ cô Amarā đón tiếp Đức-Bồ-tát rất niềm nở thân thiện, mời ngồi một nơi hợp lẽ, rồi bà bảo rằng:
– Này con! Mời con dùng cháo.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita thưa rằng:
– Thưa mẹ, tiểu thư Amarā đã đem cháo đãi con rồi.
Mẹ của cô Amarā biết rằng: “Cậu con trai này muốn con gái Amarā của ta rồi.”
Nhận xét thấy gia đình này hiện nay không khá giả, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita thưa rằng:
– Thưa mẹ, con là thợ may vá, nếu mẹ có vải thì đưa con may đồ mới, nếu có đồ y phục cũ rách thì đưa con vá lại.
– Này con! Trong nhà có vải mới, có y phục cũ rách, nhưng không có tiền trả tiền công.
– Thưa mẹ, con may vá không lấy tiền công đâu! Xin mẹ đem vải mới và các y phục cũ rách đưa con may, vá lại cho mẹ.
Bà mẹ cô Amarā đem vải mới, các y phục cũ rách đưa cho Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita may, vá lại. Với thời gian không lâu, Đức-Bồ-tát đã làm xong tất cả do oai lực của mình. Đức-Bồ-tát thưa với bà rằng:
– Thưa mẹ, con đã may, vá tất cả xong rồi. Xin mẹ thông báo đến những gia đình trong xóm, ai có vải mới hoặc y phục cũ rách đem đến đưa con may, vá lại.
Bà mẹ cô Amarā đi thông báo những gia đình trong xóm, họ đem những tấm vải mới, những bộ y phục cũ rách đưa Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita may, vá lại cho họ, với thời gian không lâu, Đức-Bồ-tát đã làm xong tất cả do oai lực của mình.
Chiều hôm ấy, cô Amarā đội một bó củi và rau trở về nhà trước, còn phụ-thân của cô trở về nhà sau.
Mẫu thân của cô đã nấu cơm, đồ ăn đã sẵn sàng. Cô Amarā dọn bữa ăn chiều, mời cha mẹ và Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita dùng cơm xong, rồi cô mới dùng sau.
Tối hôm ấy, cô Amarā đem nước lau chân cha mẹ cô xong, rồi đem nước đến lau chân của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita. Đức-Bồ-tát xin phép ở lại nhà cô Amarā 2-3 hôm, với mục đích để theo dõi, xem xét tính tình, tư cách của cô Amarā.
Một hôm, để thử tài trí và đức tính của cô, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita bảo cô rằng:
– Này tiểu thư! Cô lấy nửa lít gạo, đem nấu cháo, nấu cơm và làm bánh cho tôi với nửa lít gạo ấy.
Vâng lời Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, cô Amarā lấy phần gạo nguyên hột đem nấu cháo, lấy phần hột gạo gãy đem nấu cơm và phần gạo tấm đem làm bánh. Trước hết, cô Amarā đem cháo vào dâng đến Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita. Đức-Bồ-tát ngậm miếng cháo vào miệng, vị ngon của nó thấm vào các thần kinh xúc giác, có cảm giác ngon tuyệt vời, nhưng Đức-Bồ-tát thử quở trách cô rằng:
– Tiểu thư không biết nấu cháo, làm hư phần gạo.
Rồi Đức-Bồ-tát nhổ cháo cùng nước miếng xuống nền nhà. Cô Amarā vẫn tự nhiên, không phát sinh tâm sân, cũng không có buồn gì cả, rồi thưa rằng:
– Thưa công-tử, nếu cháo không ngon miệng thì xin công-tử dùng bánh vậy.
Cô Amarā đem bánh vào dâng Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita. Nhận bánh xong, mặc dù Đức-Bồ-tát dùng bánh thật ngon miệng, nhưng Đức-Bồ-tát thử quở trách như lần trước. Cô Amarā vẫn tự nhiên thưa rằng:
– Thưa công-tử, nếu bánh không ngon miệng thì xin công-tử dùng cơm.
