Phân Tích Giới Tỳ Khưu I
Chương 3: Saṅghādisesa
Liên kết: Pāḷi | Việt | Anh | Video t.Việt | Video t.Anh | Audio | PDF | Chú Giải Pāḷi | Phụ Chú Giải Pāḷi | Tìm hiểu thêm | Bài giảng khác
Điều học về làm cốc liêu
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ở thành Āḷavi tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các vị ấy sống có nhiều sự van xin, có nhiều sự yêu cầu: “Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.” Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ cũng tránh đi, (lầm) tưởng là các vị tỳ khưu.
Khi ấy, đại đức Mahākassapa, trải qua mùa (an cư) mưa ở thành Rājagaha, đã ra đi về phía thành Āḷavi, theo tuần tự đã ngự đến thành Āḷavi. Tại nơi ấy trong thành Āḷavi, đại đức Mahākassapa ngụ tại tháp thờ Aggāḷava. Sau đó vào buổi sáng, đại đức Mahākassapa đã mặc y, cầm y bát, đi vào thành Āḷavi để khất thực. Dân chúng sau khi nhìn thấy đại đức Mahākassapa cũng trở nên hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại. Sau đó, khi đã đi khất thực trong thành Āḷavi, sau bữa ăn trong khi đang đi khất thực trở về, đại đức Mahākassapa đã bảo các tỳ khưu rằng:
– “Này các đại đức, thành Āḷavi này trước đây vật thực dồi dào, đồ khất thực nhận được mau chóng, dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Hiện nay, thành Āḷavi này quả thật có sự khó khăn về vật thực, đồ khất thực nhận được khó khăn, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Này các đại đức, do nhân gì, do duyên gì khiến thành Āḷavi này lại có sự khó khăn về vật thực, đồ khất thực nhận được khó khăn, không dễ dàng sinh sống bằng sự ra sức khất thực? Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Mahākassapa.
Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại thành Rājagaha theo như ý thích đã ra đi du hành về phía thành Āḷavi, trong khi tuần tự du hành đã ngự đến thành Āḷavi. Tại nơi ấy trong thành Āḷavi, đức Thế Tôn ngụ tại tháp thờ Aggāḷava. Sau đó, đại đức Mahākassapa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Mahākassapa đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu ở thành Āḷavi rằng: – “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu: ‘Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.’ Dân chúng bực mình vì sự van xin, bực mình vì sự yêu cầu, khi thấy các tỳ khưu thì hốt hoảng, lo sợ, tránh né, bỏ đi đường khác, quay mặt hướng khác, đóng cửa lại; ngay cả khi thấy con bò cái họ (lầm) tưởng là các vị tỳ khưu rồi cũng tránh đi, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng các cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân, không theo kích thước, và các cốc liêu ấy chưa đạt được sự hoàn tất. Các ngươi đây sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu: ‘Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, ―(như trên)― hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét’ vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau đó, khi đã khiển trách đức Thế Tôn đã nói Pháp thoại rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
– Này các tỳ khưu, thời trước đây có hai anh em ẩn sĩ đã sống nương tựa sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha[11] đã vượt qua sông Gaṅgā và đến gần vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn quanh vị ẩn sĩ trẻ tuổi bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (vị ấy) và giữ nguyên. Này các tỳ khưu, rồi do sự khiếp sợ con rồng ấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ lớn tuổi đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi bị ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn sĩ trẻ tuổi điều này: – “Này đệ, vì sao đệ lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân vậy?” – “Thưa huynh, ở đây rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua sông Gaṅgā và đến gần đệ, sau khi đến đã dùng các phần thân thể quấn quanh đệ bảy vòng rồi phồng lớn mang ở trên đầu (đệ) và giữ nguyên. Thưa huynh, do sự khiếp sợ con rồng ấy đệ trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân.” – “Này đệ, vậy đệ có muốn con rồng ấy không đến nữa?” – “Thưa huynh, đệ muốn con rồng ấy không đến nữa.” – “Này đệ, vậy đệ thấy con rồng ấy có vật gì?” – “Thưa huynh, đệ thấy viên ngọc ma-ni là vật trang điểm ở cổ của nó.” – “Này đệ, như thế thì đệ hãy xin con rồng ấy viên ngọc ma-ni: ‘Rồng ơi, hãy cho ta ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni.’”
