Nội Dung Chính
* Tích Của Người Phạm Điều-Giới Tà-Dâm
Người phạm điều-giới tà-dâm là người có quan hệ tình dục bất chính với vợ hoặc chồng hoặc con của người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.
Quả Khổ Của Ác-Nghiệp Tà-Dâm
Trích trong bộ Therīgāthā (Đại-đức Tỳ-khưu-ni kệ), Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsītherī thuật lại tiền-kiếp của Ngài rằng:
Tỳ-khưu-ni Isidāsī và tỳ-khưu-ni Bodhī là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch, nhập thiền an hưởng sự an-lạc trong thiền, là bậc đa văn túc trí, bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi phiền não không còn dư sót.
Hai Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni cùng nhau đi khất thực, độ xong cùng trở về, ngồi nghỉ một nơi thanh vắng đàm đạo với nhau.
Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Bodhī hỏi vị Đại-đức tỳ-khưu- ni Isidāsī rằng:
– Này em Isidāsī! Em là bậc đáng kính trọng, em đang còn trẻ, em thấy tội-lỗi gì trong đời mà em xuất gia tỳ- khưu-ni như vậy?
Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsī là bậc trí-tuệ sáng suốt, có tài thuyết pháp đã thưa rằng:
– Thưa chị Bodhī, xin chị nghe em thuật lại câu chuyện cuộc đời em, khiến em đi xuất gia như vầy:
“Em là đứa con gái duy nhất trong gia đình, cha em là phú hộ ở trong thành Ujjeni, là người có giới, có tâm từ thương yêu quý mến em.
Khi em đã trưởng thành, có một người con trai phú hộ ở xứ Sāketa đến xin làm lễ cưới em về làm vợ, thân phụ của em bằng lòng cho em về làm dâu gia đình phú hộ xứ Sāketa.
Em đã về nhà cha mẹ chồng, hằng ngày, em đảnh lễ cha mẹ chồng, cha mẹ chồng dạy bảo điều nào em cũng làm tròn phận sự điều ấy.
Chị gái, em gái, anh trai, em trai, bà con, bạn bè người quen bên chồng, em chỉ thấy một lần, về sau khi gặp lại em cư xử kính trọng lễ phép, tiếp đón tử tế bằng thức ăn, nước uống, đồ dùng, v.v… em biết những gì hợp với người nào, em tiếp đãi biếu tặng cho người ấy.
Buổi sáng, em thường thức dậy sớm, rửa mặt rửa tay xong, chắp tay đi vào hầu hạ chồng, nào lấy nước nóng nhúng khăn lau mặt, chải tóc, xoa vật thơm, lấy gương soi mặt, đem áo quần sạch thay bộ áo quần cũ, hầu hạ chồng em, như người tớ gái ngon ngoãn vâng lời chủ.
Em tự nấu cơm canh, rửa chén bát, giặt giũ quần áo cho chồng, … như người mẹ hiền săn sóc đứa con yêu quý duy nhất như thế nào, thì em cũng săn sóc chồng như thế ấy.
Em chỉ có một mực hết lòng thương yêu, chiều chuộng chồng, chung thủy với chồng, làm tròn bổn phận người vợ hiền đối với chồng.
Em không hề có tính ngã-mạn khó dạy, không hề lười biếng, nhác làm. Em là người siêng năng cần mẫn, dễ dạy, có giới trong sạch và đầy đủ.
Thế mà chồng em không vừa lòng với em, không thương yêu em, chồng em thưa với cha mẹ rằng:
– Kính thưa cha mẹ, con sẽ bỏ nhà ra đi, con không thể nào sống chung trong một ngôi nhà với nàng Isidāsī được.
Cha mẹ chồng bảo chồng em rằng:
– Này con yêu quý! Con chớ nên nói như vậy, nàng Isidāsī là người thiện-trí thông minh, siêng năng chăm chỉ, làm tròn phận sự của người vợ hiền, dâu thảo.
Tại sao con không vừa lòng, không thương yêu Isidāsi vậy con?