Cô Amarā đem cơm vào dâng Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita. Nhận cơm xong, mặc dù Đức-Bồ-tát dùng cơm rất ngon miệng, nhưng Đức-Bồ-tát vẫn thử quở trách như hai lần trước.
Lần này, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita còn làm bộ nổi giận, lấy cháo, bánh và cơm trộn lẫn vào nhau đổ từ trên đầu xuống mình cô Amarā, rồi đuổi cô đi ra ngoài. Cô Amarā chắp hai tay, thưa rằng:
– Tiện nữ kính xin công-tử tha lỗi, tiện nữ xin vâng lời công-tử.
Cô Amarā chắp hai tay, xin phép đi ra ngoài, nhưng không dám đi ra xa mà đứng khuất ngoài cửa. Dù bị quở trách, bị đuổi ra ngoài, cô Amarā vẫn giữ thái độ tự nhiên, không hề phát sinh tâm sân, không tỏ ra giận hờn Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita.
Cô Amarā có đức tính nhẫn nại cao thượng như vậy, khiến Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita gọi cô vào.
Chỉ mới nghe một tiếng đầu, cô Amarā chắp tay đi vào ngay, ngồi gần dưới đôi chân của Đức-Bồ-tát. Mahosadhapaṇḍita
Khi ấy, Đức-Bồ-tát lấy từ trong ruột tượng một bộ đồ sang trọng và tấm vải quý giá trao cho cô Amarā rồi bảo rằng:
– Này tiểu thư! Cô nên đi tắm, rồi mặc bộ đồ này và choàng tấm vải này lên.
Vâng lời Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, cô Amarā đi tắm xong, rồi mặc bộ đồ, choàng tấm vải đi đến hầu Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita.
Đức-Bồ-tát dẫn cô đến hầu cha mẹ của cô, dâng lên cha mẹ cô hai tấm vải quý giá, các châu báu và một số tiền Kahāpana lớn gọi là làm sính lễ rước cô Amarā.
Cha mẹ cô vô cùng hoan hỷ nhận sính lễ của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, chấp thuận cho phép con gái là Amarā làm vợ Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita.
Đức-Bồ-Tát Rước Cô Amarā Về Kinh-Thành
Sau đó, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đảnh lễ cha mẹ cô Amarā, xin phép rước cô Amarā trở về kinh-thành Mithilā. Trên đường trở về kinh-thành, Đức-Bồ-tát trao cho cô một cây dù và một đôi dép, bảo rằng:
– Này em Amarā yêu quý! Em hãy dùng cây dù này để che nắng và đôi dép mang đi đường.
Cô Amarā nhận hai món đồ của Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita trao cho. Cô Amarā che dù khi đi vào dưới cây cao bóng mát, khi đi ra ngoài khoảng không gian trống trải, cô Amarā xếp dù lại. Và cô Amarā mang đôi dép khi lội xuống nước, khi lên bờ, cô Amarā cởi đôi dép cầm trên tay.
Nhìn thấy cô Amarā hành động như vậy, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita bèn hỏi rằng:
– Này Amarā, em yêu quý! Tại sao đi ngoài trời nắng khoảng không gian trống trải, em không che dù, nhưng khi đi vào khu rừng có cây cao bóng mát, em lại che dù, như vậy nghĩa là gì?
Cô Amarā thưa rằng:
– Thưa đức phu-quân kính yêu, bởi vì đi ngoài trời nắng khoảng không gian trống trải, em không sợ nhánh cây khô hoặc vật gì rơi đụng đầu, nên em không cần che dù, còn khi đi vào khu rừng có cây cao, em cần phải che dù để ngăn ngừa các cành cây khô gãy rơi xuống đụng đầu em.
Nghe lời giải thích của cô Amarā, Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita nghĩ rằng: “Amarā có trí-tuệ thông minh, giải thích hợp lý”, rồi hỏi tiếp rằng:
– Này Amarā em yêu quý! Tại sao khi đi trên đường, em không mang dép, khi lội xuống dưới nước, em lại mang dép, như vậy nghĩa là gì?
