13. MAHĀVIYŪHASUTTANIDDESO – DIỄN GIẢI KINH SỰ DÀN TRẬN LỚN
Nguồn: Tam Tạng Pāli – Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) – Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda và các cộng sự
Atha mahāviyūhasuttaniddeso vuccati:
Giờ phần Diễn Giải Kinh ‘Sự Dàn Trận Lớn’ được nói đến:
Ye kecime diṭṭhiparibbasānā idameva saccanti ca vādayanti, sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tattha.
Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?
(XIII) Những vấn đề to lớn (Sn 174)
Người hỏi:
Với những ai thiên vị,
Ðối với những tri kiến này,
Chỉ đây là sự thật,
Họ cãi cọ tranh luận,
Tất cả những người ấy,
Ðem lại sự chỉ trích,
Hay chính tại ở đây,
Họ được lời tán thán?
(Kinh Tập, câu kệ 895)
Ye kec’ ime diṭṭhiparibbasānā ’ti – Ye kecī ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyana vacanametaṃ ‘ye kecī ’ti. Diṭṭhiparibbasānā ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhigatikā. Te dvāsaṭṭhiyā diṭṭhigatānaṃ aññataraññataraṃ diṭṭhigataṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā sakāya sakāya diṭṭhiyā vasanti saṃvasanti āvasanti parivasanti. Yathā agārikā vā gharesu vasanti, sāpattikā vā āpattīsu vasanti, sakilesā vā kilesesu vasanti, evamevaṃ santeke –pe– parivasantī ’ti – ye kecime diṭṭhi paribbasānā.
Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân) – Bất cứ những người nào: tất cả theo mọi hình thức, tất cả ở mọi nơi, một cách trọn vẹn, không còn dư sót, cụm từ ‘ye keci’ này là lối nói của sự bao gồm. Trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân): Có một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người theo tà kiến. Các vị ấy chấp nhận, tiếp thu, nắm lấy, bám víu, cố chấp tà kiến này khác trong số 62 tà kiến, rồi sống, cộng trú, thường trú, cư trú theo tà kiến của riêng mình. Giống như những người tại gia sống trong các ngôi nhà, những người có tội lỗi sống trong các tội lỗi, những người có ô nhiễm sống trong các ô nhiễm, tương tợ y như thế, có một số –nt– cư trú theo tà kiến của riêng mình; – ‘bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân)’ là như thế.
Idameva saccanti ca vādayantī ’ti – ‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – idameva saccanti ca vādayanti.
Tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý’ – Họ nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả rằng: ‘Thế giới là thường còn; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại.’ Họ nói, thuyết giảng, phát ngôn, diễn giải, diễn tả rằng: ‘Thế giới là không thường còn, —nt— Đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại;’ – ‘tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý’ là như thế.
Sabbeva te nindamanvānayantī ’ti – Sabbeva te samaṇabrāhmaṇā nindameva anventi, garahameva anventi, akittimeva anventi, sabbe ninditā yeva honti, garahitā yeva honti, akittitā yeva hontī ’ti – sabbeva te nindamanvānayanti.
Có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai – Có phải tất cả các Sa-môn và Bà-la-môn ấy đều đi đến sự chê bai, đều đi đến sự chê trách, đều đi đến sự không có tiếng tăm; có phải tất cả đều bị chê bai, tất cả đều bị chê trách, tất cả đều không được nổi tiếng– ‘có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai’ là như thế.
Atho pasaṃsampi labhanti tatthā ’ti – Tattha sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā pasaṃsaṃ thomanaṃ kittiṃ vaṇṇahārikaṃ labhanti paṭilabhanti upagacchanti vindantī ’ti – atho pasaṃsampi labhanti tattha.
Hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy? – Về việc ấy, do quan điểm của mình, do sự chấp nhận của mình, do sự ưa thích của mình, do quan niệm của mình, họ đạt được, họ tiếp nhận, họ đạt đến, họ kiếm được sự ca ngợi, sự khen ngợi, sự tán dương, sự ca tụng; – ‘hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?’ là như thế.
Tenāha so nimmito: “Ye kecime diṭṭhiparibbasānā idameva saccanti ca vādayanti, sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tatthā ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng:
“Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê bai, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?”
Appañhi etaṃ na alaṃ samāya duve vivādassa phalāni brūmi, etampi disvā na vivādayetha khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.
Bởi vì việc (ca ngợi) này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi. Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).
Thế Tôn:
Ðây chỉ là nhỏ bé,
Không đủ đem an tịnh,
Ta nói về hai quả
Của các loại đấu tranh.
