Nội Dung Chính
TAM TẠNG PĀLI – VIỆT tập 31
TRƯỞNG LÃO NI KỆ
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
MỤC LỤC
*****
LỜI GIỚI THIỆU
1. NHÓM MỘT
1. Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó
2. Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā
3. Kệ ngôn của trưởng lão ni Puṇṇā
4. Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā
5. Kệ ngôn của trưởng lão ni Tissā
6. Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhīrā
7. Kệ ngôn của trưởng lão ni Vīrā
8. Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittā
9. Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhadrā
10. Kệ ngôn của trưởng lão ni Upasamā
11. Kệ ngôn của trưởng lão ni Muttā
12. Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammadinnā
13. Kệ ngôn của trưởng lão ni Visākhā
14. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā
15. Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttarā
16. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumanā, vị xuất gia ở tuổi già
17. Kệ ngôn của trưởng lão ni Dhammā
18. Kệ ngôn của trưởng lão ni Saṅghā
***
2. NHÓM HAI
19. Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhirūpanandā
20. Kệ ngôn của trưởng lão ni Jentā
21. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumaṅgalamātā
22. Kệ ngôn của trưởng lão ni Aḍḍhakāsī
23. Kệ ngôn của trưởng lão ni Cittā
24. Kệ ngôn của trưởng lão ni Mettikā
25. Kệ ngôn của trưởng lão ni Mettā
26. Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhayamātā
27. Kệ ngôn của trưởng lão ni Abhayā
28. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sāmā
***
3. NHÓM BA
29. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sāmā
30. Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā
31. Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttamā
32. Kệ ngôn của trưởng lão ni Dantikā
33. Kệ ngôn của trưởng lão ni Ubbirī
34. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sukkā
35. Kệ ngôn của trưởng lão ni Selā
36. Kệ ngôn của trưởng lão ni Somā
***
4. NHÓM BỐN
37. Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākāpilānī
***
5. NHÓM NĂM
38. Kệ ngôn của một trưởng lão ni nào đó
39. Kệ ngôn của trưởng lão ni Vimalā
40. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sīhā
41. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarīnandā
42. Kệ ngôn của trưởng lão ni Nanduttarā
43. Kệ ngôn của trưởng lão ni Mittākāḷi
44. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sakulā
45. Kệ ngôn của trưởng lão ni Soṇā
46. Kệ ngôn của trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā
47. Kệ ngôn của trưởng lão ni Paṭācārā
48. Kệ ngôn của ba mươi vị tỳ khưu ni trưởng lão
49. Kệ ngôn của trưởng lão ni Candā
***
6. NHÓM SÁU
50. Kệ ngôn của năm trăm vị trưởng lão ni
51. Kệ ngôn của trưởng lão ni Vāseṭṭhī
52. Kệ ngôn của trưởng lão ni Khemā
53. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sujātā
54. Kệ ngôn của trưởng lão ni Anopamā
55. Kệ ngôn của trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī
56. Kệ ngôn của trưởng lão ni Guttā
57. Kệ ngôn của trưởng lão ni Vijayā
***
7. NHÓM BẢY
58. Kệ ngôn của trưởng lão ni Uttarā
59. Kệ ngôn của trưởng lão ni Cālā
60. Kệ ngôn của trưởng lão ni Upacālā
***
8. NHÓM TÁM
61. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sīsūpacālā
***
9. NHÓM CHÍN
62. Kệ ngôn của trưởng lão ni Vaḍḍhamātā
***
10. NHÓM MƯỜI MỘT
63. Kệ ngôn của trưởng lão ni Kisāgotamī
***
11. NHÓM MƯỜI HAI
64. Kệ ngôn của trưởng lão ni Uppalavaṇṇā
***
12. NHÓM MƯỜI SÁU
65. Kệ ngôn của trưởng lão ni Puṇṇā
***
13. NHÓM HAI MƯƠI
66. Kệ ngôn của trưởng lão ni Ambapālī
67. Kệ ngôn của trưởng lão ni Rohiṇī
68. Kệ ngôn của trưởng lão ni Cāpā
69. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sundarī
70. Kệ ngôn của trưởng lão ni Subhā, con gái người thợ rèn
***
14. NHÓM BA MƯƠI
71. Kệ ngôn của trưởng lão ni Subhā ngụ ở vườn xoài của Jīvaka
***
15. NHÓM BỐN MƯƠI
72. Kệ ngôn của trưởng lão ni Isidāsī
***
16. NHÓM LỚN
73. Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumedhā
TRƯỞNG LÃO NI KỆ ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.
–ooOoo–
LỜI GIỚI THIỆU
***
Therīgāthāpāḷi là tập thứ chín thuộc Suttantanikāya – Tạng Kinh, Khuddakanikāya – Tiểu Bộ. Nội dung gồm có các kệ ngôn đã được các vị tỳ khưu ni trưởng lão thốt lên. Được biết Therīgāthāpāḷi đã được sưu tập vào thời kỳ kết tập lần thứ nhất (ThagA. i, 2). Chúng tôi sử dụng lại tựa đề tiếng Việt đã có trước đây của tập Kinh này là Trưởng Lão Ni Kệ.