– Thưa đức phu-quân kính yêu, bởi vì khi đi trên đường, mắt em nhìn thấy gai, gốc cây, v.v… để tránh được, nên em không cần mang dép, còn khi lội xuống dưới nước, mắt em không nhìn thấy gai, gốc cây, v.v… để tránh được, nên em cần phải mang dép để ngăn ngừa gai, gốc cây, v.v… không đụng dưới bàn chân em.
Nghe lời giải thích của cô Amarā, Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita vô cùng hoan hỷ hài lòng với lời giải thích hợp lý của cô Amarā. Trên đường đi, hai người nhìn thấy một cây táo có nhiều quả táo chín trĩu cành. Cô Amarā thưa rằng:
– Thưa phu-quân kính yêu, mời anh leo lên cây hái quả táo chín mà dùng, rồi cho em dùng với!
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita bảo rằng:
– Này Amarā em yêu quý! Anh cho phép em leo lên cây hái quả táo chín cho anh dùng với!
Được Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita cho phép, cô Amarā leo lên cây hái quả táo chín rồi nghĩ rằng: “Để xem đức phu-quân là người có trí-tuệ hay không”. Cô Amarā thưa rằng:
– Thưa phu-quân kính yêu, anh muốn dùng quả táo nóng hay quả táo lạnh?
Hiểu ý nghĩa câu hỏi của cô Amarā, nhưng Đức-Bồ-tát làm như không hiểu nên trả lời rằng:
– Này Amarā em yêu quý! Anh muốn dùng quả táo nóng em à!
Nghe Đức phu-quân trả lời như vậy, cô Amarā hái quả táo chín, ném xuống chỗ đất, rồi thưa rằng:
– Kính mời anh dùng quả táo nóng nhé!
Đi đến nhặt quả táo chín lên, Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita thổi bụi đất cho sạch, rồi dùng quả táo chín ấy. Dùng xong Đức-Bồ-tát lại bảo rằng:
– Này Amarā em yêu quý! Bây giờ anh muốn dùng quả táo lạnh em à!
Nghe đức phu-quân bảo như vậy, cô Amarā hái quả táo chín, ném xuống bụi cỏ, rồi thưa rằng:
– Kính mời anh dùng quả táo lạnh nhé! Đi đến bụi cỏ nhặt quả táo chín, rồi Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita dùng quả táo chín ấy mà không cần phải thổi bụi. Đức-Bồ-tát rất hài lòng về cô Amarā, bởi vì cô là người có trí-tuệ, rồi bảo cô leo xuống.
Vâng lời dạy của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, cô Amarā leo xuống, mang bình xuống sông lấy nước đem lên dâng Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita súc miệng, rửa mặt, uống nước rồi họ tiếp tục đi vào kinh-thành Mithilā.
Thử Lòng Chung Thủy
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita gửi cô Amarā ở trong nhà người gác cửa kinh-thành, nói riêng cho người vợ người gác cửa kinh-thành biết Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita muốn thử lòng chung thủy của cô vợ mới. Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita trở về tư dinh của mình, gọi các bạn đến báo cho họ biết rằng:
– Này các bạn thân mến! Tôi đã chọn được một cô gái đem về làm vợ, nhưng tôi đã gửi cô gái ấy ở tại nhà người gác cửa kinh-thành. Bạn đem số tiền 1.000 đồng Kahāpana đến thử dụ dỗ cô gái ấy với số tiền này.
Vâng lời Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, một người bạn đến gặp cô Amarā, tán tỉnh, dụ dỗ với số tiền lớn ấy, nhưng không sao thuyết phục được cô Amarā, bởi vì cô Amarā có một tấm lòng son sắt, thuỷ chung, chờ đợi người chồng.
Người bạn trở về báo cho Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita biết rõ lại mọi sự việc xảy ra như vậy. Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita bảo người bạn khác đến gặp cô Amarā lần thứ nhì, lần thứ ba, nhưng không sao dụ dỗ cô Amarā được. Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita bảo rằng:
– Nếu như vậy thì các bạn dùng quyền lực, bắt cô Amarā dẫn đến đây.