Sau khi thấy như vậy,
Chớ có nên tranh luận,
Nên thấy rằng an ổn,
Không phải đất tranh luận.
(Kinh Tập, câu kệ 896)
Appañhi etaṃ na alaṃ samāyā ’ti – Appañhi etan ’ti appakaṃ etaṃ, omakaṃ etaṃ, thokaṃ etaṃ, lāmakaṃ etaṃ, chattakaṃ etaṃ, parittakaṃ etan ’ti – appañhi etaṃ. Na alaṃ samāyā ’ti nālaṃ rāgassa samāya dosassa samāya mohassa samāya kodhassa upanāhassa makkhassa paḷāsassa issāya macchariyassa māyāya sāṭheyyassa thambhassa sārambhassa mānassa atimānassa madassa pamādassa sabbakilesānaṃ sabbaduccaritānaṃ [sabbadarathānaṃ] sabbapariḷāhānaṃ sabbasantāpānaṃ sabbākusalābhisaṅkhārānaṃ samāya upasamāya vūpasamāya nibbānāya paṭinissaggāya paṭippassaddhiyā ’ti – appañhi etaṃ na alaṃ samāya.
Duve vivādassa phalāni brūmī ’ti – Diṭṭhikalahassa diṭṭhibhaṇḍanassa diṭṭhiviggahassa diṭṭhivivādassa diṭṭhimedhagassa dve phalāni honti: Jayaparājayo hoti, lābhālābho hoti, yasāyaso hoti, nindāpasaṃsā hoti, sukhadukkhaṃ hoti, somanassadomanassaṃ hoti, iṭṭhāniṭṭhaṃ hoti, anunayapaṭighaṃ hoti, ugghātinigghāti hoti, anurodhavirodho hoti. Athavā taṃ kammaṃ nirayasaṃvattanikaṃ tiracchānayoni saṃvattanikaṃ pettivisaya saṃvattanikanti brūmi ācikkhāmi desemi paññapemi paṭṭhapemi vivarāmi vibhajāmi uttānīkaromi pakāsemī ’ti – duve vivādassa phalāni brūmi.
Etampi disvā na vivādayethā ’ti – Etampi disvā ’ti etaṃ ādīnavaṃ disvā passitvā tulayitvā tīrayitvā vibhāvayitvā vibhūtaṃ katvā diṭṭhikalahesu diṭṭhibhaṇḍanesu diṭṭhiviggahesu diṭṭhivivādesu diṭṭhimedhagesū ’ti – etampi disvā.
Na vivādayethā ’ti na kalahaṃ kareyya, na bhaṇḍanaṃ kareyya, na viggahaṃ kareyya, na vivādaṃ kareyya, na medhagaṃ kareyya, kalahaṃ bhaṇḍanaṃ viggahaṃ vivādaṃ medhagaṃ pajaheyya vinodeyya byantīkareyya anabhāvaṃ gameyya, kalahā bhaṇḍanā viggahā vivādā medhagā ārato assa, virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaṃyutto vimariyādīkatena cetasā vihareyyā ’ti – etampi disvā na vivādayetha.
Khemābhipassaṃ avivādabhūmin ’ti – Avivādabhūmiṃ vuccati amataṃ nibbānaṃ, yo so sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ. Etaṃ avivādabhūmiṃ khemato tāṇato lenato saraṇato abhayato accutato amatato nibbānato passanto dakkhanto olokento nijjhāyanto upaparikkhanto ’ti – khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.
Tenāha bhagavā: “Appañhi etaṃ na alaṃ samāya duve vivādassa phalāni brūmi, etampi disvā na vivādayetha khemābhipassaṃ avivādabhūmin ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bởi vì việc (ca ngợi) này là ít ỏi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi. Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).”
Yā kācimā sammutiyo puthujjā sabbāva etā na upeti vidvā, anupayo so upayaṃ kimeyya diṭṭhe sute khantimakubbamāno.
Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?Phàm những thế tục này,
Ðược sanh giữa phàm phu,
Bậc trí không dựa vào,
Tất cả thế tục này,
Ðã không có quan tâm,
Sao nay tìm quan tâm,
Sao có thể kham nhẫn,
Với vật được thấy nghe.
(Kinh Tập, câu kệ 897)
Yā kācimā sammutiyo puthujjā ’ti – Yā kācī ’ti sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ asesaṃ nissesaṃ pariyādiyanavacanametaṃ yā kācī ’ti. Sammutiyo ’ti sammutiyo vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni diṭṭhisammutiyo. Puthujjā ’ti puthujjanehi janitā sammutiyoti puthujjā; puthu nānājanehi janitā vā sammutiyoti puthujjā ’ti – yā kācimā sammutiyo puthujjā.