Chồng em thưa với cha mẹ rằng:
– Kính thưa cha mẹ, Isidāsī không hề làm điều gì để cho con phật ý, không vừa lòng cả, nhưng thưa cha mẹ, con không thể sống chung với Isidāsī được, con không muốn nhìn thấy mặt Isidāsī, con xin phép từ giã cha mẹ, con xin đi nơi khác.
Cha mẹ chồng khi nghe chồng em nói như vậy, đến hỏi em rằng:
– Này con yêu quý! Con đã làm điều gì sai quấy, làm cho chồng con không vừa lòng, muốn từ bỏ con?
Con hãy nói thật cho cha mẹ nghe điều ấy. Em thưa với cha mẹ chồng rằng:
– Kính thưa cha mẹ, con không hề làm điều gì sai
quấy, con không hề làm điều gì khiến cho chồng con phật ý, không vừa lòng cả, con không hề coi thường chồng con, con không hề nói lời thô tục khiến chồng con không vừa lòng hoặc giận hờn con cả.
Cha mẹ chồng em khổ tâm vô cùng, không nói gì cả, nhưng dù sao cũng phải giữ con trai ở lại nhà, không cho con trai đi nơi khác, nên đành phải trả em trở về nhà cha mẹ em ở thành Ujjeni.
Kể từ đó, em trở thành người đàn bà xinh đẹp, dễ thương mà bị chồng bỏ.
Em về sống với gia đình cha mẹ em được một thời gian, cha của em lại gả em cho một người con trai của một gia đình giàu có, của cải bằng một nửa gia đình cha mẹ người chồng thứ nhất.
Em sống chung với người chồng thứ hai, hằng ngày em làm tròn phận sự của một người vợ hiền, một người con dâu thảo trong gia đình cha mẹ chồng, em hầu hạ săn sóc chồng em như một người đầy tớ gái hầu hạ săn sóc chủ.
Mặc dù vậy, em hầu hạ săn sóc chồng em được một tháng, người chồng thứ hai cũng gửi trả em về lại với cha mẹ của em. Em trở về sống với gia đình cha mẹ em.
Một hôm, cha em gặp một chàng trai trẻ đi lang thang, đi xin ăn sống nhờ vào lòng từ, bi của người khác, chàng trai trẻ có thân, khẩu, ý hành thiện. Cha em bảo với chàng trai hành khất ấy rằng:
– Này con! Con nên đến làm rể của nhà ta, con hãy vất bỏ cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, bộ đồ rách rưới dơ bẩn của con đi.
Anh ấy đồng ý đến làm rể của cha mẹ em, làm chồng của em.
Em sống chung với người con trai hành khất ấy là người chồng thứ ba được trọn mười lăm (15) ngày.
Người con trai hành khất ấy thưa với cha em rằng:
– Thưa ông, xin ông trả lại cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, và bộ đồ rách rưới dơ bẩn ấy lại cho con, để cho con đi xin ăn, bởi vì con không thể sống chung với nàng Isidāsī được.
Cha mẹ em và người bà con hỏi anh chàng hành khất ấy rằng:
– Này con! Cô Isidāsī đã làm điều gì mà con không hài lòng?
Vậy, con nên nói cho cha mẹ và bà con biết, cha mẹ sẽ giúp đỡ cho con được vừa lòng như ý.
Chàng trai hành khất thưa với cha mẹ em và bà con rằng:
– Con muốn được sống tự do, tôi không muốn sống chung với nàng Isidāsī.
Cha mẹ em phải để cho chàng trai hành khất ra đi sống tự do, còn lại một mình, em suy nghĩ rằng:
“Em nên từ biệt cha mẹ, em đi tự tử, hoặc nên đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni?”
Khi ấy, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā, là bậc đa- văn túc-trí, giới-đức thanh-tịnh đến khất thực tại nhà em.
Nhìn thấy Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, em cung kính đón rước tiếp đãi, trải chỗ cho Ngài ngồi, em đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi kính dâng vật thực cúng dường đến Ngài. Khi Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā độ vật thực xong, em đảnh lễ và bạch rằng:
– Kính thưa Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, con có nguyện vọng muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Kính xin Ngài có tâm từ tế độ cho con.
Khi ấy, cha mẹ em bảo với em rằng:
– Này con gái yêu quý! Con nên sống tại nhà, thực- hành giới, giữ gìn giới trong sạch, thực-hành phước- thiện bố-thí, dâng vật thực cúng dường đến Sa-môn, Bà- la-môn, như vậy cũng tốt chứ con.
Em chắp tay lạy cha mẹ, vừa khóc vừa thưa với cha mẹ rằng:
– Kính xin cha mẹ có tâm từ, tâm bi cho phép con được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni, con sẽ cố gắng thực- hành phạm-hạnh cao thượng, để làm cho ác-nghiệp cũ của con không có cơ hội cho quả nữa.
Cha mẹ em biết không thể ngăn được ý nguyện muốn xuất gia của em, nên cha mẹ đành cho phép em xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Cha mẹ em cầu chúc cho em chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn cao thượng mà Chư Phật đã dạy:
“Niết-bàn là pháp an-lạc tuyệt đối.”
Em chắp tay lạy cha mẹ và bà con, rồi xin đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.
Sau khi trở thành tỳ-khưu-ni thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đến 7 ngày, em đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự đến A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả cùng Tam-minh, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Em đã nhớ rõ lại tiền-kiếp của em suốt 7 kiếp, kể từ kiếp hiện-tại này trở lại theo tuần tự 7 kiếp quá-khứ của em, để biết ác-nghiệp nào cho quả khiến cho cuộc đời của em bị chồng không vừa lòng bỏ em như vậy.
Em xin thuật lại quả của ác-nghiệp mà tiền-kiếp của em đã tạo trong kiếp quá-khứ.
Xin chị lắng nghe ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp ấy trong tiền-kiếp của em như sau:
Quả Khổ Của Ác-Nghiệp Tà-Dâm
* Tiền-kiếp thứ 7 của em, kể từ kiếp này trở lui, em là con trai tiệm vàng có nhiều của cải giàu sang ở thành Erakaccha, là người con trai dể duôi (thất niệm) si-mê trong thời trẻ trung, đã phạm điều-giới tà-dâm với vợ người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.
* Tiền-kiếp thứ 6 của em, sau khi con trai tiệm vàng chết, do ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại- địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm suốt thời gian lâu dài trong đại-địa-ngục Avīci, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
* Tiền-kiếp thứ 5 của em, sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con khỉ đực. Khỉ đực con sinh ra được 7 ngày, bị con khỉ chúa cắn đứt dương vật.
Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.
* Tiền-kiếp thứ 4 của em, sau khi kiếp con khỉ chết, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con dê đực bị mù mắt, bị què chân. Về sau, cũng bị cắn đứt dương vật, rồi sinh bệnh sưng làm mủ, dòi ăn bộ sinh dục, phải chịu đau khổ suốt 12 năm rồi chết.
Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.
* Tiền-kiếp thứ 3 của em, sau khi dê đực chết, ác- nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con bò đực có bộ lông nâu. Khi lớn lên được 12 tháng cũng bị thiến bộ sinh dục. Kiếp làm bò đực, khi thì người chủ bắt kéo cày, khi thì người chủ bắt kéo xe, không có lúc nào được nghỉ.
Về sau, kiếp bò đực ấy bị mù đôi mắt, bệnh hoạn chết. Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.
* Tiền-kiếp thứ nhì của em, sau khi kiếp bò đực chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con của một người tớ gái, là đứa trẻ ái-nam ái-nữ (không phải trai cũng không phải gái), sống được 30 tuổi rồi chết.
Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.
* Tiền-kiếp thứ nhất của em, sau khi kiếp ái-nam ái- nữ chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm người con gái ở gia đình thợ dệt chiếu nghèo nàn cực khổ, túng thiếu mang nợ, chủ nợ đến đòi, không trả nổi, người chủ nợ lấy tất cả của cải, bắt gia đình, kể cả con gái về làm tôi tớ.
Về sau, khi đứa con gái (là em) lớn được 16 tuổi rất xinh đẹp, người con trai của chủ nợ tên Giridāsa bắt ép em làm vợ nhỏ, mặc dù ông ta đã có vợ lớn rồi.
Người vợ lớn là người có giới, có đức-hạnh tốt, thương yêu chiều chuộng chung thủy với chồng.
Ông Giridāsa rất say mê người vợ nhỏ xinh đẹp. Người vợ nhỏ (là em) năn nỉ, lời ngon, tiếng ngọt, xúi dục ông Giridāsa đuổi người vợ lớn ra khỏi nhà.
Do ác-nghiệp ấy, nên kiếp này 3 người chồng đều ruồng bỏ em, đuổi ra khỏi nhà, không muốn nhìn mặt em, mặc dù em hết lòng hầu hạ chồng như người tớ gái ngoan ngoãn lo phục vụ chủ.
Đó là ác-nghiệp xúi dục chồng đuổi vợ lớn ra khỏi nhà.
Kiếp hiện-tại này là kiếp cuối cùng, bởi vì em đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, không còn tái- sinh trở lại kiếp nào nữa.
Như vậy, tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp. Cho nên, quả của mọi ác- nghiệp và quả của mọi thiện-nghiệp cũng đều kết thúc trong kiếp chót này.”
* Quả Khổ Của Ác-Nghiệp Tà-Dâm
Thuở ấy, Đức-Phật đang ngự tại chùa Jetavana đề cập đến câu chuyện Aññatarapurisavatthu: có một đoạn nói về quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm, được tóm lược như sau:
Một hôm, Đức-vua Pasenadi Kosala cỡi bạch tượng trang sức lộng lẫy có đoàn quân lính hầu ngự đi trong thành biểu dương oai lực của Đức-vua.
Khi ấy, một người đàn bà rất xinh đẹp, đứng ở cửa sổ trên tầng 7 của lâu đài nhìn Đức-vua.
Đức-vua ngẩng lên nhìn thấy nàng đẹp như thiên-nữ, Đức-vua sinh tâm yêu say đắm nàng ấy. Khi hồi cung trở về cung điện, Đức-vua gọi vị quan cận thần đi dò hỏi xem nàng đã có chồng hay chưa. Vị quan cận thần về tâu cho Đức-vua biết, nàng đã có chồng rồi. Đức-vua truyền lệnh đòi chồng của nàng vào cung, Đức-vua bày mưu kế hiểm giết người chồng, để chiếm người vợ trẻ rất xinh đẹp ấy.
Mưu kế đã tính sẵn, đợi ngày hôm sau mới giết người đàn ông và sẽ chiếm người vợ trẻ xinh đẹp, Đức-vua bị lửa tình dục thiêu đốt, suốt đêm không sao ngủ được, trông cho mau đến sáng.
Khi ấy, bốn chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục “Lohakumbhī: Địa-ngục nước đồng sôi” (chiều sâu 60 do-tuần) bị lửa địa-ngục thiêu đốt, nước đồng sôi làm cho cả 4 chúng-sinh ấy nhào lên rồi lộn xuống, giống như hạt gạo đang sôi trong nồi cháo lỏng. Từ miệng địa- ngục nước đồng sôi chìm đến đáy thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm; rồi từ đáy nước đồng sôi nổi lên đến miệng thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm, vừa đến miệng 4 chúng-sinh nhìn nhau định đọc một câu kệ, nhưng thời gian không kịp, cho nên mỗi chúng-sinh ấy chỉ đọc được âm đầu là Du, Sa, Na, So.
Đức-vua suốt đêm không ngủ được, vào canh giữa đêm nghe rõ 4 âm đầu “Du, Sa, Na, So”. Đức-vua kinh sợ không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình, cho hoàng hậu hoặc cho ngai vàng của mình, không sao nhắm mắt được cho đến sáng.
Đức-vua truyền lệnh gọi vị quân sư đến hỏi, vị quân sư không biết, nhưng sợ mất mặt nên nói bậy rằng:
– Tâu Đại-vương, có sự nguy hiểm đến sinh-mạng của Đại-vương.
Vị quân sư bày ra việc lấy máu tế thần, bắt 100 con voi, 100 con ngựa, 100 con bò đực, 100 con bò sữa, 100 con dê, 100 con cừu, 100 con gà, 100 con heo, 100 đứa con trai, 100 đứa con gái cắt cổ lấy máu tế thần, để Đức- vua khỏi bị nguy hiểm đến tính mạng.
Hoàng-hậu Mallikā hay tin Đức-vua tin theo lời vị quân sư, truyền lệnh bắt sinh vật làm lễ tế thần. Hoàng hậu Mallikā ngự đến chầu Đức-vua, khuyên can Đức- vua không nên tạo ác-nghiệp sát-sinh, mà kính thỉnh Đức-vua đến hầu Đức-Phật.
Đức-vua Pasenadi Kosala cùng Hoàng hậu Mallikā đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, Hoàng hậu Mallikā kính bạch Đức-Phật rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vào canh giữa đêm Đức- vua không ngủ được, nằm nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So” rất rùng rợn.
Buổi sáng, Đức-vua truyền hỏi vị quân sư, thì vị quân sư tâu rằng: “sẽ có sự nguy hiểm đến sinh mạng của Đức-vua.” Vị quân sư bày ra việc sát-sinh làm lễ tế thần, để cứu nguy sinh mạng của đức-vua.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sự thật như thế nào?
Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này Đại-vương, Đại-vương nghe như thế nào?
Đức-vua Pasenadi Kosala bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua con không ngủ được, vào canh giữa đêm con nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So”, con cảm thấy kinh sợ không biết sự việc gì sẽ xảy đến cho con? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn dạy rằng:
– Này Đại-vương! Không có sự nguy hiểm gì xảy đến cho Đại-vương cả. Đó là 4 chúng-sinh trong cõi địa- ngục đã từng tạo ác-nghiệp trong tiền-kiếp, khi chúng nhìn thấy lại nhau, muốn đọc câu kệ, nhưng thời gian không kịp, mới đọc được âm đầu của câu kệ, rồi bị chìm lại xuống cõi địa-ngục.
Đức-vua bạch hỏi:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 4 chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp gì? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn thuyết dạy về ác-nghiệp của 4 chúng- sinh ấy rằng:
– Này Đại-vương! Đại-vương hãy lắng nghe ác- nghiệp mà 4 chúng-sinh ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.
Trong quá-khứ, thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ của con người khoảng 20.000 (hai mươi ngàn) năm.
Đức-Phật Kassapa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngự đi khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Trong xứ Bārāṇasī, 4 người con trai của 4 ông phú hộ, có của cải đến 400 triệu, là bạn hữu với nhau, chúng không nghĩ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng, không nghĩ giữ gìn ngũ-giới và tạo mọi phước-thiện, chúng lại bàn bạc với nhau rằng:
Trong nhà chúng ta có nhiều của cải, chúng ta sẽ làm gì với số của cải ấy để được sung sướng.
* Một người nói rằng:
– Này các bạn! Chúng ta uống rượu ngon, ăn đồ ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.
* Một người khác lại nói rằng:
– Này các bạn! Chúng ta ăn cơm nấu từ gạo sāli, có mùi thơm được cất giữ suốt 3 năm, với đồ ăn ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.
* Một người khác nói rằng:
– Này các bạn! Chúng ta sai người làm đồ ăn ngon đặc biệt, ăn rồi đi chơi, thì cuộc sống của chúng ta được sung sướng.
* Một người khác nói rằng:
– Này các bạn! Phần đông đàn bà ham tiền của, chúng ta đem tiền của ra dụ dỗ vợ của người khác sống chung với chúng ta, thì cuộc sống của chúng ta sẽ được sung sướng nhiều.
Cả 4 người con trai phú hộ đồng tình với nhau theo ý kiến cuối cùng.
Từ đó, cả 4 người con trai ấy đem tiền bạc dụ dỗ vợ của người khác, đã phạm điều-giới tà-dâm tạo ác- nghiệp tà-dâm.
Sau khi 4 người con trai phú hộ chết, ác-nghiệp tà- dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ trong suốt khoảng thời gian lâu dài, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian.
Khi chúng mãn quả ác-nghiệp tà-dâm trong đại-địa- ngục Avīci, song ác-nghiệp tà-dâm ấy còn dư sót, cho quả tái-sinh vào “cõi tiểu địa-ngục Lohakumbhī: Địa- ngục nước đồng sôi” có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), từ miệng địa ngục chìm xuống đến đáy trải qua thời gian
30.00 năm, rồi từ đáy địa-ngục nước đồng sôi trồi lên đến miệng địa-ngục trải qua thời gian 30.000 năm, khi nổi lên đến miệng địa-ngục thì 4 chúng sinh ấy nhìn thấy nhau định đọc câu kệ, nhưng vì thời gian ngắn ngủi không kịp, nên mỗi chúng sinh chỉ đọc được một âm đầu, rồi chìm xuống đáy trở lại.
– Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Du” còn câu kệ đầy đủ là:
“Dujjīvitamajīvimha, ye sante na dadamhase. Vijjamānesu bhojesu, dīpaṃ nākamha attano.”
“Này các bạn thân mến của tôi! Khi chúng ta có nhiều của cải, Đã không đem làm phước bố-thí,
Làm hòn đảo nương nhờ của mình. Chúng ta có tuổi thọ sống lâu.
Mà sống đời thấp hèn đáng khinh.”
– Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Sa” còn câu kệ đầy đủ là:
“Saṭṭhivassasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso. Niraye paccamānānaṃ, kadā anto bhavissati.” “Này các bạn thân mến của tôi!
Chúng ta chịu khổ trong địa-ngục, Đầy đủ suốt sáu chục ngàn năm. Khi nào chúng ta mới mãn hạn, Trong địa ngục này các bạn nhỉ?”
– Này Đại-vương! Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Na” còn câu kệ đầy đủ là:
“Natthi anto kato anto, na anto paṭidissati.
Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, mama tuyhañca, mārisā.”
“Này các bạn thân mến của tôi!
Mãn hạn trong địa-ngục không có,
Sự mãn hạn từ đâu có được?
Mãn hạn địa-ngục không hiện rõ.
Bởi vì khi chúng ta làm người,
Tôi và các bạn tạo ác-nghiệp.”
– Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “So” còn câu kệ đầy đủ là:
“Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ. Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahuṃ.”
“Này các bạn thân mến của tôi! Sau khi tôi thoát khỏi địa-ngục, Nếu được tái-sinh lại làm người, Sẽ là người biết lắng nghe pháp, Giữ giới trong sạch và trọn vẹn.
Chắc chắn sẽ tạo nhiều phước-thiện.”
Khi Đức-Phật giảng giải xong ý nghĩa 4 âm đầu trong 4 câu kệ đầy đủ của 4 chúng-sinh địa-ngục vốn là 4 người con trai của 4 nhà phú hộ trong tiền-kiếp, Đức-vua lắng nghe phát sinh động tâm nghĩ rằng:
“Tạo ác-nghiệp tà-dâm này nặng đến thế! 4 người con trai của 4 nhà phú hộ phạm điều-giới tà-dâm, phải chịu thiêu đốt ở đại-địa-ngục Avīci, suốt khoảng thời gian từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức- Phật Gotama.
Sau khi thoát ra khỏi đại-địa-ngục Avīci, rồi còn phải sa vào địa-ngục nước đồng sôi Lohakumbhī có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), chịu thiêu đốt 60.000 năm cũng chưa biết lúc nào mãn quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm trong địa-ngục nước đồng sôi.
Còn ta đem lòng thương yêu, say mê vợ người khác, làm suốt đêm không ngủ được. Kể từ nay, ta sẽ không dám sinh tâm thương yêu, say mê vợ người khác nữa.”
Đức-vua Pasenadi Kosala truyền lệnh thả những người và các loài thú được tự do trở về chỗ của mình, do nhờ Hoàng hậu Mallikā.