Này các tỳ khưu, rồi rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua sông Gaṅgā và đến gần vị ẩn sĩ trẻ tuổi, sau khi đến đã đứng ở một bên. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nói với rồng chúa Maṇikaṇṭha đang đứng một bên điều này: – “Rồng ơi, hãy cho ta ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni.” Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu xin ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần ngọc ma-ni’ rồi đã bỏ đi ngay lập tức. Này các tỳ khưu, đến lần thứ nhì rồng chúa Maṇikaṇṭha đã vượt qua sông Gaṅgā và đến gần vị ẩn sĩ trẻ tuổi. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nhìn thấy rồng chúa Maṇikaṇṭha từ ở đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này: – “Rồng ơi, hãy cho ta ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni.” Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu xin viên ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần viên ngọc ma-ni’ rồi ngay từ nơi ấy quay trở lui. Này các tỳ khưu, đến lần thứ ba rồng chúa Maṇikaṇṭha đang vượt qua sông Gaṅgā. Này các tỳ khưu, vị ẩn sĩ trẻ tuổi đã nhìn thấy rồng chúa Maṇikaṇṭha đang vượt qua sông Gaṅgā, sau khi nhìn thấy đã nói với rồng chúa Maṇikaṇṭha điều này: – “Rồng ơi, hãy cho ta ngọc ma-ni, ta cần ngọc ma-ni.” Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha đã thốt lên với vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng những lời kệ rằng:
“Cơm và nước của ta được dồi dào, tuyệt hảo được sanh lên do nhân của viên ngọc ma-ni này. Ngươi kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy, và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa.
Như là những đứa trẻ tay cầm dao mài bén, ngươi làm ta run rẩy trong khi cầu xin viên ngọc. Ngươi kẻ xin quá lố, ta không cho vật ấy, và ta cũng sẽ không đến khu ẩn cư của ngươi nữa.”
Này các tỳ khưu, khi ấy rồng chúa Maṇikaṇṭha (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu xin ngọc ma-ni, vị tỳ khưu cần ngọc ma-ni’ rồi bỏ đi, trong khi bỏ đi như thế rồi đã không quay lại nữa. Này các tỳ khưu, sau đó vị ẩn sĩ trẻ tuổi do việc không còn nhìn thấy con rồng xinh xắn ấy nữa càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa. Này các tỳ khưu, rồi vị ẩn sĩ lớn tuổi đã nhìn thấy vị ẩn sĩ trẻ tuổi càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa; sau khi nhìn thấy đã nói với vị ẩn sĩ trẻ tuổi điều này: – “Này đệ, vì sao đệ lại càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa vậy?” – “Thưa huynh, đệ càng trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân thêm hơn nữa là do việc không còn nhìn thấy con rồng xinh xắn ấy nữa. Này các tỳ khưu, khi ấy vị ẩn sĩ lớn tuổi đã thốt lên với vị ẩn sĩ trẻ tuổi bằng lời kệ rằng:
“Dầu mong được vật yêu quý của người, chớ van xin vật ấy. Do cầu xin quá đáng trở thành bị ghét bỏ. Con rồng bị người Bà-la-môn cầu xin ngọc ma-ni không còn xuất hiện nữa, bởi rồng đã hiểu được điều ấy.”
Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì sẽ là điều gì đối với loài người?
Này các tỳ khưu, vào thời trước đây có vị tỳ khưu nọ sống trong khu rừng rậm nọ ở sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Này các tỳ khưu, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước lớn và sâu thẳm. Này các tỳ khưu, có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong đầm nước ấy và ban đêm đi đến ngụ ở khu rừng rậm ấy. Này các tỳ khưu, khi ấy vị tỳ khưu ấy bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy đã đi đến gặp Ta, sau khi đến đã đảnh lễ Ta rồi ngồi xuống ở một bên. Này các tỳ khưu, rồi Ta đã nói với vị tỳ khưu ấy đang ngồi một bên điều này: – “Này tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Ngươi đi đến đường xa có được ít mệt nhọc không? Và này tỳ khưu, ngươi từ đâu đi đến?” – “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, con đi đến đường xa ít mệt nhọc. Bạch ngài, có khu rừng rậm lớn ở sườn núi của dãy Hi-mã-lạp-sơn. Bạch ngài, không xa khu rừng rậm ấy có đầm nước lớn và sâu thẳm. Bạch ngài, rồi có bầy chim lớn vào ban ngày đi kiếm ăn ở trong đầm nước ấy và ban đêm đi đến ngụ ở khu rừng rậm ấy. Bạch Thế Tôn, con từ nơi đó đi đến vì bị quấy rầy bởi tiếng động của bầy chim ấy.” – “Này tỳ khưu, vậy ngươi có muốn bầy chim ấy không đến nữa?” – “Bạch ngài, con muốn bầy chim ấy không đến nữa.” – “Này tỳ khưu, như thế thì ngươi hãy về lại nơi ấy và đi vào khu rừng rậm ấy rồi vào canh đầu của đêm hãy nói lớn lời này ba lần: ‘Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến ngụ ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.’ Rồi vào canh giữa của đêm ―(như trên)― Rồi vào canh cuối của đêm hãy nói lớn lời này ba lần: ‘Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến ngụ ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.’”
Này các tỳ khưu, sau đó vị tỳ khưu ấy đã về lại nơi ấy và đi vào khu rừng rậm ấy, rồi vào canh đầu của đêm đã nói lớn lời này ba lần: ‘Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến ngụ ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.’ Rồi vào canh giữa của đêm ―(như trên)― Rồi vào canh cuối của đêm đã nói lớn lời này ba lần: ‘Hỡi toàn bộ các ngài chim đã đến ngụ ở khu rừng rậm này, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi cần lông chim. Hỡi các ngài, hãy cho tôi mỗi một ngài một lông chim.’ Này các tỳ khưu, khi ấy bầy chim ấy (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu xin lông chim, vị tỳ khưu cần lông chim’ nên đã rời bỏ khu rừng rậm ấy, trong khi bỏ đi như thế rồi đã không quay lại nữa. Này các tỳ khưu, bởi vì việc van xin còn không được hoan hỷ, việc yêu cầu còn không được hoan hỷ đối với những chúng sanh là các loài thú ấy, thì sẽ là điều gì đối với loài người?
Này các tỳ khưu, trước đây cha của Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá đã thốt lên với Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá bằng lời kệ rằng:
– “Này Raṭṭhapāla, có rất là nhiều người dầu ta không biết họ, họ vẫn đi đến gặp và cầu xin ta, sao con lại không xin ta?”
– “Kẻ xin không được ưa thích, kẻ không cho khi được xin cũng không được ưa thích; chính vì lý do ấy tôi không cầu xin ông, chớ có ghét bỏ tôi.”
Này các tỳ khưu, chính Raṭṭhapāla con trai nhà danh giá ấy còn nói với cha của mình như thế, thì người với người sẽ còn nói điều gì nữa? Này các tỳ khưu, đối với người tại gia các của cải kiếm được khó khăn, các vật tích lũy được bảo quản khó khăn. Này những kẻ rồ dại, thế mà ở nơi ấy các ngươi lại sống có nhiều van xin, có nhiều sự yêu cầu đối với các của cải kiếm được khó khăn, đối với các vật tích lũy được bảo quản khó khăn như thế (nói rằng): ‘Các người hãy bố thí người nam, hãy bố thí nhân công, hãy bố thí bò, hãy bố thí xe kéo, hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục, hãy bố thí dây leo, hãy bố thí tre, hãy bố thí cỏ muñja, hãy bố thí cỏ pabbaja, hãy bố thí cỏ tiṇa, hãy bố thí đất sét.’ Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
Vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi trong khi cho xây dựng cốc liêu không có thí chủ, dành cho bản thân thì nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài mười hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ,[12] chiều ngang bảy gang ở bên trong, và nên dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất. Các vị tỳ khưu ấy nên xác định khu đất là không có điều chướng ngại, có lối đi vòng quanh. Nếu vị tỳ khưu tự xin (vật liệu) rồi cho xây dựng cốc liêu dành cho bản thân ở khu đất có điều chướng ngại, không có lối đi vòng quanh, hoặc không dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt quá kích thước thì tội saṅghādisesa.”
Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu người nam, nhân công, bò, xe kéo, rìu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, ―(như trên)― cỏ tiṇa, đất sét.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Trong khi cho xây dựng: là đang làm hoặc đang bảo người làm.
Không có thí chủ: không có người nào khác là sở hữu chủ: hoặc là người nữ, hoặc người nam, hoặc người tại gia, hoặc vị xuất gia.
Dành cho bản thân: vì nhu cầu của bản thân.
Nên cho làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài mười hai gang theo gang tay của đức Thiện thệ: theo cách đo ở bên ngoài.
Chiều ngang bảy gang ở bên trong: theo cách đo ở bên trong.
Nên dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất: Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu ấy nên dọn sạch khu đất làm cốc liêu, nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: – “Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu. Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Nếu toàn thể hội chúng có thể xem xét khu đất làm cốc liêu thì (khu đất) nên được xem xét bởi toàn thể hội chúng. Nếu toàn thể hội chúng không thể xem xét khu đất làm cốc liêu thì tại nơi ấy, các tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực để biết được có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có lối đi vòng quanh hay không có lối đi vòng quanh, các vị ấy nên được thỉnh cầu và nên được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xem xét khu đất làm cốc liêu. Hội chúng chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc chỉ định các vị tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Các tỳ khưu tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định để xem xét khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Các vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy sau khi đi đến nơi đó nên xem xét khu đất làm cốc liêu và nên nhận biết là có điều chướng ngại hoặc không có điều chướng ngại, có lối đi vòng quanh hay không có lối đi vòng quanh. Nếu có điều chướng ngại và không có lối đi vòng quanh thì nên nói rằng: ‘Chớ làm ở đây.’ Nếu không có điều chướng ngại và có lối đi vòng quanh thì nên thông báo với hội chúng rằng: ‘Không có điều chướng ngại và có lối đi vòng quanh.’ Vị tỳ khưu là người làm cốc liêu nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: – “Bạch các ngài, tôi có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu.”Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) có ý định làm cốc liêu do tự mình xin (vật liệu), không có thí chủ, dành cho bản thân. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng việc xác định khu đất làm cốc liêu. Hội chúng xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc xác định khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Khu đất làm cốc liêu của vị tỳ khưu tên (như vầy) đã được hội chúng xác định. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Có điều chướng ngại nghĩa là có tổ kiến, hoặc là có tổ mối, hoặc là có ổ chuột, hoặc là có ổ rắn, hoặc là có ổ bọ cạp, hoặc là có ổ rết, hoặc là chỗ ở của bầy voi, hoặc là chỗ ở của bầy ngựa, hoặc là chỗ ở của bầy sư tử, hoặc là chỗ ở của bầy cọp, hoặc là chỗ ở của bầy beo, hoặc là chỗ ở của bầy gấu, hoặc là chỗ ở của bầy chó sói, hoặc là chỗ ở của bất cứ các loài thú hoặc các loài sinh vật nào, hoặc kề cận ruộng trồng thóc lúa, hoặc kề cận ruộng trồng rau cải, hoặc kề cận nơi tra trấn, hoặc kề cận nơi xử trảm, hoặc kề cận mộ địa, hoặc kề cận vườn hoa, hoặc kề cận đất của đức vua, hoặc kề cận chuồng voi, hoặc kề cận chuồng ngựa, hoặc kề cận trại giam, hoặc kề cận quán rượu, hoặc kề cận nhà đồ tể, hoặc kề cận đường vận chuyển, hoặc kề cận giao lộ, hoặc kề cận nơi hội họp, hoặc kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là có điều chướng ngại.
Không có lối đi vòng quanh nghĩa là không thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (không thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là không có lối đi vòng quanh.
Không có điều chướng ngại nghĩa là không có tổ kiến, ―(như trên)― hoặc không kề cận chỗ qua lại; điều này nghĩa là không có điều chướng ngại.
Có lối đi vòng quanh nghĩa là có thể đi vòng với chiếc xe hàng được móc vào hoặc (có thể) đi vòng xung quanh với cái thang; điều này nghĩa là có lối đi vòng quanh.
Tự xin (vật liệu) nghĩa là sau khi tự mình yêu cầu về người nam, nhân công, ―(như trên)― đất sét.