Sabbāva etā na upeti vidvā ’ti – Vidvā vijjāgato ñāṇī vibhāvī medhāvī; sabbāva etā diṭṭhisammutiyo n’ eti, na upeti, na upagacchati, na gaṇhāti, na parāmasati, nābhinivisatī ’ti – sabbāva etā na upeti vidvā.
Anupayo so upayaṃ kimeyyā ’ti – Upayo ’ti dve upayā: taṇhūpayo ca diṭṭhūpayo ca. –pe– ayaṃ taṇhūpayo –pe– ayaṃ diṭṭhūpayo. Tassa taṇhūpayo pahīno, diṭṭhūpayo paṭinissaṭṭho; taṇhūpayassa pahīnattā diṭṭhūpayassa paṭinissaṭṭhattā, anupayo puggalo kiṃ rūpaṃ upeyya upagaccheyya gaṇheyya parāmaseyya abhiniveseyya ‘attā me ’ti, kiṃ vedanaṃ – kiṃ saññaṃ – kiṃ saṅkhāre – kiṃ viññāṇaṃ – kiṃ gatiṃ – kiṃ uppattiṃ – kiṃ paṭisandhiṃ – kiṃ bhavaṃ – kiṃ saṃsāraṃ kiṃ vaṭṭaṃ upeyya upagaccheyya gaṇheyya parāmaseyya abhiniveseyyā ’ti – anupayo so upayaṃ kimeyya.
Diṭṭhe sute khantimakubbamāno ’ti – Diṭṭhe vā diṭṭhasuddhiyā vā, sute vā sutasuddhiyā vā, mute vā mutasuddhiyā vā, khantiṃ akubbamāno, chandaṃ akubbamāno, pemaṃ akubbamāno, rāgaṃ akubbamāno, ajanayamāno asañjanayamāno anibbattayamāno anabhinibbattayamāno ’ti – diṭṭhe sute khantimakubbamāno.
Tenāha bhagavā “Yā kācimā sammutiyo puthujjā sabbāva etā na upeti vidvā, anupayo so upayaṃ kimeyya diṭṭhe sute khantimakubbamāno ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?”
Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ vataṃ samādāya upaṭṭhitā se, idheva sikkhema athassa suddhiṃ bhavūpanītā kusalāvadānā.
Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.Bậc xem giới tối thượng,
Nói tịnh nhờ chế ngự,
Chấp thủ giới cấm xong,
Họ an trú như vậy.
Ở đây họ tu tập,
Do đây được thanh tịnh,
Họ chỉ khéo nói năng,
Họ bị hữu dắt dẫn.
(Kinh Tập, câu kệ 898)
Sīluttamā saññamenāhu suddhin ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā sīluttamavādā. Te sīlamattena saññamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ āhaṃsu vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharanti. Samaṇamaṇḍikāputto evamāha: “Catuhi kho ahaṃ thapati dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññapemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattipattaṃ samaṇaṃ ayojjhaṃ. Katamehi catuhi?
Idha thapati na kāyena pāpakaṃ kammaṃ karoti, na pāpakaṃ vācaṃ bhāsati, na pāpakaṃ saṅkappaṃ saṅkappeti, na pāpakaṃ ājīvaṃ ājīvati. Imehi kho ahaṃ thapati1 catuhi dhammehi samannāgataṃ purisapuggalaṃ paññapemi sampannakusalaṃ paramakusalaṃ uttamapattipattaṃ samaṇaṃ ayojjhan”ti. Evamevaṃ santeke samaṇabrāhmaṇā sīluttamavādā. Te sīlamattena saññamamattena saṃvaramattena avītikkamamattena suddhiṃ visuddhi parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ āhaṃsu vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ.
Vataṃ samādāya upaṭṭhitā se ’ti – Vatan ’ti hatthivataṃ vā assavataṃ vā govataṃ vā kukkuravataṃ vā kākavataṃ vā vāsudevavataṃ vā baladevavataṃ vā puṇṇabhaddavataṃ vā maṇibhaddavataṃ vā aggivataṃ vā nāgavataṃ vā supaṇṇavataṃ vā yakkhavataṃ vā asuravataṃ vā gandhabbavataṃ vā mahārājavataṃ vā candavataṃ vā suriyavataṃ vā indavataṃ vā brahmavataṃ vā devavataṃ vā disāvataṃ vā ādāya samādāya ādiyitvā samādiyitvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā upaṭṭhitā paccupaṭṭhitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – vataṃ samādāya upaṭṭhitā se.