Chú giải của tập Kinh Therīgāthāpāḷi – Trưởng Lão Ni Kệ có tên là Paramatthadīpanī tập VI, ngoài ra còn có tên gọi khác là Therīgāthā–Aṭṭhakathā, và Therīgāthānaṃ Atthasaṃvaṇṇanā. Chú Giải Sư là Ngài Dhammapāla sống ở thế kỷ thứ 5 theo Tây Lịch và là người đã kế tục công việc của Chú Giải Sư Buddhaghosa. Ngài Dhammapāla đã thực hiện các bộ Chú Giải cho các tập Kinh thuộc Tiểu Bộ và còn là tác giả của một số tài liệu Phụ Chú Giải khác nữa. Ngài Dhammapāla đã thực hiện Chú Giải này trong lúc ngụ tại tu viện Badaratitthavihāra (ThigA., 273). Chú Giải ghi lại sơ lược tiểu sử của từng vị trưởng lão ni và còn chỉ ra phần trích dẫn liên quan đến vị ni ấy, nếu có, từ tập Kinh Therī-apadāna – Trưởng Lão Ni Ký Sự (tên gọi khác là Apadāna – Thánh Nhân Ký Sự tập III). Tiếp theo đó là lời giải thích ý nghĩa của một số từ đã được chọn lọc.
Tập Kinh Therīgāthāpāḷi – Trưởng Lão Ni Kệ cũng được phân chia thànhnipāta, được dịch là Nhóm. Tên gọi của Nhóm được căn cứ vào số lượng kệ ngôn: Nhóm Một có 1 kệ ngôn, Nhóm Hai có 2 kệ ngôn, và cứ thế cho đến Nhóm Chín có 9 kệ ngôn, rồi Nhóm Mười Một có 11 kệ ngôn (không có nhóm 10 kệ ngôn), Nhóm Mười Hai có 12 kệ ngôn, rồi Nhóm Mười Sáu có 16 kệ ngôn (không có các nhóm 13, 14, 15 kệ ngôn), ở các Nhóm còn lại số lượng kệ ngôn chỉ có tính cách gộp chung: Nhóm Hai Mươi, Nhóm Ba Mươi, Nhóm Bốn Mươi, và Nhóm Lớn gồm 75 kệ ngôn; tổng cộng là 16 nhóm. Điểm cần lưu ý tổng số kệ ngôn của vị trưởng lão ni Ambapālī chỉ là 19 kệ ngôn (252-270) nhưng vẫn được xếp vào Nhóm Hai Mươi thay vì được xếp riêng ở Nhóm Mười Chín. Số lượng các kệ ngôn ở văn bản Pali-Sinhala được ghi nhận là 521, và tổng số các vị trưởng lão ni là 73 vị. Số lượng các trưởng lão ni có thể lên đến 601 vị bởi vì ở các câu kệ 117-121 được ghi là của các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng ba mươi vị, và ở các câu kệ 127-132 là của các tỳ khưu ni trưởng lão số lượng năm trăm vị. Trong số này, có hai trường hợp ở Nhóm Một (1) và Nhóm Năm (67-71) là không rõ danh tánh (aññatarā therī).
Về nội dung, ngoài các kệ ngôn do đích thân các vị tỳ khưu ni đã nói lên, tập Kinh Therīgāthāpāḷi – Trưởng Lão Ni Kệ còn có một số kệ ngôn được xác định là lời của đức Phật, lời của người con trai của một vị trưởng lão ni, lời của vị Thiên nhân, lời của Ma Vương (Māra), lời của người Bà-la-môn, lời của vị tỳ khưu, lời của người vợ tên Cāpā với chồng là Upaka lúc cả hai còn là người tại gia, lời của vị hôn phu, lời của hai bậc sanh thành, v.v… Ngoài ra còn có một số kệ ngôn của các vị Trưởng Lão đã tham gia cuộc kết tập thêm vào để giải thích hoặc kết luận sự việc. Trong một số trường hợp, tên của vị trưởng lão ni đã được xác định ở kệ ngôn như tên của các vị trưởng lão ni Muttā (kệ ngôn số 2), Puṇṇā (3), Tissā (4, 5), Dhīrā (6), Vīrā (7), Mittā (8), Bhadrā (9), v.v…
Tương tợ như ở Theragāthāpāḷi – Trưởng Lão Kệ, ở đây cũng có trường hợp một số vị trưởng lão ni có tên khác nhau đã nói lên những kệ ngôn giống nhau: Ví dụ như câu kệ của vị ni Visākhā (13) tương tự câu kệ của vị ni Uttarā (176); câu kệ của vị ni Abhirūpanandā (19) giống câu kệ của vị ni Sundarīnandā (82); câu kệ của vị ni Jentā (21) giống câu kệ của vị ni Uttamā (45), câu kệ của vị ni Jentā (22) giống câu kệ của vị ni Mahāpajāpatīgotamī (160); câu kệ của vị ni Sāmā (37) giống câu kệ của vị ni Uttamā (42) và vị ni Vijayā (169); câu kệ của vị ni Ubbirī (52) tương tợ câu kệ của năm trăm vị trưởng lão ni (131); câu kệ của vị ni Ubbirī (53) giống câu kệ của năm trăm vị trưởng lão ni (132); hai câu kệ của vị ni Selā (58, 59) giống hai câu kệ của vị ni Khemā (141, 142) và vị ni Uppalavaṇṇā (234, 235); câu kệ của vị ni Selā (59) giống câu kệ của các vị ni Somā (62), vị ni Cālā (188), vị ni Upacālā (195), và vị ni Sīsūpacālā (203); hai câu kệ của vị trưởng lão ni nào đó (70cd, 71) giống hai câu kệ của vị ni Uppalavaṇṇā (227, 228); câu kệ của của ba mươi vị trưởng lão ni (117) giống câu kệ của vị ni Uttarā (175); câu kệ của ba mươi vị trưởng lão ni (120) tương tự câu kệ của vị ni Vijayā (172cd và 173) và vị ni Uttarā (179 và 180ab); câu kệ của ba mươi vị trưởng lão ni (121) tương tự câu kệ của vị ni Uttarā (181); câu kệ của vị ni Cālā (185) tương tự câu kệ của vị ni Upacālā (192); câu kệ của vị ni Cālā (186) giống câu kệ của vị ni Upacālā (193), vị ni Cāpā (310), và vị ni Sundarī (320cd); câu kệ của vị ni Cālā (187) giống câu kệ của vị ni Upacālā (194) và vị ni Sīsūpacālā (202); các câu kệ của vị ni Puṇṇā (248cd-251) tương tự các câu kệ của vị ni Rohiṇī (288-290), v.v…
Ngược lại, cũng có những trường hợp hai vị trưởng lão ni có cùng một tên: Ví dụ như hai vị trưởng lão ni có cùng tên Muttā ở Nhóm Một (kệ ngôn 2 và 11), Tissā ở Nhóm Một (4 và 5), Puṇṇā ở Nhóm Một (3) và Nhóm Mười Sáu (236-251), Sāmā ở Nhóm Hai (37-38) và Nhóm Ba (39-41), Uttamā ở Nhóm Ba (42-44 và 45-47). Trường hợp các vị ni này tuy có tên giống nhau nhưng đã được Chú Giải xác định là có nguồn gốc xuất thân khác nhau. Một điểm đáng lưu ý là khó thể xác định một số động từ được ghi ở thể sai khiến, ngôi thứ hai số ít, là lời vị trưởng lão ni nói với chính mình, hoặc nói cho ai đó, hoặc ai đó nói với vị trưởng lão ni.
Về hình thức, tập Kinh Therīgāthāpāḷi – Trưởng Lão Ni Kệ được viết theo thể kệ thơ (gāthā), mỗi kệ ngôn gồm có bốn pāda được trình bày thành hai dòng. Đa số các kệ ngôn của tập Kinh này làm theo thể thông dụng thường gặp gồm có tám âm cho mỗi pāda, tuy nhiên các thể khác phức tạp hơn cũng được tìm thấy. Trong đa số trường hợp, hai dòng kệ ngôn gồm bốn pāda là được hoàn chỉnh về ý nghĩa, nhưng cũng có một vài trường hợp ý nghĩa được nối từ kệ ngôn này sang kệ ngôn khác; trong trường hợp như vậy, chúng tôi sử dụng dấu ba chấm (…) ở cuối kệ ngôn trước và ở đầu kệ ngôn sau để báo hiệu sự tiếp nối.
Văn bản Pāḷi Roman trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điểm đóng góp của chúng tôi trong việc thực hiện văn bản Pāḷi Roman này là những điểm khác biệt về văn tự ở Tam Tạng của các nước Thái Lan, Miến Điện, và Anh Quốc được ghi ở phần cước chú đã được so sánh kiểm tra lại, đồng thời đã bổ sung thêm một số điểm khác biệt đã phát hiện được trong lúc so sánh các văn bản với nhau.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt của các kệ ngôn bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc. Có một số từ, do việc không tìm ra được nghĩa Việt, như trường hợp tên các loại thảo mộc nên đã được giữ nguyên từ Pāli. Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đồng thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Thượng Tọa Bửu Hiền – Trụ Trì Chùa Pháp Bảo Mỹ Tho, Nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Đại Học Peradeniya – Sri Lanka, Cô Phạm Thu Hương (Hồng Kông), Phật tử Hoàng Thị Lựu và gia đình (Đà Nẵng). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ nhiệt tình và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Nguyễn Tung Thiên và Phật tử Trương Hồng Hạnh đã sắp xếp thời gian để đọc lại bản thảo một cách kỹ lưỡng và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi – Việt được tồn tại và phát triển. Mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ngài Hòa Thượng Ven. Devahandiye Paññāsekara Nāyaka Mahāthera, tu viện trưởng tu viện Sri Jayawardhanaramaya Colombo 8 – Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ và các vật dụng cần thiết giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc thực hiện tập Kinh này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút,
Ngày 12 tháng 10 năm 2011
Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Ni Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda