17- Hạ thứ mười bảy: Đức-Phật ngự đến an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha, cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
18-19- Hạ thứ mười tám và mười chín: Đức-Phật ngự đến an cư nhập hạ tại ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya, cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
20- Hạ thứ hai mươi: Đức-Phật ngự đến an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha, cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Từ hạ đầu tiên cho đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức-Phật chưa có một vị tỳ-khưu nào là thị giả thường trực để lo phục vụ Đức-Phật, khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác: các vị tỳ-khưu như tỳ-khưu Nāgasamāla, tỳ-khưu Nāgita, tỳ-khưu Upavāṇa, tỳ-khưu Sunakkhatta, tỳ-khưu Cunda, tỳ-khưu Sāgata, tỳ-khưu Meghiya, … thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức-Phật, chưa có một vị tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo phục vụ Đức-Phật.
Đôi khi, Đức-Phật ngự đi khất thực một đường, vị tỳ-khưu ôm bát của Đức-Phật lại muốn đi con đường khác nên để bát của Đức-Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình. Hoặc đôi khi có vị tỳ-khưu đang phục vụ Đức-Phật, thì xin đi thực-hành pháp-hành-thiền một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức-Phật mà không có vị tỳ-khưu nào thay thế lo phục vụ Đức-Phật.
Trong mùa hạ này, một hôm, Đức-Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi tụ hội xung quanh. Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Nay Như-Lai đã lớn tuổi rồi, các tỳ-khưu đến lo phục vụ Như-Lai, đôi khi Như-Lai đi khất thực một đường, vị tỳ-khưu ấy mang bát của Như-Lai lại muốn đi con đường khác nên để bát của Như-Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình, …
– Này chư tỳ-khưu! Các con nên chọn một vị tỳ-khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo phục vụ Như-Lai.
Khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Sāriputta đảnh lễ Đức-Phật chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo phục vụ Đức-Thế-Tôn.
Đức-Phật không chấp thuận theo lời xin của Ngài Trưởng-lão Sāriputta. Tiếp đến Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna bạch xin, Đức-Phật cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại-Thanh-văn đều xin, Đức-Phật đều không chấp thuận một vị nào cả.
Ngài Trưởng-lão Ānanda làm thị giả thường trực
Duy chỉ còn Ngài Trưởng-lão Ānanda đang ngồi im lặng, chư Đại-đức tỳ-khưu động viên khuyến khích Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo phục vụ Đức-Phật.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Phật, chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin Đức-Thế-Tôn tám đặc ân, nếu Đức-Thế-Tôn ban cho con đủ tám đặc ân ấy thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo phục vụ Đức-Thế-Tôn.
4 đặc ân khước từ
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con tấm y tốt mà Ngài có.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con vật thực ngon lành mà Ngài có.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con được ở chung với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.
4- Kính xin Đức-Thế-Tôn không cho con đi theo Ngài đến nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda! Con xét thấy bất lợi như thế nào mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con muốn tránh những lời chê trách của người khác cho rằng:
“Con xin làm thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức-Thế-Tôn, được đi theo Đức-Thế-Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời.”
Đức-Phật chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Ngài Trưởng-lão Ānanda.
4 đặc-ân khẩn khoản
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn ngự đến nơi mà con đã nhận lời thỉnh mời.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con dẫn các người từ các phương xa đến hầu Ngài.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được vào hầu Ngài để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
4- Đức-Thế-Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt, kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con nghe.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda! Con xét thấy những điều lợi ích như thế nào mà con xin bốn đặc-ân khẩn khoản như vậy?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
* Đặc-ân thứ nhất: Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo đến hầu thỉnh Đức-Thế-Tôn mà không gặp được Ngài, thì cho phép con nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức-Thế-Tôn không ngự đi đến nơi đó thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Con là tỳ-khưu thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho họ được.”
* Đặc-ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức-Thế-Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn để nghe pháp thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, nghe pháp, nhưng vị tỳ-khưu thị giả của Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy.”
Như vậy, họ sẽ giảm đức-tin nơi Tam-Bảo.
* Đặc-ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức-Thế-Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin phép hỏi lại pháp ấy, Đức-Thế-Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ để con được thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ của con.
* Đặc-ân thứ tư: Có người hỏi con rằng:
“Bài kinh này, pháp này, tích tiền-kiếp của Đức-Phật này, … Đức-Thế-Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”
Nếu con trả lời với họ rằng: “Tôi không biết” thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Ngài Trưởng-lão Ānanda là thị giả của Đức-Thế-Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tích tiền-kiếp của Đức-Phật ấy, … cũng không biết.”
Cho nên, kính xin Đức-Thế-Tôn thuyết lại những pháp ấy cho con để con trả lời cho họ hiểu rõ.
Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda giải thích sự lợi ích của mỗi đặc-ân, nên Đức-Phật chấp thuận đủ tám đặc-ân của Ngài Trưởng-lão Ānanda.
Bắt đầu từ thời gian ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo phục vụ Đức-Thế-Tôn cho đến lúc Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn.
Sở dĩ, Ngài Trưởng-lão Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức-Phật Gotama, là vì tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức-Phật. Lời phát nguyện trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã được Đức-Phật Padumuttara thời quá-khứ thọ ký và Ngài Trưởng-lão cũng đã thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để thành tựu ý nguyện ấy.