Nội Dung Chính
Chương 14: Quả An-lạc Của Thiện-Nghiệp Ảnh Hưởng Đến Những Người Thân Cận
Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali(1) được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Sīvali là một người cận-sự-nam trong một gia đình giàu có trong kinh-thành Haṃsavatī.
Một hôm, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đi đến chùa nghe Đức-Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức-Phật tuyên dương một vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử tên Sudassana có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Người cận-sự-nam, tiền-kiếp của Ngài Trưởng lão Sīvali thấy Ngài Trưởng-lão Sudassana, liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật vị-lai, như Ngài Trưởng-lão Sudassana ấy.
Người cận-sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, rồi kính thỉnh Đức-Phật ngự đến tư gia cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, để làm phước-thiện đại thí suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, người cận-sự-nam cúng-dường bộ y đến Đức-Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mỗi vị 1 bộ.
Sau khi dâng bộ y xong, người cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Phước-thiện bố- thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như Ngài Đại-đức Sudassana của Đức-Thế-Tôn bây giờ.
Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận-sự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị-lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:
– “Này chư tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị-lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama(1) xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, người cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Đại-Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như Sudassana là bậc Thánh Đại- thanh-văn đệ-tử của Như-Lai bây giờ”.
Lắng nghe lời thọ ký xác định của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến trọn đời.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, do đại-thiện- nghiệp ấy chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên-nam cao quý trong cõi trời dục-giới, hoặc khi thì sinh làm người cao quý trong cõi người mà thôi. Khi sinh làm người có đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật nhất là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali, sinh trong ngôi làng không xa kinh-thành Bandhumatī. Khi ấy, dân chúng kinh-thành Bandhumatī sửa soạn chuẩn bị làm phước-thiện đại-thí cúng-dường vật thực lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn ấy còn thiếu món bơ đặc và mật ong.
Khi ấy, người dân làng (tiền-kiếp Ngài Trưởng lão Sīvali) đi đến kinh-thành, có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong.
Nhìn thấy người dân làng có đem theo món bơ và tổ mật ong, người dân kinh-thành muốn mua 2 món ấy với giá cao là 1 kahāpana. Người dân làng suy nghĩ rằng: “Hai món này của ta đâu có đáng giá đến 1 kahāpana, sao người ấy dám mua với giá cao như vậy. Ta nên dò xét để biết sự thật”.
Người dân làng giả làm bộ không chịu bán với giá 1 kahāpana, thì người ấy tăng lên 2 kahāpana, 5 kahāpana,… 10 kahāpana,… 100 kahāpana, cuối cùng lên đến giá 1000 kahāpana.
Khi ấy, người dân làng muốn biết sự thật nên hỏi người ấy rằng:
– Này bạn thân mến! Hai món bơ đặc và tổ mật ong này không đáng giá là bao nhiêu, vì sao bạn trả giá cao như vậy, bạn cần 2 món này để sử dụng vào công việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?
Người dân kinh-thành nói rằng:
– Này bạn thân mến! Dân kinh-thành chúng tôi đồng nhau cùng làm phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong. Vì vậy, với giá nào, chúng tôi cũng mua cho được 2 món ấy.
Người dân làng thưa rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước- thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, còn người khác làm phước-thiện bố-thí cúng dường được hay không?
Người kinh-thành thưa rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước- thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, không chỉ dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhu- matī, mà còn những người khác cũng làm phước-thiện bố-thí cúng dường được vậy.
Người dân làng thưa khẳng định rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay, việc làm phước-thiện bố-thí cúng dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món bơ đặc và mật ong lên Đức- Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Xin bạn làm chứng tôi đem 2 món bơ đặc và mật ong đến cúng dường lên Đức-Phật Vipassī hôm nay.
Người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Sīvali) cảm thấy vô cùng hoan hỷ có được cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī, nên đi tìm thêm những gia vị vắt lấy nước trộn vào mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đi đến ngồi chờ không xa Đức-Phật.
Những người đến cúng-dường các món vật thực đến Đức-Phật xong, đến cơ hội người dân làng đến hầu Đức-Phật bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Đây là món ăn đạm bạc của con kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng có Đức-Thế-Tôn chủ trì. Kính xin Đức- Thế-Tôn có đại-bi tế độ nhận món ăn này của con.
Đức-Phật Vipassī có đại-bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ-đại- thiên-vương kính dâng, rồi Đức-Phật phát nguyện món ăn đạm bạc ấy ra thành nhiều đủ chia đến 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Thấy Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ thực xong, người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ kính bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Hôm nay, dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī đem các món vật thực đến cúng dường lên Đức-Thế-Tôn, và con cũng cúng dường món ăn đặc biệt ấy lên Đức-Thế-Tôn, do năng lực của quả đại-thiện- nghiệp bố-thí cúng dường này, xin cho con kiếp nào con cũng có tài lộc bậc nhất.
Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức-Phật Vipassī truyền dạy rằng:
– Này con! Xin cho lời nguyện cầu của con sẽ được thành-tựu như ý.
Sau đó, Đức-Phật Vipassī thuyết-pháp tế độ dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho đến trọn kiếp.
Trong vòng tử sinh luân-hồi, chỉ có đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới. Kiếp làm người cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Hoàng-Tử Sīvali Kiếp Chót
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận-sự-nam trong thời kỳ Đức-Phật Padumuttara, đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót vào lòng bà Hoàng-hậu Suppavāsā đất nước Koliya.
Từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng bà Hoàng-hậu Suppavāsā, do năng lực đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng, bà Hoàng-hậu Suppavāsā từ sáng đến chiều, nhận những phẩm vật quý giá từ mọi nơi đem đến làm quà quý báu kính dâng lên bà Hoàng-hậu.
Khi ấy, hoàng-tộc muốn biết bà Hoàng-hậu có nhiều phước như thế nào, nên mời bà Hoàng- hậu đến kho lương thực, mời Bà chạm tay vào cửa kho, thì kho đầy lương thực, Bà chạm tay vào cửa kho nào, thì kho ấy đầy của cải. Cho nên, mọi người trong hoàng tộc đều tán dương ca tụng rằng:
“Bà Hoàng-hậu là người có nhiều phước”.
Một hôm, thị-nữ đem nồi cơm đầy dâng đến bà Hoàng-hậu, mời Bà chạm tay vào cái nồi, dù có bao nhiêu người xới cơm ra ăn, nồi cơm vẫn không vơi chút nào cả.
Đó là quả đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng của Mẫu-hậu.
Hoàng-Tử Sīvali Nằm Trong Bụng Mẫu-Hậu
Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng bà Hoàng- hậu Suppavāsa suốt 7 năm, trong 7 ngày sắp sinh ra đời, bà Hoàng-hậu Suppavāsa chịu nỗi đau đớn đến cùng cực vì cái thai nhi trong bụng không sinh ra được cho đến ngày thứ 7(1), tưởng chừng không thể sống nổi, nên bà Hoàng-hậu Suppavāsa tâu với Đức-vua phu quân rằng:
– Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước-thiện bố-thí trước khi chết.
Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch về chuyện thần thiếp đang chịu đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn! Kính thỉnh Đức- Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, để cho Hoàng-hậu Suppavāsā làm phước-thiện bố-thí.
Nghe Đức-Phật truyền dạy thế nào, xin Hoàng-thượng ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung truyền lại cho thần thiếp biết.
Nghe lời tâu của bà Hoàng-hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời của bà Hoàng-hậu Suppavāsā.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu”.
Mong cho Suppavāsā công-chúa dòng Koliya được thân tâm an-lạc, không có bệnh, sinh ra đứa con cũng được an toàn.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung.
Tại cung điện, hoàng-tử sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
Mọi người trong hoàng-tộc vô cùng hoan hỷ thấy hoàng-tử sinh ra đời an toàn, cùng nhau đến chờ chầu Đức-vua tâu tin lành này.
Đức-vua ngự về đến cung điện, thấy mọi người hoàng-tộc hân hoan vui mừng, tâu với Đức-vua tin lành là hoàng-tử sinh ra đời được an toàn.
Khi ấy, Đức-vua suy nghĩ rằng:
“Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn là đúng như thật”.
Đức-vua ngự đến gặp Hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại y theo lời của Đức-Thế-Tôn cho Hoàng-hậu nghe.
Bà Hoàng-hậu Suppavāsā tâu với Đức-vua phu-quân rằng:
– Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.
Đức-vua chấp thuận lời tâu của Hoàng-hậu.
Hoàng-tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng-tộc, nên làm lễ đặt tên hoàng-tử là Sīvali nghĩa là mát mẻ, nên gọi là hoàng-tử Sīvali.
Đức-vua kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư tỳ-khưu-Tăng, để làm phước- thiện bố-thí cúng dường vật thực suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāri- putta hỏi hoàng-tử Sīvali rằng:
– Này hoàng-tử Sīvali! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng Mẫu-hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?
Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.
Thấy hoàng-nhi bạch chuyện với Ngài Đại- Trưởng-lão, bà Hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Hoàng- nhi của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng- lão vậy?
– Này Hoàng-hậu! Hoàng-tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép”.
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói thuật lại như vậy, nên Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng-nhi Sīvali đi xuất gia, Bà Hoàng-hậu Suppavāsā bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ cho phép hoàng-nhi của con được xuất gia. Bạch Ngài.
Hoàng-Tử Sīvali Làm Lễ Cạo Tóc
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng-tử Sīvali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại- Trưởng-lão truyền dạy hoàng-tử Sīvali thực- hành niệm đề-mục “tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco,… taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā,… (tóc, lông, móng, răng, da,… da, răng, móng, lông, tóc,…) theo chiều thuận, theo chiều nghịch.
Hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục thiền- định nhóm tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc:
* Khi những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng một lúc với lễ cạo tóc không trước không sau.
Khi ấy, Hoàng-tử Sīvali, kể từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-hậu Suppavāsā suốt 7 năm và chịu khổ suốt 7 ngày, mới sinh ra đời được 7 ngày, vì vậy, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán lúc 7 năm và 14 ngày.
Kể từ ngày Ngài Đại-đức Sīvali trở thành Sa- di, hằng ngày các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ dâng cúng-dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng càng ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.
* Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, được làm lễ nâng lên bậc tỳ-khưu, những thứ vật dụng lại càng được phát sinh đầy đủ, sung túc đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nhiều hơn nữa.
Hễ mỗi khi có đoàn chư tỳ-khưu đông đảo phải đi tế độ chúng-sinh từ xứ này sang xứ khác trên con đường dài, đi qua vùng hẻo lánh, không có dân cư; nếu có Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng đi trong đoàn, đến giờ khất thực, do năng-lực của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Trưởng-lão Sīvali, khiến cho chư-thiên hóa ra xóm làng, thành thị, hiện ra dân cư đông đảo cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Khi đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đi khỏi vùng ấy, thì xóm làng, thành thị kia biến mất.
Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp bàn về Ngài Trưởng-lão Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt không chỉ được phát sinh đến cho Ngài Trưởng- lão Sīvali, mà còn đến tất cả chư tỳ-khưu, dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Thật là điều phi thường, không những các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ là thí chủ, mà còn có chư-thiên, Long-vương cũng đem lễ vật, các thứ vật dụng dâng cúng dường đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng tất cả chư tỳ-khưu bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Trong khi chư tỳ-khưu đang bàn về lợi lộc đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali, thì Đức- Thế-Tôn ngự đến, Ngài truyền dạy rằng:
“Các con đang bàn về chuyện gì vậy?”.
Chư tỳ-khưu bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn về quả phước-thiện đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali. Bạch Ngài.
Nhân dịp ấy, Đức-Phật chủ trì buổi hội chư tỳ- khưu-Tăng, Đức-Phật tuyên dương Ngài Trưởng- lão Sīvali trước các hàng thanh-văn đệ- tử rằng:
“Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”.