Cốc liêu nghĩa là được tô ở bên trong, hoặc được tô ở bên ngoài, hoặc được tô bên trong lẫn bên ngoài.
Cho xây dựng: là (tự) làm hoặc bảo người làm.
Hoặc không dẫn các tỳ khưu đến để xác định khu đất, hoặc vượt quá kích thước: hoặc là sau khi không cho xác định khu đất làm cốc liêu bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì, hoặc là sau khi vượt quá chiều dài hoặc chiều rộng cho dù chỉ bằng sợi tóc rồi (tự) làm hay bảo người làm thì tội dukkaṭa cho mỗi thao tác. Khi còn chưa đến cục (vữa tô) cuối cùng thì phạm tội thullaccaya. Khi cục (vữa tô) ấy đã được đặt vào thì phạm tội saṅghādisesa.
Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― cũng vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tộidukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu theo kích thước, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, không có điều chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu làm cốc liêu ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, không có điều chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì (vị ấy) phạm hai tội dukkaṭa với tộisaṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì (vị ấy) phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tộisaṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì (vị ấy) phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm hai tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và không có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định và không có chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định và có lối đi quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, có lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất không được xác định, không có chướng ngại, có lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là không có chướng ngại và có lối đi quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, có lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là không có chướng ngại.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, không có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là có lối đi quanh.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” … “Phải theo kích thước và không có chướng ngại.” … “Phải theo kích thước và có lối đi quanh.” … “Phải theo kích thước.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta là theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là không có chướng ngại và có lối đi quanh.” … “Phải là không có chướng ngại.” … “Phải là có lối đi quanh.” … thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” … “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, và không có chướng ngại.” … “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, và có lối đi quanh.” … “Phải là khu đất được xác định và theo kích thước.” Nếu không đích thân đi hoặc phái người đưa tin thì phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Vị ấy nghe rằng: “Họ nói cốc được làm cho ta ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh.” Vị tỳ khưu ấy nên đích thân đi hoặc phái người đưa tin rằng: “Phải là không có chướng ngại và có lối đi quanh.” … “Phải là không có chướng ngại.” … “Phải là có lối đi quanh.” … thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm bốn tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm ba tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi và có chỉ thị: “Phải là khu đất được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, và có lối đi quanh.” Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh thì các vị xây dựng phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội saṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm tộidukkaṭa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất không được xác định, vượt quá kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa với hai tội saṅghādisesa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm hai tộidukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm hai tội dukkaṭa với tội saṅghādisesa. … không có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm hai tộisaṅghādisesa.
Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, có chướng ngại, không lối đi quanh. Nếu vị ấy trở về lúc làm chưa xong, thì vị tỳ khưu ấy nên cho cốc ấy đến vị khác hoặc nên phá đi rồi cho làm lại. Nếu không cho đến vị khác hoặc không phá đi rồi cho làm lại thì vị ấy phạm hai tội dukkaṭa. … có chướng ngại, có lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa. … không có chướng ngại, không lối đi quanh … thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu chỉ thị: “Hãy làm cốc cho tôi” rồi ra đi. Họ làm cốc cho vị ấy ở khu đất đã được xác định, theo kích thước, không có chướng ngại, có lối đi quanh thì vô tội.
Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa. Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa. Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa. Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong thì phạm tội saṅghādisesa.
Vô tội trong trường hợp hang núi, hang nhân tạo, chòi cỏ, vì nhu cầu của vị khác, trong mọi trường hợp ngoại trừ nhà ở,[13] vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Dứt điều học về làm cốc liêu.
–ooOoo–
[1] Phỏng dịch theo chú giải (Vin.A. iii, 555). Dịch sát từ là ‘người nữ mang bát nước.’
[2] Bảo hộ: không cho phép đi đến bất cứ nơi đâu. Canh giữ: giữ nàng ở nơi kín đáo, không để các người khác nhìn thấy. Thể hiện sự lãnh đạo: cấm đoán nàng sống ở chỗ theo ý thích. Vận hành sự quản lý: nói rằng: “Hãy làm điều này, chớ có làm điều kia” (VinA. iii, 555).
[3] Sớ Giải (Ṭīkā) giải thích là sasāmikā nghĩa là cô ấy đã có chồng, đã có sở hữu chủ.
