2- Ngũ-Giới Hành Phạm-Hạnh (Brahmacariya Pañcasīla)
Ngũ-giới hành phạm-hạnh như thế nào?
Thông thường ngũ-giới là thường-giới (niccasīla) đối với tất cả mọi người tại gia vẫn có thể có vợ hoặc có chồng, bởi vì trong ngũ-giới có điều-giới thứ ba là:
“Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi”
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.
* Còn ngũ-giới hành phạm-hạnh (brahmacariyapañca- sīla) dành cho bậc Thánh Bất-lai tại gia, bởi vì bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái trong cõi dục- giới rồi, cho nên, trong ngũ-giới hành phạm-hạnh có giới thứ ba là:
“Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi” Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới, đương nhiên không còn muốn hành-dâm nữa. Vì vậy, bậc Thánh Bất-lai tại gia hành phạm-hạnh nghĩa là tuyệt đối không còn hành-dâm không chỉ trong kiếp hiện-tại này mà còn những kiếp vị-lai cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có hai trưởng giả cùng tên Ugga: Trưởng giả Ugga người xứ Vesāli và trưởng giả Ugga người làng Hatthigāma trong xứ Vajji. Cả hai trưởng giả này lắng nghe Đức- Phật thuyết pháp, rồi thực-hành thiền-tuệ đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niêt-bàn, cho đến Bất-lai Thánh- đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, đã diệt tận được phiền-não tham-ái trong cõi dục-giới, và phiền-não sân loại vi tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai, nên tâm không còn thỏa thích, say mê trong ngũ-dục nữa.
Hai vị trưởng giả Ugga là người cận-sự-nam sống tại gia, cho nên, họ thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh cao quý.
Tìm hiểu bài kinh Uggasutta Đức-Phật đề cập đến trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như sau:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa lớn trong khu rừng gần kinh-thành Vesāli. Khi ấy, Đức-Thế- Tôn gọi chư Tỳ-khưu dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Các con nên biết rằng:
Trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy xong, đứng dậy ngự vào cốc Gandhakuṭi.
Vào một buổi sáng, một vị tỳ-khưu mặc y bát đến ngôi nhà của ông trưởng giả Ugga xứ Vesāli, ngồi trên tọa cụ đã trải sẵn. Ông trưởng giả Ugga xứ Vesāli đảnh lễ vị tỳ-khưu xong, ngồi một nơi hợp lẽ; khi ấy, vị tỳ- khưu hỏi ông trưởng giả Ugga xứ Vesāli rằng:
– Này ông trưởng giả Ugga! Đức-Thế-Tôn khen ngợi ông rằng:
“Trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có”
– Này ông trưởng giả! 8 pháp phi thường chưa từng có đó là những pháp như thế nào?
Ông trưởng giả Ugga xứ Vesāli bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con không biết Đức- Phật khen ngợi con là người có 8 pháp phi thường chưa từng có thế nào. Riêng đối với con, kính xin Ngài Trưởng- lão hoan hỷ lắng nghe 8 pháp phi thường chưa từng có của con; con xin trình bày cho Ngài Trưởng-lão được rõ.
Vị Tỳ-khưu đáp rằng:
– Này ông trưởng giả Ugga! Lành thay! Lành thay!
Ông trưởng giả Ugga xứ Vesāli bạch rằng:
1- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, lần đầu tiên khi con thấy Đức-Phật từ xa, ngay tức thì khi ấy, tâm của con phát sinh đức-tin trong sạch hoàn toàn nơi Đức-Phật.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ nhất của con.
2- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, khi có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, con đến ngồi gần Đức-Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp anupubbikathā (pháp theo tuần tự) để tế độ con, đó là thuyết về giới, thuyết về cõi trời, ngũ-dục.
Khi ấy, Đức-Phật biết tâm trí của con đã nhu mì dễ dạy, đã xa lánh 5 pháp-chướng-ngại, có đại-thiện-tâm trong sạch. Để tế độ con, Đức-Phật thuyết pháp chân-lý tứ đế đó là khổ-đế, nhân sinh khổ-đế, diệt khổ-đế, pháp- hành dẫn đến diệt khổ-đế. Ví như tấm vải trắng mới sạch sẽ, không dơ bẩn, muốn nhuộm màu gì cũng tốt đẹp.
Cũng như vậy, sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, chính tại nơi ấy con đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, đã phát sinh pháp-nhãn (dhammacakkhu)(1), không còn phiền-não làm ô nhiễm. Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ rằng:
“Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái sinh, thì tất cả các pháp ấy đều có trạng-thái diệt.”
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con đã phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã đạt đến chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế, đã thấu rõ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, nên đã diệt tận được hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng; tâm không còn hoài- nghi nào nữa. Với trí-tuệ thiền-tuệ của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật rồi, nên không còn tin nơi người nào khác nữa. Con đã quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo và xin thọ trì ngũ-giới có điều-giới hành phạm-hạnh cao quý chính tại nơi ấy.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ nhì của con.
3- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con có 4 người vợ trẻ, con đến gặp 4 người vợ trẻ ấy bảo với họ rằng:
– Này các em! Kể từ nay anh đã thọ trì ngũ-giới có điều-giới hành phạm-hạnh rồi; em nào muốn dùng của cải làm phước-thiện bố-thí cũng được; em nào muốn trở về nhà cha mẹ, bà con mình cũng được; em nào muốn lấy người đàn ông khác làm chồng, anh sẽ trao em cho người đàn ông ấy.
Khi con bảo như vậy, người vợ lớn nói với con rằng:
– Này anh! Xin anh đem trao em cho người đàn ông tên ấy.
Con cho người mời ông ấy đến, tay trái con nắm tay người vợ trẻ, tay phải cầm bình nước, con rót nước xuống tay người vợ trẻ trao cho người đàn ông ấy. Tâm con vẫn tự nhiên không hề xao động chút nào cả.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ ba của con.
4- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, trong nhà con có nhiều của cải, con hoan hỷ làm phước bố-thí phân phát của cải ấy đến cho những bậc có giới đức trong sạch, có thiện pháp cao thượng.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ tư của con.
5- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, khi con tìm đến vị tỳ- khưu nào, gặp vị tỳ-khưu ấy với tâm kính trọng thật sự, không phải gặp vị tỳ-khưu ấy với tâm không tôn kính.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ năm của con.
6- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, nếu vị tỳ-khưu ấy thuyết pháp cho con nghe thì con ngồi lắng nghe một cách cung kính thật sự, không phải lắng nghe pháp một cách không cung kính, nếu vị tỳ-khưu ấy không thuyết pháp cho con nghe, thì chính con thuyết pháp cho vị tỳ- khưu ấy nghe.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ sáu của con.
7- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, không có gì lạ thường, khi chư-thiên đến tìm con và nói rằng:
“Này ông trưởng giả! Chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết thật hoàn hảo,”
Con trả lời với chư-thiên rằng:
“Dù quý vị có nói như vậy hay không, sự thật, chánh- pháp mà Đức-Phật đã thuyết vẫn thật sự hoàn hảo. Nhưng con không thấy tự hào về vấn đề chư-thiên đến tìm con, hay con nói chuyện với chư-thiên”.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ bảy của con.
8- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Đức-Phật thuyết năm pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục-giới (orambhāgiya-samyojana), trong 5 pháp ấy, con suy xét kỹ không thấy pháp nào mà con chưa diệt tận được (con đã diệt tận được 5 pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục-giới trở thành bậc Thánh Bất-lai).
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ tám của con.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, 8 pháp phi thường chưa từng có của con như vậy. Con không biết Đức-Phật khen ngợi con là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như thế nào.
Vị tỳ-khưu nhận vật thực tại nhà ông trưởng giả Ugga người xứ Vesāli. Sau khi thọ thực xong trở về chùa, vị tỳ- khưu vào hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, vị tỳ-khưu bạch với Đức-Phật toàn cuộc đàm đạo tại ngôi nhà trưởng giả Ugga người xứ Vesāli.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này Tỳ-khưu! Trưởng giả Ugga người xứ Vesāli đã trình bày đúng theo sự thật.
– Này chư tỳ-khưu! Như-Lai khen ngợi trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có đúng như vậy. Các con nên ghi nhớ trưởng giả Ugga người xứ Vesāli là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như vậy.
(Trưởng giả Ugga người làng Hatthigāma trong xứ Vajji cũng có 8 pháp phi thường chưa từng có trong bài kinh Uggasutta thứ nhì trong Chi-bộ-kinh.)