Idheva sikkhema athassa suddhin ’ti – Idhā ’ti sakāya diṭṭhiyā sakāya khantiyā sakāya ruciyā sakāya laddhiyā. Sikkhemā ’ti sikkhema ācarema samācarema samādāya vattemā ’ti – idheva sikkhema. Athassa suddhin ’ti athassa suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttin ’ti – idheva sikkhema athassa suddhiṃ.
Bhavūpanītā kusalāvadānā ’ti – Bhavūpanītā ’ti bhavūpanītā bhavūpagatā bhavajjhositā bhavādhimuttā ’ti – bhavūpanītā. Kusalāvadānā ’ti kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – bhavūpanītā kusalāvadānā.
Tenāha bhagavā: “Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ vataṃ samādāya upaṭṭhitā se, idheva sikkhema athassa suddhiṃ bhavūpanītā kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.”
Sace cuto sīlabbatato hoti sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā, sa jappatī patthayaticca suddhiṃ satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.
Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự, kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động, kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch, ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà.
Nếu có ai vi phạm,
Giới hạnh và giới cấm,
Người ấy sẽ run sợ,
Vì sở hành khiếm khuyết.
Ở đây người ấy than,
Cố gắng được thanh tịnh,
Như lữ hành lạc đoàn,
Như kẻ bỏ gia đình.
(Kinh Tập, câu kệ 899)
Sace cuto sīlabbatato hotī ’ti – Dvīhi kāraṇehi sīlabbatato cavati: paravicchindanāya vā cavati, anabhisambhuṇanto vā cati. Kathaṃ paravicchindanāya1 cavati? Paro vicchindati: ‘So satthā na sabbaññū, dhammo na svākkhāto, gaṇo na supaṭippanno, diṭṭhi na bhaddikā, paṭipadā na suppaññattā, maggo na niyyāniko, natthettha suddhi vā visuddhi vā parisuddhi vā mutti vā vimutti vā parimutti vā, natthettha sujjhanti vā visujjhanti vā parisujjhanti vā, muccanti vā vimuccanti vā parimuccanti vā, hīnā nihīnā omakā lāmakā chattakā parittāti; evaṃ paro vicchindati. Evaṃ vicchindiyamāno satthārā cavati, dhammakkhānā cavati, gaṇā cavati, diṭṭhiyā cavati, paṭipadāya cavati, maggato cavati; evaṃ paravicchindanāya cavati. Kathaṃ anabhisambhuṇanto cavati? Sīlaṃ anabhisambhūṇanto sīlato cavati, vataṃ anabhisambhūṇanto vatato cavati, sīlabbataṃ anabhisambhuṇanto sīlabbatato cavati; evaṃ anabhisambhūṇanto cavatī ’ti – sace cuto sīlabbatato hoti.
Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự – Lìa khỏi giới và phận sự bởi hai lý do: lìa khỏi do sự can ngăn của người khác, hoặc là trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi. Lìa khỏi do sự can ngăn của người khác là thế nào? Người khác can ngăn rằng: ‘Vị đạo sư ấy không là đấng toàn tri, pháp không khéo được thuyết giảng, tập thể không khéo được huấn luyện, quan điểm không tốt lành, lối thực hành không khéo được quy định, đạo lộ không dẫn dắt ra khỏi; ở đây không có sự trong sạch, hay sự thanh tịnh, hay sự hoàn toàn trong sạch, hay sự thoát khỏi, hay sự giải thoát, hay sự hoàn toàn thoát khỏi; ở đây không có những người được trong sạch, hay được thanh tịnh, hay được hoàn toàn trong sạch, hay được thoát khỏi, hay được giải thoát, hay được hoàn toàn thoát khỏi; họ thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; người khác can ngăn là như vậy. Trong khi bị can ngăn như vậy rồi lìa khỏi vị đạo sư, lìa khỏi giáo lý, lìa khỏi tập thể, lìa khỏi quan điểm, lìa khỏi lối thực hành, lìa khỏi đạo lộ; – lìa khỏi do sự can ngăn của người khác là như vậy. Trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi là thế nào? Trong khi không thành tựu giới rồi lìa khỏi giới, trong khi không thành tựu phận sự rồi lìa khỏi phận sự, trong khi không thành tựu giới và phận sự rồi lìa khỏi giới và phận sự; trong khi không thành tựu rồi lìa khỏi là như vậy; – ‘nếu đã lìa khỏi giới và phận sự’ là như thế.
Sa vedhati kammaṃ virādhayitvā ’ti – Sa vedhatī ’ti sīlaṃ vā vataṃ vā sīlabbataṃ vā viraddhaṃ mayā, aparaddhaṃ mayā, khalitaṃ mayā, galitaṃ mayā, aññāya aparaddho ahan ’ti vedhati pavedhati sampavedhatī ’ti – sa vedhati.
Kammaṃ virādhayitvā ’ti puññābhisaṅkhāraṃ vā apuññābhisaṅkhāraṃ vā āneñjābhisaṅkhāraṃ vā viraddhaṃ mayā, aparaddhaṃ mayā, khalitaṃ mayā, galitaṃ mayā, aññāya aparaddho ahan ’ti vedhati pavedhati sampavedhatī ’ti – sa vedhati kammaṃ virādhayitvā.
Kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động – Kẻ ấy run rẩy: ‘Ta bị mất mát, ta bị thất bại, ta bị lầm lỡ, ta bị rơi khỏi giới, hoặc phận sự, hay giới và phận sự; ta bị thất bại do không hiểu biết,’ (nghĩ vậy) kẻ ấy run rẩy, run bắn lên, rúng động; – ‘kẻ ấy run rẩy’ là như thế.
Sau khi thất bại về hành động: ‘Ta bị mất mát, ta bị thất bại, ta bị lầm lỡ, ta bị rơi khỏi phúc hành, hoặc phi phúc hành, hoặc bất động hành; ta bị thất bại do không hiểu biết,’ (nghĩ vậy) kẻ ấy run rẩy, run bắn lên, rúng động; – ‘kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động’ là như thế.
Sa jappati patthayaticca suddhin ’ti – Sa jappatī ’ti sīlaṃ vā jappati, vataṃ vā jappati, sīlabbataṃ vā jappati pajappati abhijappatī ’ti – sa jappati.
Patthayaticca suddhin ’ti sīlasuddhiṃ vā pattheti, vatasuddhiṃ vā pattheti, sīlabbatasuddhiṃ vā pattheti piheti abhijappatī ’ti – sa jappati patthayaticca suddhiṃ.
Kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch – Kẻ ấy tham muốn: là tham muốn giới, hoặc tham muốn phận sự, hoặc tham muốn, khởi tham muốn, tham đắm giới và phận sự; – ‘kẻ ấy tham muốn’ là như thế.
Và ước nguyện sự trong sạch: là ước nguyện sự trong sạch về giới, hoặc ước nguyện sự trong sạch về phận sự, hoặc ước nguyện, mong cầu, tham đắm sự trong sạch về giới và phận sự; – ‘kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch’ là như thế.
Satthā va hīno pavasaṃ gharamhā ’ti – Yathā puriso gharato nikkhanto satthena saha vasanto satthā ohīno taṃ vā satthaṃ anubandhati, sakaṃ vā gharaṃ paccāgacchati, evameva so diṭṭhigatiko taṃ vā satthāraṃ gaṇhāti, aññaṃ vā satthāraṃ gaṇhāti, taṃ vā dhammakkhānaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā dhammakkhānaṃ gaṇhāti, taṃ vā gaṇaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā gaṇaṃ gaṇhāti, taṃ vā diṭṭhiṃ gaṇhāti, aññaṃ vā diṭṭhiṃ gaṇhāti, taṃ vā paṭipadaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā paṭipadaṃ gaṇhāti, taṃ vā maggaṃ gaṇhāti, aññaṃ vā maggaṃ gaṇhāti parāmasati abhinivisatī ’ti – satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.
Ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà – Giống như người nam, trong lúc rời khỏi nhà sống cùng đoàn lữ hành và bị rớt lại phía sau đoàn lữ hành, thì: hoặc là đuổi theo đoàn lữ hành ấy, hoặc là trở về lại nhà của mình; tương tự y như thế, kẻ theo tà kiến ấy nắm lấy vị đạo sư ấy hoặc là nắm lấy vị đạo sư khác, nắm lấy giáo lý ấy hoặc là nắm lấy giáo lý khác, nắm lấy tập thể ấy hoặc là nắm lấy tập thể khác, nắm lấy quan điểm ấy hoặc là nắm lấy quan điểm khác, nắm lấy lối thực hành ấy hoặc là nắm lấy lối thực hành khác, nắm lấy đạo lộ ấy hoặc là nắm lấy, bám víu, cố chấp đạo lộ khác; – ‘ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà’ là như thế.
Tenāha bhagavā: “Sace cuto sīlabbatato hoti sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā, sa jappatī patthayaticca suddhiṃ satthā va hīno pavasaṃ gharamhā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Nếu đã lìa khỏi giới và phận sự, kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động, kẻ ấy tham muốn và ước nguyện sự trong sạch, ví như người bị thất lạc với đoàn lữ hành trong khi sống xa nhà.”
Sīlabbataṃ cāpi pahāya sabbaṃ kammañca sāvajjanavajjametaṃ, suddhiṃ asuddhinti apatthayāno virato care santimanuggahāya.
Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự, cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy, trong khi không ước nguyện ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’ đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).
Ðối với giới cấm thủ,
Sau khi đoạn tất cả,
Cùng với các sở hành,
Có tội,không có tội,
Không còn có cố gắng,
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Hãy sống hạnh viễn ly,
Không chấp thủ an tịnh.
(Kinh Tập, câu kệ 900)
Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabban ’ti – Sabbā sīlasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, sabbā vatasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā, sabbā sīlabbatasuddhiyo pahāya pajahitvā vinodetvā vyantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ.
Kammañca sāvajjametan ’ti – Sāvajjakammaṃ vuccati kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ; anavajjakammaṃ vuccati sukkaṃ sukkavipākaṃ. Sāvajjañca kammaṃ anavajjañca kammaṃ pahāya pajahitvā vinodetvā byantīkaritvā anabhāvaṃ gametvā ’ti – kammañca sāvajjametaṃ.
Suddhiṃ asuddhinti apatthayāno ’ti – Asuddhin ’ti asuddhiṃ patthenti, akusale dhamme patthenti.
Suddhin ’ti suddhiṃ patthenti, pañca kāmaguṇe patthenti; asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti, pañcakāmaguṇe patthenti; suddhiṃ patthenti – dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti, asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti; pañcakāmaguṇe patthenti; dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti; suddhiṃ patthenti – tedhātuke kusale dhamme patthenti; asuddhiṃ patthenti – akusale dhamme patthenti, pañca kāmaguṇe patthenti, dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni patthenti; tedhātuke kusale dhamme patthenti, suddhiṃ patthenti puthujjanakalyāṇakā niyāmāvakkantiṃ patthenti; sekhā aggadhammaṃ arahattaṃ patthenti; arahatte patte arahaṃ neva akusale dhamme pattheti, napi pañca kāmaguṇe pattheti, napi dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni pattheti, napi tedhātuke kusale dhamme pattheti, napi niyāmāvakkantiṃ pattheti, napi aggadhammaṃ arahattaṃ pattheti. Patthanāsamatikkanto arahā vuddhiparihāniṃ vītivatto so vutthavāso ciṇṇacaraṇo uttiṇṇajātijarāmaraṇasaṃsāro natthi tassa punabbhavo ’ti – suddhiṃ asuddhinti apatthayāno.
Virato care santimanuggahāyā ’ti – Virato ’ti suddhi-asuddhiyā ārato assa virato paṭivirato nikkhanto nissaṭo vippamutto visaññutto vimariyādīkatena cetasā viharatī ’ti – virato.
Care ’ti careyya vihareyya irīyeyya vatteyya pāleyya yapeyya yāpeyyā ’ti – virato care.
Santimanuggahāyā ’ti santiyo vuccanti dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni; diṭṭhi santiyo agaṇhanto aparāmasanto anabhinivisanto ’ti – virato care santimanuggahāya.
Tenāha bhagavā: “Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ kammañca sāvajjanavajjametaṃ, suddhiṃ asuddhinti apatthayāno virato care santimanuggahāyā ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự, cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy, trong khi không ước nguyện ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’ đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).”
Tamupanissāya jigucchitaṃ vā athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, uddhaṃsarā suddhimanutthunanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.
Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh), hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng nói về sự trong sạch, chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.
Người y chỉ khổ hạnh,
Người y chỉ nhàm chán,
Kẻ dựa vào nghe thấy,
Hay dựa vào thọ tưởng,
Họ là hạng nói lớn,
Tán thán sự thanh tịnh,
Chưa đoạn được tham ái,
Ðối với hữu, phi hữu.
(Kinh Tập, câu kệ 901)
Tamupanissāya jigucchitaṃ vā ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā tapojigucchāvādā tapojigucchāsārā tapojigucchānissitā ānissitā allīnā upagatā ajjhositā adhimuttā ’ti – tamupanissāya jigucchitaṃ vā.
Athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā ’ti – Diṭṭhaṃ vā diṭṭhasuddhiṃ vā sutaṃ vā sutasuddhiṃ vā mutaṃ vā mutasuddhiṃ vā nissāya upanissāya gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā ’ti – athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā.