[4] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Vợ sống chung vì y phục: đề cập đến người đàn bà nghèo trở thành vợ sau khi nhận lấy y phục cho dầu chỉ là tấm áo choàng.
[5] Vợ được cưới theo nghi thức: Sau khi cả hai người nhúng hai tay vào trong một bát nước nói rằng: “Hãy gắn bó như là nước này, đừng có chia lìa” thì nàng được chấp nhận là vợ theo phong tục.
[6] Vợ do nâng đỡ gánh nặng: Nàng là người kiếm củi, v.v… Sau khi lấy xuống từ đầu của nàng tấm đệm lót để đội vật nặng rồi đem về sống ở trong nhà.
[7] Vợ hạng nữ tỳ: Nàng được thuê làm việc trong nhà. Người đàn ông không hài lòng với vợ của mình rồi san sẽ cuộc sống gia đình với nàng.
[8] Vợ hạng tù binh: Khi đoàn quân dương cờ đi đến chiếm cứ một khu vực và nàng bị bắt đem lại, một người nào đó nhận nàng làm vợ nên được gọi là dhajāhaṭā (VinA. iii, 555).
[9] Người học trò khi quay trở về không báo cho thầy biết (đứng ở bên ngoài) và đích thân đem lại hồi báo cho người đàn ông. Người thầy bản thân nhận lời và bản thân bảo học trò thông báo nên phạm tộithullaccaya vì hai phần ấy; còn người học trò bản thân thông báo và bản thân đem lại (hồi báo) nên phạm tội thullaccaya vì hai phần ấy (VinA. iii, 559).
[10] Ngài Buddhaghosa giải thích alaṃvacanīyā là pariccattā (bị từ bỏ). Theo như trong một số quốc độ người đàn bà bị mất đi tính chất làm vợ thì gọi là alaṃvacanīyā. Ý nghĩa của các từ được ghi như sau: alaṃ: vừa đủ, xứng đáng; vacanīya: nên được nói, cần phải nói; alaṃvacanīyā: được nói đủ rồi, hết nước nói, không còn gì để nói (VinA. iii, 561).
[11] Maṇikaṇṭha nghĩa là “cổ có ngọc ma-ni.” Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Nghe nói con rồng chúa ấy khi đi có trang điểm ở cổ một viên ngọc ma-ni lớn vĩ đại (có thể) ban cho tất cả các điều mong ước; vì thế được biết đến với tên Maṇikaṇṭha” (VinA. iii, 565).
[12] Sugatavidatthi (gang tay của đức Thiện Thệ): được ngài Buddhaghosa giải thích bằng ba lần gang tay của người bậc trung, với bàn tay của người thợ nề thì bằng một gang rưỡi (VinA. iii, 567). Cũng vậy, HT. Bửu Chơn ghi rằng 1 gang của người bậc trung là 0,25 mét và tính ra diện tích là 9,00 mét x 5,20 mét (Tứ Thanh Tịnh Giới, trang 33, ở phần chú thích). Trong tài liệu Vinayamukha, ngài Mahāsamaṇa Chao đề nghị rằng sugatavidatthi, tức là gang tay của đức Thiện Thệ, nên được tính theo kích thước trung bình là 0,25 mét; như vậy diện tích sẽ là 3,00 mét x 1,75 mét. Vì đây là kuṭi (cốc) nên chúng tôi nghĩ rằng kích thước thứ hai hợp lý hơn.
[13] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Ngoại trừ nhà ở cho mục đích trú ngụ của vị ấy (thì phạm tội). Nếu vị ấy cho xây dựng bảo rằng: “Sẽ là nhà làm lễ Uposatha, nhà tắm hơi, nhà ăn, nhà đốt lửa khác nữa,” trong mọi trường hợp thì vô tội. Tuy nhiên, nếu vị ấy nghĩ rằng: “Sẽ là nhà làm lễ Uposatha và ta sẽ trú ngụ,” hoặc “Sẽ là nhà tắm hơi, nhà ăn, nhà đốt lửa và ta sẽ trú ngụ,” trong khi được cho làm thì vị ấy phạm tội (VinA. iii, 574).
Đọc sách ebook: PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I
–ooOoo–
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)