Nội Dung Chính
PHÁP HÀNH
PHÁP HÀNH TỨ NIỆM XỨ
Trong kinh Tứ niệm xứ, Đức Phật bắt đầu rằng:
“Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo…”. [1]
– “Này chư Tỳ khưu, đạo này là con đường duy nhất, để dẫn đến sự trong sạch, thanh tịnh hoàn toàn mọi phiền não ô nhiễm trong tâm của Bậc Chánh Đẳng Giác, Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn Giác; để diệt sự sầu não, than khóc; để diệt sự khổ thân, khổ tâm; để chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả; để chứng ngộ Niết Bàn.
Đạo duy nhất này, đó là pháp hành Tứ niệm xứ.
– Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu hay hành giả trong Phật giáo này:
1- Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận, có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ “thân trong thân” để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng trong ngũ uẩn chấp thủ này.
2- Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận, có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ “thọ trong thọ” để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng trong ngũ uẩn chấp thủ này.
3- Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận, có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ “tâm trong tâm” để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng trong ngũ uẩn chấp thủ này.
4- Là người có tâm tinh tấn không ngừng, có chánh niệm trực nhận, có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ “pháp trong pháp” để diệt tham tâm, hài lòng, và sân tâm, không hài lòng trong ngũ uẩn chấp thủ này…”.
Chi pháp hành Tứ niệm xứ
1- Niệm thân: Thân là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.
2- Niệm thọ: Thọ là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.
3- Niệm tâm: Tâm là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.
4- Niệm pháp: Pháp là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.
* Thân, thọ, tâm, pháp là đối tượng của pháp hành Tứ niệm xứ.
* Chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, tinh tấn là chủ thể, hành giả tiến hành Tứ niệm xứ.
Trong bài kinh có 3 chi pháp quan trọng.
“Ātāpī sampajāno satimā…”.
1- Satimā: Chánh niệm trực nhận [2] trực tiếp ngay đối tượng thân, hoặc thọ, hoặc tâm, hoặc pháp của chính nó (không qua niệm tưởng). Đó là chánh niệm trong Bát chánh đạo.
2- Sampajāno: trí tuệ tỉnh giác trực giác [3] trực tiếp ngay đối tượng nào, mà chánh niệm trực nhận; thấy rõ biết rõ đối tượng ấy đúng theo thực tánh của chính nó (không qua trí tuệ tư duy). Đó là chánh kiến trong Bát chánh đạo.
3- Ātāpī: Tinh tấn giúp cho chánh niệm và trí tuệ tỉnh giác liên tục không ngừng, để ngăn mọi phiền não không phát sanh; để thiêu huỷ phiền não đã sanh, để làm cho thiện pháp phát sanh, và làm cho tăng trưởng thiện pháp đã sanh. Đó là chánh tinh tấn trong Bát chánh đạo.
Khi hành giả tiến hành Tứ niệm xứ, Đức Phật dạy:
– Niệm thân trong thân.
– Niệm thọ trong thọ.
– Niệm tâm trong tâm.
– Niệm pháp trong pháp.
Mỗi đối tượng được Đức Phật nhắc lại 2 lần nghĩa là chánh niệm đối tượng nào riêng biệt đối tượng ấy, không nên chánh niệm đối tượng này, lẫn lộn trong đối tượng kia.
Chú giải niệm thân trong thân…
Chú giải trong bài kinh Tứ niệm xứ dạy:
“Kāyānupassī’ti kāye anupassanasīlo kāyaṃ vā anupassamāno. Kāye’ti ca vatvā puna kāyānupassī’ti dutiyakāyaggahaṃ asammissato vavatthānaghanavinib-bhogādidassanatthaṃ katanti veditabbaṃ. Tena na kāye vedanānupassī vā, cittadhammānupassī vā, attha kho kāyānupassīyeva’ti kāyasaṅkhāte vatthusmiṃ kāyānupas-sanākārasseva dassanena asammissato vavatthānaṃ dassitaṃ hoti…”. [4]
Lược giải:
Kāyānupassī nghĩa là trí tuệ thiền tuệ thường theo dõi thấy rõ biết rõ toàn thân, hoặc trí tuệ thiền tuệ đang thấy rõ biết rõ toàn thân.
Kāye nhắc lại một lần nữa trong câu “kāye kāyānupassī”; danh từ kāya lần thứ nhì, nên hiểu rằng: để giải thích phân biệt rõ mỗi đối tượng riêng biệt không nên lẫn lộn với đối tượng khác.
Như: “kāye kāyānupassī”: trí tuệ thiền tuệ thường theo dõi thấy rõ biết rõ toàn thân trong thân; không phải trí tuệ thấy rõ, biết rõ thọ (vedanānupassī) trong thân; hoặc trí tuệ thấy rõ biết rõ tâm, pháp (cittadhammānupassī) trong thân. Thật ra, trí tuệ thiền tuệ chỉ thấy rõ biết rõ toàn thân trong thân mà thôi.
Trong phần đối tượng thân, trí tuệ thiền tuệ chỉ thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân mà thôi, được chỉ dẫn rõ ràng, phân biệt, không lẫn lộn với các đối tượng khác.
Như vậy,
– Trong phần niệm thân, không nên niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, mà chỉ có chánh niệm = niệm thân trong thân mà thôi.
– Trong phần niệm thọ, không nên niệm thân, niệm tâm, niệm pháp, mà chỉ có chánh niệm = niệm thọ trong thọ mà thôi.
– Trong phần niệm tâm, không nên niệm thân, niệm thọ, niệm pháp, mà chỉ có chánh niệm = niệm tâm trong tâm mà thôi.
– Trong phần niệm pháp, không nên niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, mà chỉ có chánh niệm = niệm pháp trong pháp mà thôi.
Có ví dụ rằng:
“Một nước có kinh thành, cung điện của Đức vua ở chính giữa, có 4 con đường từ 4 hướng, đều có thể đi đến kinh thành, cung điện của Đức vua.
– Dân chúng ở hướng Đông, đi đến cung điện của Đức vua, bằng con đường từ hướng Đông.
– Dân chúng ở hướng Nam, đi đến cung điện của Đức vua, bằng con đường từ hướng Nam.
– Dân chúng ở hướng Tây, đi đến cung điện của Đức vua, bằng con đường từ hướng Tây.
– Dân chúng ở hướng Bắc, đi đến cung điện của Đức vua, bằng con đường từ hướng Bắc.
Cung điện của Đức vua ở giữa, ví như Niết Bàn.
Bốn con đường từ 4 hướng, ví như Tứ niệm xứ: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
Dân chúng ở 4 hướng đi đến chầu Đức Vua, bằng con đường riêng biệt của hướng mình ở như thế nào, việc tiến hành Tứ niệm xứ cũng như thế ấy. Niệm thân, hay niệm thọ, hay niệm tâm, hay niệm pháp cũng đều có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tham ái, phiền não như nhau cả thảy”.
Tứ niệm xứ
1- Thân niệm xứ (Kāyānupassanāsatipaṭṭhāna).
2- Thọ niệm xứ (Vedanānupassanāsatipaṭṭhāna).
3- Tâm niệm xứ (Cittānupassanāsatipaṭṭhāna).
4- Pháp niệm xứ (Dhammānupassanāsatipaṭṭhāna).Thân, thọ, tâm, pháp là 4 đối tượng của chánh niệm trí tuệ tỉnh giác.
Đối Tượng Của Tứ Niệm Xứ
1- Phần thân niệm xứ có 14 đối tượng
1- Niệm hơi thở vô, hơi thở ra.
2- Niệm tứ oai nghi chính: đi, đứng, ngồi, nằm.
3- Niệm tất cả các oai nghi phụ như: đi tới trước, đi lui sau, quay phải, quay trái, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra,….
4- Niệm 32 thể trược trong thân: tóc, lông, móng, răng, da,….
5- Niệm tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
6- Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ ở nghĩa địa, đã trải qua 1-2-3 ngày.
7- Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ ở nghĩa địa, bị quạ, diều, chó rừng… cắn xé ăn thịt.
8- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn là bộ xương dính thịt và máu, có gân ràng rịt.
9- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn xương dính máu thịt rã rời….
10- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn bộ xương khô, không có máu và thịt nữa.
11- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn bộ xương rời rã, rải rác mọi nơi.
12- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn bộ xương màu trắng.
13- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn một đống xương.
14- Niệm tưởng thân của mình, như tử thi bỏ ở nghĩa địa, chỉ còn là bột xương trắng.
Đó là 14 đối tượng của phần thân niệm xứ thuộc về sắc pháp.
2- Phần thọ niệm xứ có 1 đối tượng, chia 9 loại thọ
1- Thọ khổ.
2- Thọ lạc.
3- Thọ không khổ, không lạc (thọ xả).
4- Thọ khổ hợp với ngũ dục.[5]
5- Thọ lạc hợp với ngũ dục.
6- Thọ không khổ không lạc hợp với ngũ dục.
7- Thọ khổ không hợp với ngũ dục.
8- Thọ lạc không hợp với ngũ dục.
9- Thọ không khổ không lạc không hợp với ngũ dục.
Đó là 1 đối tượng của phần thọ niệm xứ, thuộc về danh pháp.
3- Phần tâm niệm xứ có 1 đối tượng, chia 16 loại tâm
1- Tâm tham.
2- Tâm không tham.
3- Tâm sân.
4- Tân không sân.
5- Tâm si.
6- Tâm không si.
7- Tâm buồn ngủ.
8- Tâm phóng tâm.
9- Đại hành tâm (sắc giới thiền tâm, vô sắc giới thiền tâm).
10- Tâm không phải đại hành tâm (dục giới tâm).
11- Tâm bậc thấp (dục giới tâm).
12- Tâm bậc cao (sắc giới tâm, vô sắc giới tâm).
13- Tâm định (tâm cận định, tâm an định).
14- Tâm không định.
15- Tâm thoát khỏi phiền não từng thời (dục giới thiện tâm).
16- Tâm không thoát khỏi phiền não.
Đó là 1 đối tượng của phần tâm niệm xứ, thuộc về danh pháp.
4- Phần pháp niệm xứ có 5 đối tượng
1- Năm pháp chướng ngại: tham dục, sân hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận, hoài nghi.
Năm pháp chướng ngại thuộc về danh pháp.
2- Ngũ uẩn chấp thủ: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn chấp thủ.
Ngũ uẩn thuộc về sắc pháp, danh pháp.
3- 12 xứ:
– 6 xứ bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
– 6 xứ bên trong: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.12 xứ thuộc về sắc pháp, danh pháp.
4- Thất giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỉ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi.
Thất giác chi thuộc về danh pháp.
5- Tứ đế:
– Khổ thánh đế: Đó là danh pháp, sắc pháp trong tam giới.
– Tập thánh đế: Đó là tham ái, nhân sanh Khổ thánh đế.
– Diệt thánh đế: Đó là Niết Bàn, pháp diệt Khổ thánh đế.
– Đạo thánh đế: Đó là Bát chánh đạo, là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn.
Tứ thánh đế thuộc về danh pháp, sắc pháp, chia làm 2 loại:
– Khổ thánh đế và Tập thánh đế thuộc danh pháp, sắc pháp trong tam giới.
– Diệt thánh đế và Đạo thánh đế thuộc danh pháp trong siêu tam giới.
Trên đây là 5 đối tượng của phần pháp niệm xứ, thuộc về danh pháp và sắc pháp.
Trong Tứ niệm xứ gồm có 21 đối tượng của pháp hành Tứ niệm xứ và cũng là đối tượng của pháp hành thiền tuệ. Trong 21 đối tượng này, đối tượng nào cũng có khả năng dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Đạo, Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Đạo, Bất Lai Thánh Quả; Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và trí tuệ ba la mật của hành giả.
Ajjhattaṃ – Bahiddhā: bên trong – bên ngoài
Trong 21 đối tượng của 4 pháp tứ niệm xứ, mỗi đối tượng Đức Phật đều kết luận:
Trong phần niệm thân rằng:
1- “Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati,
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati…”.
Trong phần niệm thọ rằng:
2- “Iti ajjhattaṃ vā vedanāsu vedanānupassī viharati,
Bahiddhā vā vedanāsu vedanānupassī viharati…”.
Trong phần niệm tâm rằng:
3- “Iti ajjhattaṃ vā citte cittānupassī viharati,
Bahiddhā vā citte cittānupassī viharati…”.
Trong phần niệm pháp rằng:
4- Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati,
Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati…”.
Nghĩa:
1- Trong phần niệm thân:
Như vậy, hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ thân trong phần thân bên trong của mình; hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ thân trong phần thân bên ngoài của người khác….
2- Trong phần niệm thọ:
Như vậy, hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ thọ trong những phần thọ bên trong của mình; hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ thọ trong những phần thọ bên ngoài của người khác….
3- Trong phần niệm tâm:
Như vậy, hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ tâm trong phần tâm bên trong của mình; hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ tâm trong phần tâm bên ngoài của người khác….
4- Trong phần niệm pháp:
Như vậy, hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ pháp trong những phần pháp bên trong của mình; hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ pháp trong những phần pháp bên ngoài của người khác….
Trong chú giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta, phần Kāyānu-passanā, đối tượng Anāpāna pabbavaṇṇanā rằng:
Iti ajjhattaṃ vā’’ti evaṃ attano vā assāsapassāsakāye kāyānupassī viharati.
Bahiddhā vā’ti parassa vā assāsapassāsakāye.
Ajjhattabahiddhā vā’ti kālena attano, kālena parassa assāsapassāsakāye….
Nghĩa:
Iti ajjhattaṃ vā: có nghĩa là: Hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ hơi thở vô – hơi thở ra bên trong của mình.
Bahiddhā vā: có nghĩa là: Hoặc hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ hơi thở vô – hơi thở ra bên ngoài của người khác.
Ajjhattabahiddhā vā: có nghĩa là: Hoặc, hành giả có trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ biết rõ khi thì hơi thở vô – hơi thở ra bên trong của mình; khi thì hơi thở vô – hơi thở ra bên ngoài của người khác…. Nhưng cùng một lúc không thể biết hơi thở vô – hơi thở ra bên trong của mình và bên ngoài của người khác.
Phần Chú giải này, trường hợp hành giả trước tiên tiến hành thiền định đề mục “ānāpānassati: niệm hơi thở vô – hơi thở ra” đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc giới xong rồi; thoát ra khỏi bậc thiền ấy, hành giả tiếp theo sau tiến hành thiền tuệ có hai phương pháp:
– Sử dụng hơi thở vô – hơi thở ra là đối tượng thiền tuệ. Hoặc:
– Chi thiền của bậc thiền ấy làm đối tượng của thiền tuệ.
Hơi thở vô – hơi thở ra làm đối tượng thiền tuệ như thế nào?
Hơi thở vô – hơi thở ra làm đối tượng của thiền tuệ có nghĩa là hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác biết rõ hơi thở tiếp xúc nơi thân; không phải biết hơi thở vô – hơi thở ra dài hoặc ngắn, v.v….
Thật vậy, hơi thở nương nhờ nơi thân, tiếp xúc với thân (kāya) thuộc sắc pháp làm đối tượng của thiền tuệ, và chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác đồng sanh với thiện tâm biết rõ sự tiếp xúc của hơi thở thuộc danh pháp. Sắc pháp, danh pháp là pháp vô ngã, không phải ta, người, chúng sinh nào….
Hành giả tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy, thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp ấy dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Chi thiền của bậc thiền ấy làm đối tượng thiền tuệ như thế nào?
Chi thiền “sukha” của bậc thiền thuộc phần vedanā: thọ, hoặc bậc thiền tâm thuộc phần citta: tâm, thuộc về danh pháp. Và thọ hoặc tâm nương nhờ hadayavatthurūpa: sắc ý căn mà phát sanh; sắc ý căn thuộc về sắc pháp. Danh pháp, sắc pháp là pháp vô ngã, không phải ta, người, chúng sinh nào….
Hành giả tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy, thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp ấy dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Tất cả 21 đối tượng của 4 pháp niệm xứ: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp; mỗi đối tượng Đức Phật đều kết luận giống nhau: “Iti ajjhattaṃ vā…”, và mỗi đối tượng đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả; đến Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả tùy theo trí tuệ ba la mật của hành giả.
Như vậy, từ hạng thiện trí phàm nhân để chứng đắc thành bậc Thánh nhân, hành giả tiến hành thiền tuệ, cần phải trải qua 16 trí tuệ của thiền tuệ, bắt đầu từ trí tuệ thứ nhất gọi là Nāmarūpapariccheda-ñāṇa: Trí tuệ thấy rõ biết rõ, phân biệt rõ từng mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp đúng theo thực tánh của chúng.
Trí tuệ thứ nhất này đạt đến Diṭṭhivisuddhi: Chánh kiến thanh tịnh, thấy đúng biết đúng danh pháp, sắc pháp là pháp vô ngã, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh nào….
Tiếp đến trí tuệ thứ nhì gọi là Nāmarūpapaccayapariggaha-ñāṇa: Trí tuệ thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, sắc pháp.
Trí tuệ thứ nhì này: với paccakkhañāṇa: trí tuệ trực tiếp thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp bên trong (ajjhatta) của mình như thế nào; và với anumānañāṇa: trí tuệ gián tiếp thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp bên ngoài (bahiddhā) của người khác, chúng sinh khác phát sanh cũng do nhân duyên như thế ấy. Cho nên, trí tuệ thứ nhì này đạt đến thanh tịnh Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi: Trí tuệ thoát ly hoài nghi thanh tịnh.
Nhờ trí tuệ thứ nhì này, hành giả không còn hoài nghi nơi danh pháp, sắc pháp nữa; không còn tin có một Đấng Tạo Hóa nào tạo nên danh pháp, sắc pháp bên trong, của mình; hoặc bên ngoài, của người khác.
Bản tánh và trí tuệ của hành giả, thích hợp đối tượng Tứ niệm xứ
– Về thiền định, hành giả được phân loại có 6 bản tánh: tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh suy diễn, tánh tín, tánh giác.
– Về thiền tuệ, hành giả được phân loại có 2 bản tánh, gồm có 4 hạng người:
1- Hạng hành giả có tánh tham ái, trí tuệ kém.
2- Hạng hành giả có tánh tham ái, trí tuệ nhiều.
3- Hạng hành giả có tánh tà kiến, trí tuệ kém.
4- Hạng hành giả có tánh tà kiến, trí tuệ nhiều.
Nếu hành giả biết chọn đúng đối tượng thiền tuệ thích hợp với tánh và trí tuệ của mình, thì việc tiến hành thiền tuệ, ở giai đoạn ban đầu, rất thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ thiền tuệ. Đến giai đoạn giữa và giai đoạn cuối còn tùy thuộc vào căn duyên của mỗi hành giả trong kiếp quá khứ.
Trong Chú giải kinh Đại Tứ niệm xứ dạy rằng:
– Hành giả có tánh tham ái, trí tuệ kém, thì thích hợp với đối tượng “niệm thân” thuộc về sắc pháp.
Hành giả tiến hành niệm thân (sắc pháp) để thấy rõ, biết rõ thân này “bất tịnh” nên diệt được tâm tham ái nương nhờ nơi thân cho rằng: “tịnh, xinh đẹp”.
– Hành giả có tánh tham ái, có trí tuệ nhiều, thì thích hợp với đối tượng “niệm thọ” thuộc danh pháp.
Hành giả tiến hành niệm thọ (danh pháp) để thấy rõ, biết rõ thọ này “khổ”, mới diệt được tâm tham ái nương nhờ nơi thọ cho rằng: “lạc”.
– Hành giả có tánh tà kiến, trí tuệ kém, thì thích hợp với đối tượng “niệm tâm” thuộc danh pháp.
Hành giả tiến hành niệm tâm (danh pháp) để thấy rõ, biết rõ tâm này “vô thường”, nên diệt được tâm tà kiến nương nhờ nơi tâm cho rằng: “thường”.
– Hành giả có tánh tà kiến, trí tuệ nhiều, thì thích hợp với đối tượng “niệm pháp” thuộc danh pháp, sắc pháp.
Hành giả tiến hành niệm pháp (danh pháp, sắc pháp) sẽ thấy rõ, biết rõ pháp này “vô ngã”, nên diệt được tâm tà kiến nương nhờ nơi pháp cho rằng: “ngã”.
Tuy bốn đối tượng: “thân là bất tịnh, thọ là khổ, tâm là vô thường, pháp là vô ngã” chỉ đề cập đến tính chất đặc biệt của mỗi đối tượng. Nhưng thực ra, tất cả 4 đối tượng “thân, thọ, tâm, pháp” đều có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh.
Nếu hành giả biết chọn đúng đối tượng thích hợp với tánh và trí tuệ của mình, thì việc tiến hành thiền tuệ rất thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ trạng thái riêng của danh pháp, sắc pháp; sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Nhận xét 21 đối tượng
Xét về 21 đối tượng trong Tứ niệm xứ, thì đối tượng tứ oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm, trong phần thân niệm xứ, là một đối tượng tương đối rõ ràng và thường có ở hiện tại hơn so với các đối tượng khác.
Đối tượng tứ oai nghi này, rất thích hợp với hạng hành giả có tánh tham ái, trí tuệ kém.
Hành giả nào có tánh tham ái, trí tuệ kém thì nên chọn tứ oai nghi: sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm làm đối tượng thiền tuệ căn bản ban đầu, để tiến hành thiền tuệ.
Nếu hành giả, những tiền kiếp trong quá khứ đã từng tiến hành những đối tượng thiền tuệ khác, thích hợp với căn duyên hơn, thì sự thay đổi đối tượng thiền tuệ là việc đương nhiên trong pháp hành thiền tuệ. Vì đối tượng của thiền tuệ gồm tất cả mọi danh pháp, mọi sắc pháp (khác với đối tượng thiền định, chỉ có giới hạn một số đề mục làm đối tượng).
Chú thích:
[1] Dīghanikāya, Mahāvagga, Kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.
[2] Trực nhận: có nghĩa là nhận biết trực tiếp ngay 1 trong 4 đối tượng thân, thọ, tâm, pháp. trong mỗi đối tượng lớn ấy, có nhiều đối tượng nhỏ; chánh niệm trực nhận đối tượng nhỏ nào, thì biết rõ đối tượng nhỏ ấy. Sở dĩ không dùng chữ “niệm” là vì để tránh sự hiểu lầm với niệm tưởng như: niệm Ân Ðức Phật, niệm đề mục đất, đất, v.v… thuộc đề mục làm đối tượng của thiền định.
[3] Trực giác: có nghĩa biết trực tiếp ngay thực tánh của đối tượng nào thì thấy rõ, biết rõ thực tánh của đối tượng ấy; không qua trí tuệ tư duy. Sở dĩ không dùng chữ “quán” là vì để tránh sự hiểu lầm với quán xét bằng trí tuệ tư duy không đúng với thực tánh của các pháp. Biết rõ đúng thực tánh của các pháp chỉ bằng trí tuệ hành (bhavanāmayapaññā) mà thôi.
[4] Chú giải Dīghanikāya, Mahāvaggaṭṭhakathā, Kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta-vaṇṇnā.
[5] Ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.