– Này chư tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại- thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Ngài Trưởng-lão Sīvali là bậc Thánh Đại- thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là kết quả thành-tựu như ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã từng phát nguyện, đã được Đức-Phật Padumuttara quá- khứ thọ ký đúng như sự thật như vậy.
Quả Ác-Nghiệp Của Hoàng-Tử Sīvali
Dựa theo Khadiyavaniyarevatattheravatthu(1) có đoạn đề cập đến ác-nghiệp mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo trong kiếp quá-khứ được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là người dân làng cùng với dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, đã làm phước- thiện bố-thí cúng-dường món ăn bơ đặc với mật ong đặc biệt ấy đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật Vipassī chủ trì.
Khi ấy, Đức-Phật Vipassī nhận món ăn đặc biệt ấy, rồi phát nguyện, đem chia món ăn ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng sau khi chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên- nam trên các cõi trời dục-giới.
Sau khi vị thiên-nam chết tại cõi trời dục-giới ấy, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng Hoàng-hậu của Đức-vua trị vì tại kinh-thành Bārāṇasī.
Hoàng-hậu sinh hạ ra hoàng-tử khôi ngô tuấn tú. Khi hoàng-tử trưởng thành có tài thao lược.
Cho nên, sau khi Đức-Phụ-vương băng hà, triều đình làm hoả táng xong, các quan trong triều làm lễ suy tôn hoàng-tử lên nối ngôi vua.
Đức-Vua Đem Quân Vây Hãm 4 Cửa Kinh-Thành
Đức-vua muốn đánh chiếm kinh-thành nước khác, được Mẫu-hậu đồng ý cho phép, nên Đức- vua dẫn đầu các đoàn quân lính kéo đến bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành ấy. Đức-vua truyền cho sứ giả gửi tối-hậu-thư đến Đức-vua trong kinh-thành rằng:
“Hãy trao lại ngôi vua cho trẫm hoặc đánh nhau”.
Đức-vua trong kinh-thành trả lời rằng:
“Trẫm không trao ngôi vua, cũng không đánh nhau”.
Những người dân trong kinh-thành đi ra vào lấy củi, nước, các thứ cần thiết bằng các cửa nhỏ, làm được mọi công việc hằng ngày.
Đức-vua cùng với các đoàn quân lính bên ngoài bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng.
Hoàng-thái-hậu của Đức-vua truyền hỏi rằng:
– Này các khanh! Hoàng-tử của ta đang làm gì vậy?
Các quan tâu rằng:
– Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua đã truyền lệnh các đoàn quân lính bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng rồi. Tâu Lệnh bà.
Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu quở trách rằng: “Hoàng-tử của ta còn khờ quá!”.
Hoàng-thái-hậu truyền lệnh rằng:
– Này các khanh! Các khanh hãy tâu với Hoàng-tử của ta rằng:
“Hãy đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa”.
Tuân theo lệnh của Mẫu-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.
Dân chúng trong kinh-thành không đi ra bên ngoài kinh-thành được, cảm thấy bực dọc, thiếu thốn mọi thứ, nên đến ngày thứ 7, dân chúng giết chết Đức-vua trong kinh-thành, rồi dâng ngôi vua cho Đức-vua bên ngoài.
Đức-vua (tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali) sau khi băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện- nghiệp (mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo) cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót trong lòng Hoàng-hậu Suppavāsā (tiền-kiếp là mẫu-hậu của Đức-vua), thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng và chịu thêm quả khổ của ác-nghiệp suốt 7 ngày, bị đau đớn đến cùng cực cả Mẫu-hậu lẫn thai-nhi, bởi vì thai-nhi nằm ngang không sinh ra được.
Đến ngày thứ 7, Đức-Phật Gotama truyền dạy rằng:
“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu”.
Sau khi Đức-Phật truyền dạy xong, tại cung điện, hoàng-tử Sīvali sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng, đó là quả của ác- nghiệp bao vây hãm 4 cửa kinh-thành của đất nước khác.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm ngang trong vòng 7 ngày không sinh ra được, đó là quả của ác-nghiệp tuân theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ của kinh-thành, không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, nên mẫu-hậu và thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) cùng nhau chịu quả thống khổ của ác-nghiệp ấy suốt 7 ngày đêm.
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp Của Ngài Trưởng-Lão Sīvali
* Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã tích-luỹ đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp- hạnh ba-la-mật hơn 100 ngàn đại-kiếp trái đất và lời phát nguyện được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký, nên đại-thiện-nghiệp 10 pháp- hạnh ba-la-mật ấy cho quả kiếp hiện-tại hoàng- tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara.
* Tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là Đức-vua được mẫu-hậu đồng ý cho phép, nên dẫn các đoàn quân đến vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành khác suốt 7 năm, 7 tháng, rồi nghe theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, suốt 7 ngày. Đức-vua chiếm được kinh-thành.
– Hậu kiếp của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại là Hoàng-tử Sīvali.
– Hậu-kiếp của Mẫu-hậu, nay kiếp hiện-tại là Hoàng-hậu Suppavāsā.
* Ác-nghiệp của hoàng-tử Sīvali đã vây hãm Kinh-thành nước khác suốt 7 năm 7 tháng và thêm 7 ngày trong kiếp quá-khứ, nên kiếp hiện- tại hoàng-tử Sīvali phải nằm trong bụng Mẫu- hậu suốt 7 năm 7 tháng thêm 7 ngày mới sinh ra đời.
* Đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của hoàng-tử Sīvali, nên kiếp hiện-tại hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A- ra-hán.
Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp theo định luật nhân quả, nhân nào thì có quả ấy.
Như câu kệ dạy về nghiệp và quả của nghiệp
“Yādisaṃ vapate bījaṃ,
tādisaṃ harate phalaṃ.
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ,
Pāpakārī ca pāpakaṃ”(1).
Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặp quả như thế ấy.
Người hành thiện thì được quả thiện,
Người hành ác thì chịu quả ác.
Định mệnh hoặc số mệnh có thật hay không?
Sự thật, tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong ba giới là dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới gồm có 31 cõi-giới, bốn loài là thai-sinh, noãn- sinh, thấp-sinh, hoá-sinh là hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh mà thôi, chắc chắn không tùy thuộc vào một ai cả.
Giả thử, nếu mỗi chúng-sinh có định mệnh hoặc có số mệnh thật sự, thì ai có khả năng an bài được định mệnh hoặc số mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong ba giới gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh ấy được???
Tóm lại, ngũ-giới (pañcasīla) là thường-giới (niccasīla) của tất cả mọi người trong đời, không ngoại trừ một ai cả, hễ là người, dù có thọ trì ngũ-giới hoặc không thọ trì ngũ-giới vẫn phải giữ gìn ngũ-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì ngũ-giới là thường-giới của tất cả mọi người trong đời.
Thật ra, việc giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn là việc rất dễ dàng, bởi vì trong khả năng bình thường của tất cả mọi người, đó là sự-thật hiển nhiên trong đời, chỉ cần người ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác-ý trong đại-thiện-tâm, biết tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện- pháp thì người ấy giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn rồi!
Như vậy, người ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp giữ giới là người thiện-trí trong đời, có được 5 quả báu, quả tốt trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Còn việc phạm mỗi điều-giới nào trong ngũ- giới, người ấy phải là người không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, không tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác-ý trong ác-tâm, còn phải cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu để phạm điều-giới ấy hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, mới gọi là phạm điều-giới ấy, tạo ác-nghiệp phạm giới, đó thật là việc làm vô cùng khó khăn, mà không phải là ại cũng có thể phạm giới được. Đó cũng là sự thật hiển nhiên trong đời.
Người phạm điều-giới, người không có giới là con người ác trong đời, có 5 quả xấu, quả khổ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.