Cô Amarā bị bắt đến tư dinh của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, nhìn thấy Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita trong trang phục một vị quan lớn, có chức trọng quyền cao, giàu sang phú quý mà cô không sao biết được người ấy chính là chồng của mình, cứ tưởng là một người nào khác. Nhìn thấy vị quan lớn ấy, cô cười, rồi cô khóc.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, vị quan lớn truyền hỏi rằng:
– Này cô gái kia! Tại sao cô cười, rồi cô khóc?
Cô Amarā thưa rằng:
– Kính thưa quan lớn, bởi vì tôi nhìn thấy quan lớn có chức trọng quyền cao, là người giàu sang phú quý như thế này. Đó là quả của đại-thiện-nghiệp mà quan lớn đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ. Vì vậy, tôi nghĩ rằng: “Quả của đại-thiện-nghiệp thật là phi thường!” Cho nên, tôi phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, nên tôi đã cười.
Và trong kiếp hiện-tại này, quan lớn có ý định tạo ác-nghiệp hành ác, xúc phạm đến người con gái đã có chồng. Nếu quan lớn tạo ác-nghiệp ấy thì sẽ không tránh khỏi tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy. Vì vậy, tôi phát sinh tâm bi muốn cứu quan lớn mà không được, nên phát sinh khổ tâm, tôi đã khóc.
Nghe lời giải thích của cô Amarā như vậy, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đã biết rõ cô là cô gái có đức hạnh tốt, có tấm lòng son sắt chung thủy đối với chồng của mình, nên Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita truyền bảo các người bạn rằng:
– Này các ngươi! Hãy tiễn đưa cô gái này về chỗ ở của cô ngay!
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita cải trang trở lại là người thợ may vá đến gặp cô Amarā, ở lại với cô trong đêm hôm ấy.
Sáng sớm hôm sau, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita dẫn cô vào cung điện chầu Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī, tâu trình cho Bà biết rõ mọi việc về cô.
Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī đến chầu Đức-vua Vedeha, tâu lên Đức-vua biết rõ, để tổ chức lễ thành hôn cho Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita với cô tiểu thư Amarā tại tư dinh của Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita.
Đức-vua Vedeha chuẩn tấu theo lời tâu trình của Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī. Bà truyền lệnh trang điểm cho cô Amarā với những đồ trang sức quý giá lộng lẫy như thiên-nữ, rồi Bà ngự dẫn đầu với đoàn hộ giá tiễn đưa tiểu thư Amarā đến tư dinh của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita.
Lễ thành hôn của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita và tiểu thư Amarā được tổ chức rất trọng thể, có Đức-vua Vedeha và Chánh-cung Hoàng-hậu Udumbaradevī chủ trì, các quan, quân trong triều đình, dân chúng trong kinh-thành Mithilā và dân chúng ngoài thành đến dự lễ thành hôn này.
Đức-vua Vedeha ban cho số tiền 1.000 đồng Kahā-pana và các tặng phẩm quý giá gọi là quà trong dịp lễ thành hôn ấy. Các quan, quân trong triều đình, dân chúng trong kinh-thành Mithilā và dân chúng ngoài thành đều đem những tặng phẩm quý giá làm quà trong lễ thành hôn này. Cho nên, lễ thành hôn này có được rất nhiều quà tặng.
Phu-nhân Amarā thưa với đức phu-quân Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đem tất cả các món quà ấy chia ra làm hai phần:
– Một phần nhập vào kho của triều đình.
– Một phần đem phân phát đến những người nghèo khổ trong kinh-thành và ngoài thành.
Đôi vợ chồng, Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita và tiểu thư Amarā, đều là bậc thiện-trí, có trí-tuệ, thông minh, sáng suốt, sống chung với nhau được an-lạc hạnh phúc.
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita là một vị quan cận thần rất thân tín của Đức-vua Vedeha, là một vị quân-sư dâng những kế sách lên Đức-vua trị vì đất nước Videharaṭṭha được thái bình, phồn vinh, dân chúng được an cư lạc nghiệp.
Bốn Vị Quân-Sư Âm Mưu Hại Đức-Bồ-Tát
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita có trí-tuệ siêu-việt, tài giỏi phi thường, được Đức-vua Vedeha đem lòng ngưỡng mộ khâm phục, trọng dụng, nên những kế sách tấu trình của Đức-Bồ-tát thường đều được Đức-vua chuẩn tấu. Đức-vua ít quan tâm đến bốn vị quân-sư đã phụng sự lâu năm.
Một hôm, ba vị quân-sư: Pukkusa, Kāminda, Devinda cùng nhau đến tư dinh của vị quân-sư Senaka. bốn vị quân-sư bàn bạc với nhau tìm ra mưu kế hại Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, vị quân-sư Senaka bảo rằng:
– Này ba vị quân-sư! Chúng ta là bốn vị quân-sư kỳ cựu trong triều đình từ trước đến nay. Từ ngày Maho-sadhapaṇḍita, con trai của ông phú hộ xóm nhà hướng Đông vào cung điện, được Đức-vua nhận làm hoàng-tử, Mahosadhapaṇḍita ỷ lại mình là người có trí-tuệ, được Đức-vua tín cẩn đặc biệt. Mahosadhapaṇḍita thường tâu lên Đức-vua những kế sách hay, nên được Đức-vua ban thưởng, còn chúng ta không được Đức-vua ban thưởng. Vì vậy, chúng ta đã mất nhiều lợi lộc.
Vậy, chúng ta làm cách nào để hại Mahosadha-paṇḍita này.
Ba vị quân-sư thưa rằng:
– Thưa quân-sư, ba chúng tôi không nghĩ ra mưu kế nào để hại Mahosadhapaṇḍita. Vậy, quân-sư có nghĩ ra mưu kế nào chưa?
– Này quý vị! Tôi đã nghĩ ra mưu kế này, xin trình bày quý vị rõ. Bốn vị quân-sư chúng ta, mỗi vị thi hành một công việc:
– Chính tôi sẽ là người lấy cắp viên ngọc Cūḷamaṇi của Đức-vua.
– Vị quân-sư Pukkusa lấy cắp chuỗi vàng đeo cổ của Đức-vua.
– Vị quân-sư Kāminda lấy cắp cái mền lông thú của Đức-vua.
– Vị quân-sư Devinda lấy cắp đôi hia của Đức-vua.
Khi mỗi người chúng ta lấy cắp được mỗi vật báu của Đức-vua đem về xong, mỗi người chúng ta tìm cách đưa mỗi báu vật ấy vào nhà của Mahosadhapaṇḍita cho được, đừng để ai nghi ngờ mỗi chúng ta.
Ba vị quân-sư đều chấp nhận đó là mưu kế hay và hứa sẽ cùng nhau thực hiện. Khi bốn vị quân-sư vào chầu Đức-vua, mỗi người lẻn vào trong phòng lấy một báu vật theo sự phân công đem về tư dinh.
* Vị quân-sư Senaka đem giấu viên ngọc Cūḷamaṇi của Đức-vua Vedeha trong nồi bơ, rồi gọi người tớ gái, bảo rằng:
– Ngươi hãy đem cái nồi bơ này đi bán, nhưng không được bán cho nhà khác, chỉ bán cho người trong tư dinh của quan lớn Mahosadhapaṇḍita mà thôi.
Thật ra, nếu người trong tư dinh của quan lớn Maho-sadhapaṇḍita chịu mua thì người xin kính biếu nồi bơ này, không cần lấy tiền.
Vâng lời chủ, người tớ gái đem nồi bơ đi ngang qua tư dinh của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita rao lớn rằng:
– Xin mời mua bơ ngon, …
Người tớ gái đội nồi bơ đi qua, đi lại trước mà rao mời như vậy, không đi nơi nào khác.
Bà Amarādevī có trí-tuệ, thông minh, đứng trên tư dinh, nhìn qua cửa sổ, thấy hành vi, cử chỉ người bán bơ ấy khả nghi, nên nghĩ rằng: “Tại sao người bán bơ này không đi bán nơi khác mà cứ đi qua rồi đi lại trước tư dinh của ta, người ấy rao lớn: ‘Xin mời mua bơ ngon’ chắc chắn có điều gì nơi người ấy.”
Nghĩ xong, bà truyền gia nhân gọi người bán bơ vào.
Khi người bán bơ vào tư dinh, bà ra hiệu cho các gia nhân vào bên trong dinh. Bà hỏi người bán bơ rằng:
– Này ngươi! Ngươi bán bơ có phải không?
– Thưa bà, tiện nữ bán bơ. Kính mời bà mua giúp, bơ này ngon lắm.
– Này ngươi! Ta sẽ mua nồi bơ này của ngươi.
Nghe bà Amarādevī nói như vậy, người tớ gái tỏ vẻ vui mừng, nói rằng:
– Con xin cám ơn Bà.
Khi ấy, không có một gia nhân nào ở gần bà Amarādevī, cho nên bà nhờ người bán bơ rằng:
– Này con! Ta nhờ con vào bên trong gọi giúp gia nhân của ta ra đây. Vâng lời bà Amarādevī, người bán bơ đi vào bên trong, nhân dịp ấy, bà đưa tay vào nồi bơ, gặp viên ngọc Cūḷamaṇi vô giá của triều đình. Bà Amarādevī để trở lại, rồi ngồi chờ người bán bơ gọi gia nhân trở ra. Bà Amarādevī truyền hỏi rằng:
– Này con! Con bán nồi bơ này giá bao nhiêu?
Người tớ gái hoàn tòan không hề biết trong nồi bơ có viên ngọc Cūḷamaṇi nên thưa rằng:
– Thưa Bà, nồi bơ này giá tiền chỉ bằng 4 lít gạo mà thôi, nếu Bà muốn mua nồi bơ này, con kính biếu cho Bà nồi bơ này. Kính xin Bà nhận nồi bơ này cho con vui.
– Này con! Ta xin nhận nồi bơ này của con, con đối xử với ta tốt quá!
– Thưa Bà, con chân thành cảm ơn Bà.
Khi ấy, Bà Amarādevī truyền hỏi rằng:
– Này con! Con ở đâu vậy?
– Thưa Bà, con là người tớ gái ở trong tư dinh của vị quân-sư Senaka.
– Này con! Tên con gọi là gì?
Người tớ gái nói tên thật của mình.
– Này con! Cha mẹ con tên gì?
Người tớ gái nói thật tên cha mẹ mình.
Sau cuộc đàm thoại thân mật, người tớ gái của vị quân sư Senaka xin phép trở về.
* Vị quân-sư Pukkusa thì đem giấu xâu chuỗi vàng đeo cổ của Đức-vua Vedeha trong cái hộp, bên trên đựng đầy hoa lài, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:
– Này ngươi! Ngươi hãy đem cái hộp hoa lài này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadhapaṇḍita mà thôi. Bà Amarādevī cũng mua cái hộp ấy, rồi cũng hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.
* Vị quân-sư Kāminda đem giấu cái mền lông thú của Đức-vua Vedeha trong cái giỏ chất đầy rau cải, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:
– Này ngươi! Ngươi hãy đem cái giỏ rau cải này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadhapaṇḍita mà thôi.
Bà Amarādevī cũng mua giỏ rau ấy, rồi hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.
* Vị quân-sư Devinda thì đem giấu đôi hia vàng của Đức-vua Vedeha trong bao gạo, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:
– Này ngươi! Ngươi hãy đem cái bao gạo này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadhapaṇḍita mà thôi.
Bà Amarādevī cũng mua bao gạo ấy, rồi hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.
Bà Amarādevī đã nhận mua được bốn báu vật của Đức-vua Vedeha, mỗi báu vật Bà đều ghi chép lại rõ trên tấm biển tên của vị quân-sư nào, bảo người tớ gái nào đem đến bán, tên mỗi người tớ gái và tên cha mẹ của họ. Bà thưa trình cho Đức-Phu-quân Mahosadhapaṇḍita biết rõ Bà đã mua được báu vật của Đức-vua Vedeha từ bốn người tớ gái của bốn vị quân-sư đem đến bán cho Bà, và Bà đã ghi rõ chi tiết của mỗi báu vật ấy rồi Bà đem cất giữ trong tư dinh.
