Nội Dung Chính
Giới bổn pātimokkha của tỳ khưu
Aniyat’uddeso – Phần kể ra về bất định
Ime kho pan’āyasmanto dve aniyatā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya raho paṭicchanne āsane alaṃkammaniye nissajjaṃ kappeyya, tamenaṃ saddheyyavacasā upasikā disvā tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena vadeyya pārājikena vā saṅghādisesena vā pācittiyena vā, nisajjam bhikkhu paṭijānaṃ āno tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena kāretabbo pārājikena vā saṅghādisesena vā pācitteyena vā; yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya, tena so bhikkhu kāretabbo. Ayaṃ dhammo aniyato.
Bạch các ngài, 2 pháp bất định này tôi xin kể ra là:
Vị tỳ khưu nào, một mình ngồi nơi thanh vắng kín đáo với một người phụ nữ, có thể hành dâm được. Có người tín nữ đáng tin1 thấy và đem đi tố cáo một trong ba tội, là tội bất cộng trụ, tội tăng tàng, tội ưng đối trị. Nếu vị tỳ khưu ấy thú nhận có ngồi thiệt, thì luật sư phải xử một tội trong ba tội là: bất cộng trụ, tăng tàng, ưng đối trị. Hơn nữa, nếu người tín nữ ấy tố cáo quả quyết tội nào thì luật sư phải xử tội ấy. Pháp này gọi là bất định (vì không thể nhất định trước là tội nào trong ba tội).
Na heva kho pana paṭicchannaṃ āsanaṃ hoti nālamkammaniyaṃ, alañca kho hoti mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāsitum. Yo pana bhikkhu tathārūpe āsane mātugāmena saddhiṃ eko ekāya raho nisajjam kappeyya, tamenaṃ saddheyya vacasā upāsikā disvā dvinnaṃ dhammānaṃ aññatarena vadeyya saṅghādisesena vā pācittiyena vā, nisajjaṃ bhikkhu pītijānaṃ āno dvinnaṃ dhammānaṃ aññatarena kāretabbo saṅghādisesena vā pācittiyena vā, yena vā sā saddheyya vacasā upāsikā vadeyya, tena so bhikkhu kāretabbo. Ayampi dhammo aniyato.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto dve aniyatā dhammā. Tatth’āyasmante pucchāmi kacittha parisuddhā? Dutiyampi pucchāmi kacittha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacittha parisuddhā? Parisuddhetth’āyasmanto tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi. (Aniyat’uddeso niṭṭhito)
Nếu thiệt chỗ trống trải, là chỗ không có che dừng, không thể hành dâm được; nhưng mà chỗ ấy có thể nói những lời tục tĩu để trêu ghẹo phụ nữ được. Vị tỳ khưu nào, một mình ngồi nơi chỗ như thế ấy với một người phụ nữ, có người tín nữ đáng tin, thấy và đem đi tố cáo một trong hai tội là tăng tàng, ưng đối trị. Nếu vị tỳ khưu ấy thú nhận có ngồi thiệt, thì luật sư phải xử một tội nào trong hai tội là tăng tàng và ưng đối trị. Nhưng mà nếu người tín nữ ấy tố cáo tội nào thì luật sư phải xử ngay tội ấy. Pháp này cũng gọi là bất định vậy.
Bạch các ngài, hai pháp bất định tôi đã kể ra rồi. Tôi xin hỏi các ngài, hai pháp bất định này các ngài có được trong sạch không? Tôi xin hỏi lần thứ nhì, các ngài có được trong sạch không? Tôi xin hỏi lần thứ ba, các ngài có được trong sạch không? Các ngài trong sạch nên mới làm thinh. Tôi xin chứng nhận các ngài, do sự nơi làm thinh ấy.
(Dứt phần kể ra về bất định)
Nissaggiye vitthār’uddeso – Phần kể ra về ưng xả đối trị
Ime kho pan’āysamanto tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā uddesaṃ āggacchanti.
Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine, dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāratabbaṃ taṃ atikkāmayato, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Bạch các ngài, 30 pháp ưng xả đối trị1 tôi xin kể ra như là:
Khi y đã làm xong, hiệu lực của lễ dâng y đã hết hạn. Vị tỳ khưu nếu có giữ y mới, được giữ lâu lắm là 10 ngày, nếu cất giữ quá hạn kỳ, thì y ấy phải xả bỏ đi, vị tỳ khưu ấy phạm tội ưng đối trị.
Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine, ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyya, aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi đã làm y xong, hiệu lực của lễ dâng y đã hết hạn nếu vị tỳ khưu còn xa lìa tam y, dầu trong một đêm, y ấy phải xả bỏ, vị tỳ khưu ấy phạm tội ưng đối trị, trừ ra vị tỳ khưu nào được lịnh chư tăng cho phép.
Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine, bhikkhuno pan’eva akālacīvaraṃ uppajjeyya, ākankhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ, piṭiggahetvā khipp’eva kāretabbaṃ, no cassa pāripūri, māsaparamantenā bhikkhunā taṃ cīvaraṃ nikkhipitabbaṃ. Ūnassa pāripūriyā satiyā paccāsayā, tato ce uttariṃ nikkhipeyya, sātiyāpi paccāsāya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi đã làm y xong, hiệu lực của lễ dâng y đã hết hạn nếu có người dâng y ngoài hạn kỳ đến vị tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu cần dùng thì lãnh, khi lãnh xong phải đo cắt cho lẹ, nếu y ấy còn thiếu may không đủ, vị tỳ khưu ấy được phép cất giữ lâu lắm là một tháng. Nếu ý muốn kiếm vải thêm cho đủ nhưng để y ấy quá hạn kỳ một tháng dầu cho có ý muốn thêm nữa, y ấy cũng phải xả bỏ, vị tỳ khưu ấy phạm ưng đối trị.
Yo pana bhikkhu aññatikāya bhikkhuniyā purāṇa cīvaraṃ dhovāpeyya vā rajāpeyya vā ākoṭāpeyya vā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào sai tỳ khưu ni không phải là bà con, giặt, nhuộm, xả y cũ ấy phải xả bỏ, vị tỳ khưu ấy phạm ưng đối trị.
Yopanabhikkhuaññatikāya bhikkhuniyāhatthatocīvaraṃ paṭigganheyya, aññatra pārivaṭṭakā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào, thọ lãnh y của tỳ khưu ni không phải là thân quyến, y ấy phải xả bỏ, vị tỳ khưu ấy phạm tội ưng đối trị, trừ ra đổi y cho nhau.
Yo pana bhikkhu aññatakaṃ gahapatiṃ vā gahapataniṃ vā cīvaraṃ viññāpeyya, aññatra samayā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, tatth’ayaṃ samayo? Acchinnacīvaro vā hoti bhikkhu naṭṭha cīvaro vā. Ayaṃ attha samayo.
Vị tỳ khưu nào, xin y của nam gia chủ hoặc hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến thì phạm ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ, trừ ra có trường hợp trong điều học này là: vị tỳ khưu bị ăn cướp đoạt y, hoặc y bị hư hại, đây là trường hợp trong điều học này.
Tañce aññātako gahapati vā gahātānī vā bahūhi cīvarehi abhihaṭṭhuṃ pavāreyya santar’uttara paramantena bhikkhunā tato cīvaraṃ sāditabbaṃ, tato ce uttariṃ sadiyeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Có nam gia chủ, nữ gia chủ, không phải là thân quyến, đem y đến thật nhiều, yêu cầu tỳ khưu lãnh, nếu vị tỳ khưu ấy có vui thích thì chỉ lãnh nhiều lắm là hai lá y: là y nội và y vai trái trong số y của người đem đến đó. Nếu vui thích lãnh nhiều hơn số ấy thì phạm tội ưng đối trị, y dư ấy phải xả bỏ.