Uddhaṃsarā suddhimanutthunantī ’ti – Santeke samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā. Katame te samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā? Ye te samaṇabrāhmaṇā accantasuddhikā saṃsārasuddhikā akiriyadiṭṭhikā sassatavādā, ime te samaṇabrāhmaṇā uddhaṃsaravādā, te saṃsārena suddhiṃ visuddhiṃ parisuddhiṃ muttiṃ vimuttiṃ parimuttiṃ thunanti vadanti kathenti bhaṇanti dīpayanti voharantī ’ti – uddhaṃsarā suddhimanutthunanti.
Avītataṇhā se bhavābhavesū ’ti – Taṇhā ’ti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhā.
Bhavābhavesū ’ti – Bhavābhave kammabhave punabbhave, kāmabhave kammabhave, kāmabhave punabbhave, rūpabhave kammabhave, rūpabhave punabbhave, arūpabhave kammabhave, arūpabhave punabbhave, punappunabhave punappunagatiyā punappuna-uppattiyā punappunapaṭisandhiyā punappuna-attabhāvābhinibbattiyā avītataṇhā avigatataṇhā acattataṇhā avantataṇhā amuttataṇhā appahīnataṇhā appaṭinissaṭṭhataṇhā’ ti – avītataṇhā se bhavābhavesu.
Tenāha bhagavā: “Tamupanissāya jigucchitaṃ vā athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā, uddhaṃsarā suddhimanutthunanti avītataṇhā se bhavābhavesū ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng: “Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh), hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng nói về sự trong sạch, chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.”
Patthayamānassa hi jappitāni pavedhitaṃ vāpi pakappitesu, cutūpapāto idha yassa natthi sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe.
Bởi vì người, trong khi ước nguyện, có các sự tham muốn thậm chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có, vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?
Với ai có nỗ lực,
Cầu mong và ham muốn,
Họ mới phải run sợ,
Với những kiến của mình,
Với những ai ở đời,
Không có sanh và chết,
Do gì, khiến họ sợ,
Họ tham vọng cái gì?
(Kinh Tập, câu kệ 902)
Patthayamānassa hi jappitānī ’ti – Patthanā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlaṃ. Patthayamānassā ’ti patthayamānassa icchamānassa sādiyamānassa pihayamānassa abhijappamānassā ’ti – patthayamānassa hi.
Jappitānī ’ti – Jappanā vuccati taṇhā, yo rāgo sārāgo –pe– abhijjhā lobho akusalamūlan ’ti – patthayamānassa hi jappitāni.
Pavedhitaṃ vāpi pakappitesū ’ti – Pakappanā ’ti dve pakappanā: taṇhāpakappanā ca diṭṭhipakappanā ca –pe– ayaṃ taṇhāpakappanā –pe– ayaṃ diṭṭhipakappanā.
Pavedhitaṃ vāpi pakappitesū ’ti – Pakappitaṃ vatthuṃ acchedasaṅkinopi vedhenti, acchindantepi vedhenti, acchinnepi vedhenti; pakappitaṃ vatthuṃ vipariṇāmasaṅkinopi vedhenti, vipariṇāmantepi vedhenti, vipariṇatepi vedhenti pavedhenti sampavedhentī ’ti – pavedhitaṃ vāpi pakappitesu.
Cutūpapato idha yassa natthī ’ti – Yassā ’ti arahato khīṇāsavassa; yassa gamanaṃ āgamanaṃ gamanāgamanaṃ kālaṃ gati bhavābhavo cuti ca upapatti ca nibbatti ca bhedo ca jātijarāmaraṇañca natthi na santi na saṃvijjanti nūpalabbhanti pahīnā samucchinnā vūpasantā paṭippassaddhā abhabbuppattikā ñāṇagginā daḍḍhā ’ti – cutūpapāto idha yassa natthi.
Sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe ’ti – So kena rāgena vedheyya, kena dosena vedheyya, kena mohena vedheyya, kena mānena vedheyya, kāya diṭṭhiyā vedheyya, kena uddhaccena vedheyya, kāya vicikicchāya vedheyya, kehi anusayehi vedheyya, rattoti vā duṭṭhoti vā mūḷhoti vā vinibaddhoti vā parāmaṭṭhoti vā vikkhepagatoti vā aniṭṭhaṅgatoti vā thāmagatoti vā. Te abhisaṅkhārā pahīnā; abhisaṅkhārānaṃ pahīnattā gatiyā kena vedheyya, nerayikoti vā tiracchānayonikoti vā pettivisayikoti vā manussoti vā devoti vā rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā. So hetu natthi, paccayo natthi, kāraṇaṃ natthi, yena vedheyya pavedheyya sampavedheyyā ’ti – sa kena vedheyya.
Kuhiṃ va jappe ’ti kuhiṃ vā jappeyya, kimhi jappeyya, kattha jappeyya pajappeyya abhijappeyyā ’ti – sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe.