Một hôm, bốn vị quân-sư đến chầu Đức-vua Vedeha theo thường lệ, vị quân-sư Senaka tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, lâu nay Bệ-hạ không trang sức viên ngọc Cūḷamaṇi?
– Thưa quân-sư, khanh hãy đem viên ngọc Cūḷamaṇi ra cho Trẫm trang sức hôm nay.
Bốn vị quân-sư làm bộ đi vào bên trong phòng cất các báu vật của Đức-vua Vedeha, trở ra tay không, rồi tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, hạ thần không tìm thấy viên ngọc Cūḷamaṇi và cũng không tìm thấy ba báu vật khác là xâu chuỗi vàng, đôi hia vàng và chiếc mền bằng lông thú. Rồi tâu với lời lẽ khẳng định rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, bốn món báu vật của Bệ-hạ không còn trong cung điện của Bệ-hạ, chúng hạ thần biết chắc chắn bốn món báu vật ấy hiện có trong tư dinh của Mahosadhapaṇḍita.
– Muôn tâu Bệ-hạ, Mahosadhapaṇḍita sử dụng bốn món báu vật này trước, rồi sau đó sẽ tính giết Bệ-hạ, để chiếm ngôi vua.
Khi ấy, quan thân tín của Đức-Bồ-tát Mahosadha-paṇḍita đem chuyện này đến báo cho Đức-Bồ-tát biết. Nghe quan thân tín thưa báo như vậy, nên Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita nghĩ rằng: “Ta nên đến chầu Đức-vua Vedeha để biết thật hư như thế nào?”
Nhìn thấy Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita từ ngoài đi vào cung điện, Đức-vua nổi cơn thịnh nộ, không cho phép Đức-Bồ-tát vào, bởi vì tin theo lời bốn vị quân-sư đã tâu.
Biết Đức-vua Vedeha đang nổi cơn thịnh nộ, nên Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita trở về lại tư dinh của mình.
Không lâu sau đó, Đức-vua Vedeha truyền lệnh bắt giam Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita. Quan thân tín của Đức-Bồ-tát liền đến bẩm báo cho Đức-Bồ-tát Maho-sadhapaṇḍita lệnh truyền của Đức-vua Vedeha.
Đức-Bồ-tát nghĩ rằng: “Ta nên trốn đi nơi khác.”
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita gặp phu-nhân Amarā, báo cho Bà biết rằng:
– Này Amarā, em yêu quý! Lệnh truyền của Đức-vua Vedeha như vậy. Ngay bây giờ hay nhất, anh nên trốn đi nơi khác lánh nạn một thời gian, em ở tại dinh thự này tuỳ cơ ứng phó.
Đức-Bồ-Tát Mahosadhapaṇḍita Trốn Đi Lánh Nạn
Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita cải trang đi ra cửa thành hướng Nam kinh-thành Mithilā, đến xóm nhà vùng lúa mạch hướng Nam, xin vào chỗ làm đồ gốm, làm việc để nuôi mạng. Vị thầy nhận Đức-Bồ-tát làm học trò, rồi dạy làm đồ gốm.
Dân chúng trong kinh-thành Mithilā xôn xao bàn tán về việc Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đã trốn đi ra khỏi kinh-thành Mithilā để lánh nạn.
Nghe tin Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita đã trốn đi ra khỏi kinh-thành Mithilā để lánh nạn, bốn vị quân-sư nói với dân chúng trong kinh-thành Mithilā rằng:
– Bốn vị quân-sư chúng tôi cũng đều là bậc thiện-trí. Vậy, xin quý vị hãy an tâm.
Biết chắc Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita không còn ở trong tư dinh, nên bốn vị quân-sư không ai nói cho ai biết, mỗi vị tự mình âm thầm lén lút đem những món quà quý giá đến biếu bà Amarā, phu-nhân của Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita, để chiếm lấy tình cảm của bà Amarā, trong lúc Đức-Bồ-tát Mahosadhapaṇḍita không có trong tư dinh.