Bhikkhuṃ pan’eva uddissa aññātakassa gahapatissa vā gahapatāniyā vā cīvaracetāpanaṃ upakkataṃ hoti: Iminā cīvaracetāpanenacīvaraṃcetāpetvā itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena acchādessamīti. Tatra ce so bhikkhu pubbe āppavārito upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya: Sādhu vata maṃ āyasmā iminā cīvaracetāpanena evarūpaṃ vā evarūpaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādehīti, kalyāṇā kamyataṃ upādāya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Nếu có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ, không phải là thân quyến, họ để riêng một số tiền để mua y dâng cho vị tỳ khưu và nói rằng: “Với số tiền này tôi sẽ mua y dâng cho vị tỳ khưu tên đó mặc”. Nếu vị tỳ khưu ấy không phải là người mà họ đã “yêu cầu trước” đến nơi gia chủ ấy nói nhất định như thế này: “Tốt thay, các người nên mua y thứ này, thứ này với số tiền ấy, đặng cho tôi mặc” vì muốn được y tốt theo ý mình, thì phạm tội ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Bhikkhuṃ pan’eva uddissa ubhinnaṃ aññātakānaṃ gahapatīnaṃ vā gahapatānīnaṃ vā paccekacīvara, cetāpanā upakkhatā honti: Imehi mayaṃ pacceka cīvaracetāpanehi paccekacīvarāni cetāpetvā itthannāmaṃ bhikkhuṃ civarehi acchādessāmāti. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya: Sādhu vata maṃ ayasmanto imehi paccekacīvarecetāpanehi evarupaṃ vā evarupaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādetha ubho va santā ekenāti, kalyāṇakamyataṃ upādāya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Nếu có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ hai người, không phải là thân quyến của vị tỳ khưu, họ hùn lại một số tiền để mua y dâng cho một vị tỳ khưu và nói rằng: “Chúng ta sẽ mua y riêng ra với số tiền hùn riêng của mỗi người, rồi đem dâng cho vị tỳ khưu tên này vận và mặc”. Nếu vị tỳ khưu ấy không phải là người mà họ “đã yêu cầu trước” đến nhà họ rồi nhất định y nói như thế này: “Tốt thay, các ngươi nên hùn lại, rồi mua y như thế này, thế này với số tiền đó đặng dâng cho tội mặc và vận”. Vì muốn được y tốt theo như ý mình, thì phạm tội ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Bhikkhuṃ pan’eva uddissa rājā vā rajabhoggo vā brāhmaṇo vā gahapatiko vā dūtena cīvara cetāpanaṃ pahineyya. Iminā cīvaracetāpanenacīvaraṃcetāpetvā itthannāmaṃ bhikkhuṃ civarena acchādehīti. So ce duto taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya: Idaṃ kho bhante āyasmantam uddissa cīvaracetāpanaṃ ābhātaṃ, paṭigganhātu āyasmā cīvaracetāpananti. Tena bhikkhunā so dūto evamassa vacanīyo: Na kho mayaṃ āvuso cīvaracetāpanaṃ paṭiggaṇhama, cīvarañca kho mayaṃ paṭiggaṇhāma kālena kappiyanti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ evaṃ vadeyya:
Natthi pan’āyāsmanto koci veyyāvaccakaroti. Cīvar’atthiena bhikkhave bhikkhunā veyyāvaccakaro niddisitabho ārāmiko vā upāsako vā: Eso kho āvuso bhikkhūnaṃ veyyāvaccakaroti.
So ce dūto taṃ veyyāvaccakaraṃ saññāpetvā, taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā, evaṃ vadeyya: Yam kho bhante āyasmā veyyāvaccakaraṃ niddisi saññatto so māyā, upasaṅkamatu āyasmā, kālena cīvarena taṃ acchādessamīti. Cīvar’atthikena bhikkave bhikkunā veyyāvaccakaro upasaṅkamitvā dvittikkattuṃ codetabbo sāretabbo attho me āvuso cīvarenāti. Dvittikkhattuṃ codayamāno sārayamāno taṃ cīvaraṃ abhinipphādeyya, iccetaṃ kusalaṃ; no ce abhinipphādeyya, catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhatt’ uparamaṃ tuṇhībhūtena uddissathā-tabbaṃ, catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhatt’ uparamaṃ tuṇhībhūto uddissa tiṭṭhamāno taṃ cīvaraṃ abhinipphādeyya, iccetaṃ kusalaṃ; no ce abhinipphādeyya, iccetaṃ kudalam; no ce abhinipphādeyya, tato ce uttariṃ vāyamamāno taṃ cīvaraṃ abhinipphādeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, no ce abhinipphādeyya, yatassa cīvara-cetāpanaṃ ābhataṃ, tatthasānaṃ vā gantabbaṃ duto vā pāhetabbo yaṃ kho tumhe āyasmanto bhikkhuṃ uddissa cīvaracetāpanaṃ pahinittha, na taṃ tassa bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhoṭi, yuñjan’āyasmanto sakaṃ, mā vo sakaṃ vinassāti. Ayaṃ tattha sāmīci.(Cīvaravaggo paṭhamo)
Ðức vua, quan lại, bà-la-môn, hoặc gia chủ sai người phụng sự cho mình, đem một số tiền để mua y dâng đến một vị tỳ khưu và nói rằng: “Người đem số tiền này đi mua y rồi dâng cho vị tỳ khưu tên này, vận và mặc”. Nếu người phụng sự ấy đến kiếm vị tỳ khưu ấy và nói rằng: “Bạch ngài, số tiền mua y này tôi đem đến xin dâng cho ngài, xin ngài thọ lãnh”. Vị tỳ khưu ấy nên nói với người ấy rằng: “Này người ơi! Tôi không thể lãnh số tiền mua y này được, tôi chỉ có lãnh y được trong khi cần dùng thôi”.
Người phụ sự hỏi vị tỳ khưu như vầy: “Ngài có người nào hầu hạ không?” Này các vị tỳ khưu, vị tỳ khưu cần dùng y thì nên chỉ người giúp việc trong chùa hoặc thiện tín và nói rằng: “Này người, đây là người phụng sự cho tất cả chư tăng”. Người tay sai ấy bèn nói chỉ cách cho người phụng sự ấy hiểu biết công việc rồi, đến bạch với vị tỳ khưu ấy rằng: “Bạch ngài, ngài chỉ người phụng sự nào, tôi đã cắt nghĩa cho người ấy hiểu biết rồi, lúc nào ngài cần dùng y, xin ngài đến kiếm họ thì họ sẽ dâng y cho ngài mặc”.
Này các vị tỳ khưu, khi vị tỳ khưu cần dùng y nên nhắc nhở người phụng sự ấy hai hoặc ba lần và nói rằng: “Này người, tôi cần dùng y”. Khi vị tỳ khưu ấy nhắc nhở đôi ba lần mà được lãnh y thì sự được ấy rất hợp pháp vậy, nếu không được y, thì nên đến trước mặt người ấy đứng làm thinh, bốn lần, năm lần hoặc sáu lần là nhiều; khi đứng làm thinh trước mặt người ấy, bốn lần, năm lần hoặc sáu lần mà lãnh được y ấy thì sự được y ấy rất tốt vậy; nếu không lãnh y được, mà vị tỳ khưu ấy cũng cứ cố gắng đòi hơn cách đã nhất định ấy cho đến khi được y, thì tỳ khưu ấy phạm ưng đối trị, y được ấy phải xả bỏ.
Nếu như đòi (đúng luật định) mà không được. Giá tiền ấy sắm y cho vị tỳ khưu ấy, từ người nào sai đem tới, vị tỳ khưu ấy tự mình đi hoặc sai người nào đi đến chỗ người chủ ấy mà nói rằng: “Này quí ông, các ông cho đem số tiền để mua y dâng cho vị nào, số tiền ấy không có được lợi ích chút đỉnh chi đến vị tỳ khưu ấy. Vậy các ông nên đòi lấy của ấy lại, đừng để của ấy mất đi vô ích”. Ðây là cách nên thực hành trong điều học này. (Dứt phần thứ nhất về loại y)
Yo pana bhikkhu kosiyamissakaṃ santhataṃ kārāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào làm ngọa cụ có trộn tơ tằm thì phạm tội ưng đối trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu suddha kālakānaṃ eḷakalomānaṃ santhataṃ kārāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào, cho người làm ngọa cụ toàn bằng lông trừu đen, thì phạm tội ưng đối trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ.
Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kārayamānena dve bhāgā suddhakāla-kānaṃ eḷakalomānaṃ ādātabbā tatiyaṃ odātānaṃ, catutthaṃ gocariyānaṃ. Anādā ce bhikkhu dve bhāge suddhakāḷakānaṃ eḷakalomānaṃ tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānaṃ navaṃ santhātaṃ kārāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi vị tỳ khưu cho người làm ngọa cụ mới, phải lấy lông trừu đen hai phần, lông trừu trắng một phần thứ ba, và lông trừu đỏ một phần thứ tư, nếu vị tỳ khưu không lấy lông đen hai phần, trắng một phần, đỏ một phần mà cho người làm ngọa cụ mới thì phạm ưng đối trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ.
Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kārāpetvā chabbassāni dhāretabbaṃ. Orena ce channaṃ vassānaṃ taṃ santhantaṃ vissajjetv vā avissajjetvā vā aññaṃ navaṃ santhataṃ kārāpeyya, aññatra bhikkhu sammatiyā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi vị tỳ khưu cho người làm ngọa cụ mới, nên dùng xài đến sáu năm. Nếu chưa đúng sáu năm mà vị tỳ khưu ấy bỏ đi, hoặc không bỏ chẳng hạn mà cho người làm ngọa cụ mới khác nữa thì phạm ưng đối trị, ngọa cụ ấy phải xả bỏ. Trừ ra tỳ khưu nào được lệnh chư tăng cho phép.
Nisīdanasanthataṃ pana bhikkhunā kārayamānena purāna santhatassa samantā sugatavidatthi ādātabbā dubbaṇṇakaranāya. Ānādā ce bhikkhu purāna santhatassa santhataṃ kārāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi vị tỳ khưu cho người làm tọa cụ để trải ngồi, phải lấy tọa cụ cũ, một gang vuông vức của Ðức Phật, đặng trộn chung lại làm cho tọa cụ mới ấy xẩm màu bớt đi. Nếu cho làm tọa cụ mới mà không lấy tọa cụ cũ cắt lấy một gang vuông vức của Ðức Phật, để trộn lộn với tọa cụ mới, thì phạm ưng đối trị, tọa cụ ấy phải xả bỏ.
Bhikkhunopan’evaaddhāna maggappaṭipannassa eḷakalomāni uppajjeyyuṃ, akankhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbāni paṭiggahetvā tiyojanaparamaṃ sahatthā hāretabbani asante hārake, tato ce uttariṃ hareyya asantepi hārake, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Nếu vị tỳ khưu đi đường xa mà có người dâng lông trừu, nếu cần dùng thì được phép lãnh, khi lãnh rồi nếu không có ai mang hộ cho, thì chỉ được phép tự mình mang theo xa lắm là ba do tuần, nếu mang quá ba do tuần mà không có người mang thế cho thì phạm ưng đối trị, lông trừu ấy phải xả bỏ.
Yo pāna bhikkhu aññatikāya bhikkhuniyā eḷakalomāni dhovāpeyya vā rajjāpeyya vā vijjṭāpeyya vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào, sai tỳ khưu ni, không phải là thân quyến, rửa, nhuộm, chải lông trừu, thì phạm ưng đối trị, lông trừu ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu jātarūpa rajataṃ uggaṇheyya vā uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādiyeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ
Vị tỳ khưu nào tự mình thọ lãnh hoặc biểu người khác thọ lãnh, hoặc vui thích vàng bạc của người dâng cho, phạm ưng đối trị, vàng bạc ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu nānappakārākaṃ rūpiya saṃvohāram samapajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào, mau bán vật này vật kia với tiền bạc thì phạm ưng đối trị, vật mua bán ấy phải xả bỏ. (Trừ ra có một người thế đứng trung gian mua bán cho)
Yo pana bhikkhu nānappakārākaṃ kaya vikkayaṃ samāpajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. (Kosiyavaggo dutiyo)
Vị tỳ khưu nào, mua bán đồ vật với đồ vật, thứ này thứ kia, phạm tội ưng đối trị, vật mua bán ấy phải xả bỏ. (Dứt phần thứ nhì về loại tơ tằm)
Dasāhaparamaṃ atirekapatto dhāretabbo, taṃ atikkāmayato, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu có cất giữ bình bát mới được, lâu lắm là 10 ngày, nếu cất giữ quá luật định thì phạm ưng đối trị. Bình bát ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu ūnapañca bandhanena pattena aññaṃ navaṃ pattaṃ cetāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Tena bhikkhunā so patto bhikkhuparisāya nissajjitabbo. So ca tassā bhikkhu parisāya pattapariyanto, so ca tassa bhikkhuno padātabbo: ayante bhikkhu patto yāva bhedanāya dhāretabboti. Ayaṃ tattha sāmicī.
Vị tỳ khưu nào bình bát nứt bể chưa đủ năm chỗ, mà cho người đi kiếm bát mới khác phạm ưng đối trị, bát ấy phải xả bỏ, theo thứ tự của tăng chúng, bình bát nào cuối cùng của vị tăng, thì vị tỳ khưu mà tăng đã sai phải đưa bình bát ấy, đưa cho vị tỳ khưu ấy và nói rằng: “Ðây là bình bát của đạo hữu, đạo hữu phải dùng xài cho đến khi bể. Ðó là cách thực hành tốt đẹp trong cách xả bỏ bát vậy.
Yāni kho pana tāni gilānānam bhikkhunaṃ patisāyanīyāni bhesajjāni, seyyathīdaṃ: sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ, tāni paṭiggahetvā sattāha paramaṃ sannidhi kārakaṃ paribhñnjitabhāni, taṃ atikkāmayato, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Thuốc chữa bịnh nào, mà vị tỳ khưu có bịnh phải cần dùng như là: bơ đặc, bơ tươi, dầu, mật ong, đường. Vị tỳ khưu thọ lãnh các vật để chữa bịnh này, để thọ dụng (uống) có lâu lắm là trong bảy ngày. Nếu để quá bảy ngày thì phạm tội ưng đối trị, các vật chữa bịnh ấy phải xả bỏ.
Māso seso gimhānanti bhikkhunā vassika sāṭikacīvaraṃ pariyesitabbaṃ. Aḍḍhamāso seso gimhānanti katvā nivāsetabbaṃ. Orena ce māso seso gimhānantivassikasātikacīvaraṃ pariyeseyya orenaḍḍhamāso seso gimhāṇanti katvā nivāseyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Còn một tháng cuối cùng của mùa nắng. Vị tỳ khưu nên kiếm y để tắm mưa, khi còn nửa tháng nữa phải làm cho xong và được phép dùng xài; nếu chưa đến một tháng cuối mùa nắng mà tỳ khưu đi kiếm y để tắm mưa và chưa đến nửa tháng cuối mùa nắng mà đã làm xong và dùng xài thì phạm ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu bhikkhussa sāmaṃ cīvaraṃ datvā kupito anattamano acchindeyya vā acchindāpeyya vā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào đã cho y đến vị tỳ khưu khác rồi, khi sân hận, bất bình, đòi giựt lại, hoặc biểu người khác đòi giựt lại, thì phạm tội ưng đối trị, y lấy lại ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu bhikkhussa sāmaṃ suttaṃ viññāpetvā tantavāyehi civaraṃ vāyāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Vị tỳ khưu nào, tự mình xin chỉ vải đem cho thợ dệt, dệt y cho mình phạm ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Bhikkhuṃ pan’eva uddissa aññātako gahapati vā gahapatānī vā tantavāyehi cīvaraṃ vārāpeyya. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito tantavāye upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya: idaṃ kho āvuso cīvaraṃ maṃ uddissa vīyati āyatañca karotha, vitthatañca, appitañca, suvītañca, suppavāyitañca, suvilekhitañca, suvitacchitañca karotha; appeva nāma mayampi āyasmantānaṃ kiñci mattaṃ anuppadajjeyyāmāti. Evañca so bhikkhu vatvā kiñci mattaṃ anuppadajjeyya antamaso piṇḍapātamattampi, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ, không phải là thân quyến của vị tỳ khưu, cho bọn thợ dệt, dệt y để dâng đến một vị tỳ khưu. Vị tỳ khưu ấy thí chủ cũng không có yêu cầu trước, tự nhiên đến kiếm bọn thợ dệt mà bảo rằng: “Này các người y này họ cho dệt để dâng cho tôi, vậy các ngươi nên dệt cho dày, cho rộng, cho khít, cho đều, cho dè dặt, cho thẳng, cho láng, rồi tôi sẽ thưởng thêm chút ít cho các ngươi”. Khi vị tỳ khưu ấy nói như thế rồi thưởng thêm cho họ chút ít chi, dầu cho chỉ thưởng thêm bằng vật thực đi bát được cũng phạm tội ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Das’āhānāgataṃ kattika temāsipuṇṇamaṃ, bhikkhuno pan’eva accekacīvaraṃ uppajjeyya, accekaṃ maññāmānena bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ paṭiggahetvā yācācīvāra kālasamayaṃ nikkhipitabbaṃ, tato ce uttariṃ nikkhipeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Còn 10 ngày nữa sẽ đến ngày rằm tháng Kattikā (tháng 9 âm lịch) là tháng thứ ba của mùa mưa, nếu có y “đặc biệt” phát sanh lên đến các vị tỳ khưu, vị tỳ khưu cho rằng đây là “y đặc biệt” thì nên lãnh lấy. Khi lãnh rồi nên cất giữ cho đến hạn kỳ2. Nếu cất giữ quá hạn kỳ thì hạm ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Upavassaṃ kho pana kattikapuṇṇamaṃ. Yāni kho pana tāni āraññākāni senāsanāni sāsaṅkasammatāni sappaṭibhayāni, tathārūpesu bhikkhu senāsanesu viharanto, ākaṅkhamāno tiṇṇaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvaraṃ antaraghare nikkhipeyya. Siyā ca tassa bhikkhuno kocideva paccayo tena cīvarena vippavāsāya chārattaparamantena bhikkhunā tena cīvarena vippavasitabbaṃ. Tato ce uttariṃ vippavaseyya, aññatra bhikkhu sammatiyā, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Khi vị tỳ khưu đã nhập hạ xong, đúng ngày rằm tháng Kattikā (tháng chín) ra hạ. Các tịnh thất nơi rừng mà người ta cho rằng đáng nghi ngờ hoặc có sự đáng kinh sợ. Nếu vị tỳ khưu ở nơi chỗ bất lợi như thế ấy, nếu muốn gởi y vào xóm, một nơi trong ba cái nào cũng được. Nếu có chuyện cần chi muốn đi khỏi nơi ấy thì chỉ được phép đi xa y ấy trong sáu đêm là lâu lắm. Nếu đi quá sự nhất định ấy thì phạm tội ưng đối trị, y ấy phải xả bỏ.
Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lābhaṃ pariṇataṃ attano pariṇāmeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. (Pattavaggo tatiyo)
Vị tỳ khưu nào, khi biết rõ vật cúng dường mà người nhất định để dâng đến chư tăng, nhưng nói (đoạt) để cho người dâng cho mình thì phạm ưng đối trị, vật được ấy phải xả bỏ. (Dứt phần thứ ba về loại bình bát)
Uddiṭṭhā kho āyasmanto tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā. Tattha’āyasmante pucchāmi, kaccittha parisuddhā?
Dutiyampi pucchāmi, kaccittha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi, kaccittha parisuddhā? Parisuddheth’āyasmanto, tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi. (Nissaggiyā pācittiyā niṭṭhitā)
Bạch các ngài, 30 pháp ưng đối trị tôi đã kể ra rồi. Tôi xin hỏi các ngài, trong 30 pháp ấy các ngài có được trong sạch không? Tôi xin hỏi lần thứ nhì, các ngài có được trong sạch không? Tôi xin hỏi lần thứ ba, các ngài có được trong sạch không?
Các ngài được trong sạch nên mới làm thinh. Tôi xin chứng nhận các ngài đã được trong sạch, do sự làm thinh ấy. (Dứt phần kể ra về ưng xả đối trị)