Tenāha bhagavā: “Patthayamānassa hi jappitāni pavedhitaṃ vāpi pakappitesu, cutūpapāto idha yassa natthi
sa kena vedheyya kuhiṃ va jappe ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Bởi vì người, trong khi ước nguyện, có các sự tham muốn
thậm chí còn có sự run sợ về các điều đã được xếp đặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có,
vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?”
Yamāhu dhammaṃ paramanti eke tameva hīnanti panāhu aññe, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva hime kusalāvadānā.
Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối thắng,’ trái lại, những vị khác đã nói về pháp ấy là ‘thấp kém;’ vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật, bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?
Người hỏi:
Có những người tuyên bố,
Pháp này là tối thượng,
Nhưng người khác lại nói,
Pháp ấy là hạ liệt.
Ai nói lời chân thật,
Giữa hai hạng người này,
Hay tất cả hạng này,
Ðều là hạng khéo nói?
(Kinh Tập, câu kệ 903)
Yamāhu dhammaṃ paramanti eke ’ti – Yaṃ dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘idaṃ paramaṃ aggaṃ seṭṭhaṃ visiṭṭhaṃ pāmokkhaṃ uttamaṃ pavaran ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – yamāhu dhammaṃ paramanti eke.
Tameva hīnanti panāhu aññe ’ti – Tameva dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘hīnaṃ etaṃ nihīnaṃ etaṃ omakaṃ etaṃ lāmakaṃ etaṃ chattakaṃ etaṃ parittakaṃ etan ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – tameva hīnanti panāhu aññe.
Sacco nu vādo katamo imesan ’ti – Imesaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ vādo katamo sacco taccho tathā bhūto yāthāvo aviparīto ’ti – sacco nu vādo katamo imesaṃ.
Sabbeva hime kusalāvadānā ’ti – Sabbevime samaṇabrāhmaṇā kusalavādā paṇḍitavādā thiravādā ñāyavādā hetuvādā lakkhaṇavādā kāraṇavādā ṭhānavādā sakāya laddhiyā ’ti – sabbeva hime kusalāvadānā.
Tenāha so nimmito: “Yamāhu dhammaṃ paramanti eke tameva hīnanti panāhu aññe, sacco nu vādo katamo imesaṃ sabbeva hime kusalāvadānā ”ti.
Vì thế, vị (Phật) do thần thông biến hóa ra đã hỏi rằng: “Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối thắng,’ trái lại, những vị khác đã nói về pháp ấy là ‘thấp kém;’ vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật, bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?”
Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu, evampi viggayha vivādayanti
sakaṃ sakaṃ sammutim āhu saccaṃ.
Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo, hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.
Với pháp tự của mình,
Nói pháp này viên mãn
Chỉ trích pháp người khác,
Là thấp kém hạ liệt,
Do chấp thủ như vậy,
Họ luận tranh đấu tranh,
Mọi thế tục tự mình,
Họ nói là chân thật.
(Kinh Tập, câu kệ 904)
Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhū ’ti – Sakaṃ hi dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘idaṃ samattaṃ paripuṇṇaṃ anoman ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu.
Aññassa dhammaṃ pana hīnamāhū ’ti – Aññassa dhammaṃ diṭṭhiṃ paṭipadaṃ maggaṃ eke samaṇabrāhmaṇā ‘hīnaṃ etaṃ nihīnaṃ etaṃ omakaṃ etaṃ lāmakaṃ etaṃ chattakaṃ etaṃ parittakaṃ etan ’ti evamāhaṃsu, evaṃ kathenti, evaṃ bhaṇanti, evaṃ dīpayanti, evaṃ voharantī ’ti – aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu.
Evampi viggayha vivādayantī ’ti – Evaṃ gahetvā uggahetvā gaṇhitvā parāmasitvā abhinivisitvā vivādayanti, kalahaṃ karonti, bhaṇḍanaṃ karonti, viggahaṃ karonti, vivādaṃ karonti, medhagaṃ karonti ‘na tvaṃ imaṃ dhammavinayaṃ ājānāsi –pe– nibbeṭhehi vā sace pahosī ’ti – evampi viggayha vivādayanti.
Sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccan ’ti – ‘Sassato loko idameva saccaṃ moghamaññan ’ti sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ. ‘Asassato loko –pe– Neva hoti na na hoti tathāgato parammaraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan ’ti – sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ.
Tenāha bhagavā: “Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu, evampi viggayha vivādayanti sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccan ”ti.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Chúng đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo, hơn nữa, chúng đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.”
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Đại Diễn Giải“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Đại Diễn Giải” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda