XV. VĪSATINIPĀTO – NHÓM HAI MƯƠI KỆ NGÔN (tiếp theo)
Nguồn: Tam Tạng Pāli – Sinhala thuộc Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS)
Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda
8. BHALLĀṬIYAJĀTAKAṂ
8. BỔN SANH VUA BHALLĀṬIYA
504. Chuyện Ðại vương Bhallàtiya
(Tiền thân Bhallàtiya)
2514. Bhallāṭiyo nāma ahosi rājā raṭṭhaṃ pahāya migavaṃ acāri so, agamā girivaraṃ gandhamādanaṃ
sampupphitaṃ kimpurisānuciṇṇaṃ.
2514. Xưa có vị vua tên là Bhallāṭiya. Vị vua ấy đã bỏ bê xứ sở đi săn thú. Đức vua đã đi đến ngọn núi cao quý Gandhamādana được trổ đầy hoa, được lui tới bởi loài nhân điểu.
1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
2515. Sālūra saṅghañca nisedhayitvā dhanuṃ kalāpañca so nikkhipitvā, upāgami vacanaṃ vattukāmo
yatthaṭṭhitā kimpurisā ahesuṃ.
2515. Và sau khi ngăn lại bầy chó săn, đức vua đã đặt cây cung và bó tên xuống. Với ý định thốt lên lời thăm hỏi, đức vua đã đi đến gần nơi có hai nhân điểu đang đứng.
2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
Ðặt các cung tên xuống đất liền,
Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
2516. Himaccaye hemavatāya tīre kimidhaṭṭhitā mantayavho abhiṇhaṃ, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kathaṃ vo jānanti manussaloke.
2516. “Khi mùa đông đã qua đi, có phải hai ngươi thường đứng tâm sự ở đây, bên bờ sông Hemavatā? Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của con người, ở thế giới nhân loại, người ta nhận biết hai ngươi như thế nào?”
3. “Ðông đã qua, sao lại trở về
Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
Người gọi loài gì, nói trẫm nghe”.
2617. Mallaṃ giriṃ paṇḍarakaṃ tikūṭaṃ sītodiyā anuvicarāma najjo, migā manusasāva nibhāsavaṇṇā
jānanti no kimpurisāti ludda.
2517. “Thưa thợ săn, chúng tôi đi du ngoạn đến núi Malla, đến các con sông Paṇḍaraka và Tikūṭa có nước mát lạnh. Chúng tôi là loài thú, có bề ngoài và dáng vóc tựa như con người; người ta nhận biết chúng tôi là ‘loài nhân điểu.’”
4. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
Chúng thần men suối mát, băng qua,
Thú rừng cứ tưởng là người thật,
Song bọn đi săn gọi quỷ ma.
2518. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane rodatha appatītā.
2518. “Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, khóc lóc ở đây, trong khu rừng?
5. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
Song lại khóc than thật não nùng,
Tiên chúng giống như người thế tục,
Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
2519. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane vilapatha appatītā.
2519. Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, kể lể ở đây, trong khu rừng?
6. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
Song khóc đầy ai oán thảm thương,
Ðôi lứa khác nào người thế tục,
Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
2520. Sukiccharūpaṃ paridevayavho āliṅgito cāsi piyo piyāya, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe
kimidha vane socatha appatītā.
2520. Là người yêu được người yêu ôm ấp, mà hai ngươi than van có vẻ vô cùng khổ sở. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, việc gì hai ngươi lại ủ rũ, sầu muộn ở đây, trong khu rừng?”
7. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
Song lời than khóc thật lê thê,
Các ngươi trông giống người trần tục,
Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!
2521. Mayamekarattiṃ vippavasimha ludda akāmakā aññamaññaṃ sarantā, tamekarattiṃ anutappamānā socāma sā ratti punaṃ na hessati.
2521. “Thưa thợ săn, chúng tôi đã sống xa nhau một đêm một cách miễn cưỡng. Trong khi nhớ nhung lẫn nhau, trong khi hối tiếc một đêm ấy, chúng tôi sầu muộn (ước rằng): ‘Đêm ấy sẽ không xảy ra lần nữa.’” 8. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
Không tình ân ái, nặng u sầu,
Tương tư, song chẳng bao giờ có
Ðêm ấy trở về được nữa đâu.
2522. Yamekarattiṃ anutappathetaṃ dhanaṃ va naṭṭhaṃ pitaraṃ va petaṃ, pucchāmi vo mānusadehavaṇṇe kathaṃ vināvāsamakappayittha.
2522. “Hai ngươi hối tiếc một đêm ấy tựa như hai ngươi tiếc nuối tài sản bị mất mát, hay tiếc nuối người cha đã qua đời. Ta hỏi hai ngươi, những kẻ có cơ thể và dáng vóc của loài người, như thế nào hai ngươi đã phải chịu cuộc sống xa cách?”9. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
Ðôi trẻ giống như người thế tục
Mất tiền, hay lão phụ từ trần?
2523. Yayimaṃ nadiṃ passasi sīghasotaṃ nānādumacchadanaṃ selakūṭaṃ, tamme piyo uttari vassakāle
mamañca maññaṃ anubandhatīti.
2523. “Ngài hãy nhìn xem con sông này, có dòng nước chảy xiết giữa hai bờ đá, có sự che khuất bởi nhiều loại cây cối. Vào lúc trời mưa, người yêu của thiếp đã vượt qua con sông ấy, trong lúc nghĩ về thiếp rằng: ‘Nàng ấy bước theo sau.’10. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
Nên tình quân đã lội qua bờ.
2524. Ahañca aṅkolakaṃ ocināmi atimuttakaṃ sattaliyothikañca, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.
2524. Còn thiếp bận thu hái các loại hoa aṅkolaka này, hoa atimuttaka, hoa sattali, và hoa yothika, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’
11. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
2525. Ahañcidaṃ kuravakaṃ ocināmi uddālakā pāṭalisinduvārakā, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.
2525. Rồi thiếp thu hái các loại hoa kuravaka, hoa uddālakā, hoapāṭali, hoa sinduvāraka, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’
12. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
2526. Ahañca sālassa supupphitassa oceyya pupphāni karomi mālaṃ, piyo ca me hohiti mālabhārī
ahañca naṃ mālinī ajjhupessaṃ.
2526. Và sau khi thu hái các bông hoa của cây sāla khéo được nở rộ, thiếp làm tràng hoa, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ đeo tràng hoa, và ta cũng sẽ đeo tràng hoa rồi đi đến bên chàng.’
13. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
Ðể kết liền cho chàng với thiếp
Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
2527. Ahañca sālassa supupphitassa oceyya pupphāni karomi bhāraṃ, idañca no hohiti santharatthaṃ
yatthajjamaṃ viharissāmu rattiṃ.
2527. Và sau khi thu hái các bông hoa của cây sāla khéo được nở rộ, thiếp làm thành đống (nghĩ rằng): ‘Cái này sẽ dùng làm tấm trải cho chúng ta, là nơi mà hôm nay chúng ta sẽ sống qua đêm này.’
14. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
Về trải đầy trên mặt đất mềm
Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
2528. Ahaṃ ca kho agaḷuṃ candanañca silāya piṃsāmi pamattarūpā, piyo ca me hohiti rositaṅgo
ahañca na rositā ajjhupessaṃ.
2528. Và thiếp nghiền quế và trầm hương ở tảng đá cho đến khi nát vụn, (nghĩ rằng): ‘Người yêu của ta sẽ có thân thể được tẩm hương, và ta cũng sẽ được tẩm hương rồi đi đến bên chàng.’
15. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
2529. Athāgamā salilaṃ sīghasotaṃ nudaṃ sāle salaḷe kaṇṇikāre,apūratha tena muhuttakena
sāyaṃ nadī āsi mayā suduttarā.
2529. Sau đó, thiếp đã đi đến con sông có dòng nước chảy xiết, mang theo các loại bông hoa sāla, hoa salaḷa, hoa kaṇṇikāra. Trong khoảnh khắc ấy, con sông này đã tràn đầy; nó đã trở nên vô cùng khó vượt qua đối với thiếp. 16. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
2530. Ubhosu tīresu mayaṃ tadā ṭhitā sampassantā ubhayo aññamaññaṃ, sakimpi rodāma sakiṃ hasāma kicchena no agamā saṃvarī sā.
2530. Khi ấy, cả hai chúng tôi đứng ở hai bên bờ sông, người này nhìn người kia. Thậm chí, chúng tôi đã cùng khóc, chúng tôi đã cùng cười. Đối với chúng tôi, đêm ấy đã qua đi một cách khó khăn.
17. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
2531. Pāto ca kho uggate sūriyamhi catukkaṃ nadiṃ uttariyāna ludda, āliṅgiyā aññamaññaṃ mayaṃ ubho sakimpi rodāma sakiṃ hasāma.
2531. Rồi vào buổi sáng, khi mặt trời đã mọc lên, sau khi vượt qua con sông cạn khô, thưa thợ săn, cả hai chúng tôi đã ôm ấp lẫn nhau. Thậm chí, chúng tôi đã cùng khóc, chúng tôi đã cùng cười.18. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
Khi nhìn con suối cạn khô mau,
Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
2532. Tīhūnakaṃ satta satāni ludda yamidha mayaṃ vippavasimha pubbe, vāsekimaṃ jīvitaṃ bhūmipāla
konīdha kantāya vinā vaseyya.
2532. Thưa thợ săn, thiếu ba năm nữa là đủ bảy trăm, ở nơi này, trước đây chúng tôi đã sống xa nhau. Tâu đấng hộ quốc, vậy người nào ở nơi đây có thể sống cuộc sống này thiếu vắng người vợ một năm?”19. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!
2533. Āyuñca vo kīvatako nu samma sacepi jānātha vadetha āyuṃ,anussavā vaddhato āgamā vā
akkhātha me taṃ avikampamānā.
2533. “Này các bạn, vậy tuổi thọ của các bạn là bao nhiêu? Nếu các bạn biết, xin các bạn hãy nói về tuổi thọ (của các bạn) theo truyền thuyết, hay do sự truyền thừa từ bậc trưởng thượng. Xin các bạn hãy trả lời cho trẫm điều ấy, không phải run sợ.”
20. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.
2534. Āyuñca no vassasahassaṃ ludda na cantarā pāpako atthi rogo, appañca dukkhaṃ sukhameva bhiyyo avītarāgā vijahāma jīvitaṃ.
2534. “Thưa thợ săn, tuổi thọ của chúng tôi là một ngàn năm, trong khoảng thời gian ấy không có tai họa, không có bệnh hoạn, ít khổ đau, còn hạnh phúc thì vượt trội. Chúng tôi lìa bỏ mạng sống, với sự luyến ái còn chưa vơi.”
21. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!
2535. Idañca sutvāna amānusānaṃ bhallāṭiyo ittaraṃ jīvitanti, nivattatha na migavadhaṃ acāri
adāsi dānāni abhuñji bhoge.
2535. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, đức vua Bhallāṭiya (nghĩ rằng): ‘Mạng sống là ngắn ngủi,’ rồi đã quay trở về, đã không đi săn thú, đã ban phát các vật thí, đã thọ hưởng các của cải.
22. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
Ðại vương trở lại bước đường ngay,
Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.
2536. Idañca sutvāna amānusānaṃ
sammodatha mā kalahaṃ akattha,
mā vo tapī attakammāparādho
yathāpi te kimpurisekarattiṃ.
2536. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, các vị hãy hòa thuận với nhau, chớ gây ra sự cãi cọ. Các vị chớ có sự hối tiếc, chớ có lỗi lầm ở hành động của bản thân. các vị cũng chớ có giống như câu chuyện một đêm (xa cách) của loài nhân điểu.
23. Rút ra bài học của tiên kia,
Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
2537. Idañca sutvāna amānusānaṃ
sammodatha mā vivādaṃ akattha,
mā vo tapī attakammāparādho
yathāpi te kimpurisekarattiṃ.
2537. Và sau khi nghe được điều này của hai phi nhân, các vị hãy hòa thuận với nhau, chớ gây ra sự tranh cãi. Các vị chớ có sự hối tiếc, chớ có lỗi lầm ở hành động của bản thân. các vị cũng chớ có giống như câu chuyện một đêm (xa cách) của loài nhân điểu.”
24. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.
2538. Vividha -adhimanā suṇomahaṃ vacanapathaṃ tava atthasaṃhitaṃ, muñca giraṃ nudaseva me daraṃ samaṇa sukhāvaha jīva me ciranti.
2538. “Thiếp chú tâm lắng nghe phương thức trình bày của Ngài, có tính đa dạng, liên hệ đến lợi ích. Trong khi cất lên giọng nói, Ngài đã xua đi nỗi lo lắng của thiếp. Thưa vị Sa-môn, thưa bậc đem lại sự an lạc cho thiếp, cầu mong Ngài sống lâu.”
25. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
Con nghe được các lời vàng,
Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!
Bhallāṭiyajātakaṃ.
***
Bổn sanh Vua Bhallāṭiya. [504]
***
9. SOMANASSAJĀTAKAṂ
9. BỔN SANH HOÀNG TỬ SOMANASSA
505. Chuyện vương tử hoan lạc
(Tiền thân Somanassa)
2539. Ko taṃ hiṃsati heṭheti
kiṃ dummano socasi appatīto,
kassajja mātāpitaro rudantu
kvajja setu nihato pathavyā.
2539. “Người nào hãm hại và xúc phạm ngài? Tại sao ngài lại có vẻ buồn bã, ủ rũ, và sầu muộn? Hôm nay, cha mẹ của người nào phải khóc lóc? Hôm nay, người nào bị đánh đập, phải nằm dài ở mặt đất?”
1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
Ðất này ai lại xuống nằm lê?
2540. Tuṭṭhosmi deva tava dassanena cirassa passāmi taṃ bhūmipāla, ahiṃsako reṇumanuppavissa
puttena te heṭhayitosmi deva.
2540. “Tâu bệ hạ, thần được vui mừng do việc nhìn thấy bệ hạ. Tâu đấng hộ quốc, lâu nay thần không gặp bệ hạ. Tâu bệ hạ, thần là người không hãm hại, mà Reṇu, con trai của bệ hạ, đã đột nhập và xúc phạm thần.”
2. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
Thái tử vừa đi thăm lão đó,
Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!
2541. Āyantu dovārikā khaggabaddhā, kāsāviyā yantu antepuraṃ taṃ, gantvāna taṃ somanassaṃ kumāraṃ chetvāna sīsaṃ varamāharantu.
2541. “Các ngự lâm quân mang gươm hãy lại đây. Các đao phủ hãy đi đến hậu cung kia. Các ngươi hãy giết chết hoàng tử Somanassa ấy, hãy chặt đứt cái đầu cao quý rồi mang lại.”
3. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
Ðem đầu cao quý đến đây giao!
2542. Pesitā rājino dūtā kumāraṃ etadabravuṃ, issarena vitiṇṇosi vadhappattosi khattiya.
2542. Các sứ giả của đức vua được phái đi đã nói điều này với vị hoàng tử: “Tâu vị Sát-đế -lỵ, ngài đã bị chúa thượng phế bỏ, ngài đã phạm tội chết.”
4. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
“Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!”.
2543. Sa rājaputto paridevayanto dasaṅguliṃ añjaliṃ paggahetvā, ahampi icchāmi janinda daṭṭhuṃ
jīvaṃ panetvā paṭidassayātha.
2543. Vị hoàng tử ấy, trong lúc than khóc, đã chắp lại mười ngón tay đưa lên (nói rằng): “Ta cũng muốn gặp vị chúa của loài người. Các ngươi hãy dẫn ta đi trong lúc ta còn sống. Các ngươi hãy để ta diện kiến phụ vương.”
5. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
“Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?”
2544. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rañño puttaṃ adassayuṃ, putto ca pitaraṃ disvā dūratovajjhabhāsatha
2544. Sau khi nghe lời nói ấy của vị hoàng tử, họ đã để cho hoàng tử gặp đức vua. Và người con trai, sau khi nhìn thấy vua cha, từ đàng xa đã thưa rằng:
6. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
2545. Āgañchuṃ dovārikā khaggabaddhā kāsāviyā hantu mamaṃ janinda, akkhāhi me pucchito etamatthaṃ aparādho konidha mamajja atthi.
2545. “Các ngự lâm quân mang gươm và các đao phủ đã đi đến để giết chết con. Tâu vị chúa của loài người, được hỏi về sự việc này, xin cha hãy nói cho con. Hôm nay, con có lỗi lầm gì ở đây?”
7. “Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
Con đã làm nên tội lỗi nào?”.
2546. Sāyañca pāto udakaṃ sajāti aggiṃ sadā paricaratappamatto, taṃ tādisaṃ saṃyataṃ brahmacāriṃ
kasmā tuvaṃ brūsi gahapatīti.
2546. “Là người sáng và chiều lội xuống nước (rửa tội), luôn luôn thờ phượng ngọn lửa, không xao lãng, vì sao con lại gọi vị ấy, bậc đã thu thúc, có Phạm hạnh như thế ấy, là ‘gia chủ’?”
8. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
Hãy trả lời ta, sao lại dám
Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?
2547. Tālā ca mūlā ca phalā ca deva pariggahā vividhā santimassa, te rakkhati gopayatappamatto
brāhmaṇo gahapati tena hoti.
2547. “Tâu phụ vương, các rau cải, các rễ củ, và các trái cây là các vật sở hữu nhiều loại của người này. Gã bảo vệ, gìn giữ chúng, không xao lãng; vì việc ấy, vị Bà-la-môn trở thành người gia chủ.”
9. Lão có nhiều cây với trái đầy,
Phụ vương xem đủ sắn khoai này
Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.
2548. Saccaṃ kho etaṃ vadasi kumāra pariggahā vividhā santimassa, te rakkhati gopayatappamatto
brāhmaṇo gahapati tena hoti.
2548. “Này hoàng tử, điều con nói ấy quả là sự thật. Người này có các vật sở hữu nhiều loại. Gã bảo vệ, gìn giữ chúng, không xao lãng; vì việc ấy, vị Bà-la-môn trở thành người gia chủ.”
10. Ðúng là lão có thật nhiều cây
Với các loại rau, củ trái đầy,
Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.
2549. Suṇantu mayhaṃ parisā samāgatā sanegamā jānapadā ca sabbe, bālāyaṃ bālassa vaco nisamma
ahetunā ghātayate janindo.
2549. “Này các đồ chúng đã tụ tập lại, cùng các thị dân, và tất cả dân chúng, các người hãy lắng nghe ta: ‘Người này là kẻ ngu; sau khi nghe theo lời nói của kẻ ngu, vị chúa của loài người ra lệnh giết hại không có nguyên nhân.
11. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
Khiến người vô tội phải vong thân.
2550. Daḷhasmi mūle visate virūḷhe dunnikkhayo veḷu pasākhajāto, vandāmi pādāni tavaṃ janinda
anujāna maṃ pabbajissāmi deva.
2550. Khi phần rễ được vững chắc, đã được lan rộng, đã được lớn mạnh, cây tre đã mọc nhánh thì khó dời đi. Tâu vị chúa của loài người, con xin đảnh lễ các bàn chân của người. Tâu bệ hạ, xin cha hãy cho phép con. Con sẽ xuất gia.”
12. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
Con cúi mình đây xin phép được
Giã từ thế tục để lên đường.
2551. Bhuñjassu bhoge vipulaphale kumāra sabbañca te issariyaṃ dadāmi, ajjeva tvaṃ kurunaṃ hohi rājā
mā pabbaji pabbajjā hi dukkhā.
2551. “Này hoàng tử, con hãy hưởng thụ các của cải có hiệu quả lớn lao, và trẫm ban cho con toàn bộ vương quyền. Ngay hôm nay, con hãy là đức vua của xứ Kuru. Con chớ có xuất gia, bởi vì xuất gia là khổ.”
13. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!
2552. Kinnūdha deva tavamatthi bhogo pubbevahaṃ devaloke ramissaṃ, rūpehi saddehi atho rasehi
gandhehi phassehi manoramehi.
2552. “Tâu bệ hạ, vậy có cái gì ở nơi này là vật hưởng thụ của bệ hạ? Trước đây, ở thế giới chư Thiên, con đã vui sướng với các sắc, với các thinh, rồi với các vị, với các hương, với các xúc, với các pháp làm thích ý.
14. Trần thế này đem lạc thú nào?
Khi xưa con đã ở trời cao,
Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
2553. Bhuttā me bhogā tidivasmi deva parivāritā accharānaṃ gaṇena, tuvañca bālaṃ paraneyyaṃ viditvā na tādise rājakule vaseyyaṃ.
2553. Tâu bệ hạ, con đã hưởng thụ ở cõi Trời các của cải được vây quanh bởi đoàn tiên nữ. Và sau khi biết được quyền lực của bệ hạ có thể bị người khác lèo lái, con không nên sống ở gia đình vua chúa như thế ấy.”
15. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
Với phụ vương là vua yếu kém,
Con không muốn ở nữa bây giờ.
2554. Sacāhaṃ bālo paraneyyohamasmi ekāparādhaṃ khama putta mayhaṃ, punāpi ce edisakaṃ bhaveyya yathāmati somanassaṃ karohi.
2554. “Nếu trẫm là kẻ ngu, nếu trẫm là có thể bị người khác lèo lái, này con trai, hãy tha thứ cho trẫm một lần lầm lỗi. Nếu việc như thế này xảy ra lần nữa, này Somanassa, con hãy làm theo ý nghĩ của con.”
16. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
Tha thứ cha nay việc đã làm,
Giả sử cha còn làm việc ấy,
Cha tùy con định, chẳng kêu than.
2555. Anisamma kataṃ kammaṃ anavatthāya cintitaṃ, bhesajjasseva vebhaṅgo vipāko hoti pāpako.
2555. “Hành động đã được làm không suy xét trước, đã được suy nghĩ không cân nhắc, tựa như sự thất bại của phương thuốc, kết quả đạt được là xấu xa.
17. Hành động không suy nghĩ trước sau,
Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
Hậu quả ắt là phải khổ đau.
2556. Nisamma ca kataṃ kammaṃ sammāvatthāya cintitaṃ, bhesajjasseva sampatti vipāko hoti bhadrako.
2556. Và hành động đã được làm sau khi suy xét, đã được suy nghĩ sau khi cân nhắc đúng đắn, tựa như sự thành công của phương thuốc, kết quả đạt được là tốt đẹp.
18. Hành động nào suy tính thật lâu,
Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
2557. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī
yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.
2557. Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt. Bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt. Vị vua có hành động không suy xét, là không tốt. Người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.
19. Con chán ghét người ở thế gian
Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
Người tu khổ hạnh hư danh đó
Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
Một vị hôn quân thường xử án
Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
2558. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma dipampati, nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhati.
2558. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi suy xét. Bậc chúa tể một phương không thể không suy xét. Tâu bệ hạ, người hành động sau khi suy xét có danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.
20. Một vị vua xem xét kỹ càng
Rồi ban lời phán xử công bằng,
Khi vua cân nhắc lời phân xử,
Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
2559. Nisamma daṇḍaṃ paṇayeyya issaro vegākataṃ tapate bhūmipāla, sammāpaṇidhi ca narassa atthā
anānutappā te bhavanti pacchā.
2559. Tâu đấng hộ quốc, vị quân vương nên ấn định hình phạt sau khi đã suy xét. Việc đã được làm một cách vội vã làm cho bực bội. Và các quyết định đúng đắn vì lợi ích của con người sẽ không là các nỗi hối tiếc cho bệ hạ về sau này.
21. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
Phải được đắn đo thật kỹ càng
Những việc làm trong lúc vội vã
Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
2560. Anānutappāni hi ye karonti vibhajja kammāyatanāni loke, viññuppasatthāni sukhudrayāni
bhavanti vaddhānumatāni tāni.
2560. Bởi vì những người nào, sau khi đã phân tích các loại nghiệp ở thế gian, rồi làm các việc không gây ra sự hối tiếc, các việc ấy được khen ngợi bởi những vị hiểu biết, là các nguồn tạo ra sự an lạc, được tán thành bởi các bậc trưởng thượng.
22. Những người có việc phải thi hành,
Muốn chẳng gây ân hận với mình
Thường đắn đo bao điều thận trọng,
Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
2561. Āgañchuṃ dovārikā khaggabaddhā kāsāviyā hantu mamaṃ janinda, mātu ca aṅkasmiṃ ahaṃ nisinno ākaḍḍhito sahasā tehi deva.
2561. Tâu vị chúa của loài người, các ngự lâm quân mang gươm và các đao phủ đã đi đến để giết chết con. Và tâu bệ hạ, con đang ngồi bên cạnh mẫu hậu thì đã bị bọn chúng lôi đi bằng bạo lực.
23. Cha thét: “Kìa đao phủ, hãy mau!
Ði tìm vương tử của ta nào,
Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!”
Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
2562. Kaṭukamhi sambādhaṃ sukicchapatto madhuraṃ piyaṃ jīvitaṃ laddhu rāja, kicchenāhaṃ ajja vadhā pamutto pabbajjamevābhimanohamasmi.
2562. Tâu bệ hạ, con đã gặp phải sự trở ngại cay đắng, vô cùng đau đớn, để đạt được mạng sống ngọt ngào, yêu quý. Hôm nay, con được thoát khỏi cái chết một cách khó khăn. Con có ý dứt khoát về việc xuất gia.”
24. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
Con rời thế, chẳng sống nơi đây.
2563. Putto tavāyaṃ taruṇo sudhamme anukampako somanasso kumāro,taṃ yācamāno na labhāmi sajja arahāsi naṃ yācitave tuvampi.
2563. “Này hoàng hậu Sudhammā, người con trai này của nàng, hoàng tử Somanassa, còn trẻ, và có lòng thương xót. Hôm nay, trong khi nó cầu xin điều ấy, trẫm đây không chấp nhận. Nàng cũng thích hợp để thuyết phục con (bỏ ý định xuất gia).”
25. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
Quí tử So-ma bao khả ái;
Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.
2564. Ramassu bhikkhācariyāya putta nisamma dhammesu paribbajassu,sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ anindito brahmamupehi ṭhānaṃ.
2564. “Này con trai, con hãy vui thích việc thực hành khất thực. Sau khi suy xét về các pháp, con hãy xuất gia. Sau khi dẹp bỏ hình phạt đối với tất cả chúng sanh, con không bị chê trách, con hãy tiến đến vị thế Phạm thiên.”
26. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
Ai giữa quần sinh không độc ác
Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.
2565. Acchariyarūpaṃ vata yādisañca dukkhitaṃ maṃ dukkhāpayase sudhamme, yācassu puttaṃ iti vuccamānā
bhiyyova ussāhayase kumāraṃ.
2565. “Điều như thế này có vẻ kỳ lạ thật đấy! Này hoàng hậu Sudhammā, trẫm đang khổ, nàng lại khiến cho trẫm phải khổ. Trong khi được nói rằng: ‘Nàng hãy thuyết phục con trai (bỏ ý định xuất gia),’ nàng còn khuyến khích hoàng tử thêm nữa.”
27. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
Sầu đang chất ngất ở trong mình,
Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.
2566. Ye vippamuttā anavajjabhojino, parinibbutā lokamimaṃ caranti, tamariyamaggaṃ paṭipajjamānaṃ
na ussahe vārayituṃ kumāraṃ.
2566. “Các vị nào đã được giải thoát, có sự thọ hưởng không bị chê trách, đã được hoàn toàn diệt tắt, đang sống ở thế gian này, thiếp không ra sức để ngăn cản hoàng tử thực hành đạo lộ cao thượng của các vị ấy.
28. Có hạng người không đắm dục tham,
Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
Thì hoài công cản bước hoàng nam.
2567. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, yesāyaṃ sutvāna subhāsitāni
appossukkā vītasokā sudhammā ”ti.
2567. Quả thật, đúng vậy, các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực nên được thân cận. Sau khi lắng nghe những lời thiện thuyết của các vị này, thiếp đây ít ham muốn, không còn sầu muộn, có thiện pháp.”
29. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
Ái hậu từng nghe các diệu âm,
Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
Nên không còn khổ não, tham lam.
Somanassajātakaṃ.
***
Bổn sanh Hoàng Tử Somanassa. [505]
***
10. CAMPEYYAJĀTAKAṂ
10. BỔN SANH RỒNG CHÚA CAMPEYYA
506. Chuyện long vương Campeyya
(Tiền thân Campeyya)
2568. Kā nu vijjurivābhāsi osadhī viya tārakā, devatā nusi gandhabbī na taṃ maññāmi mānusiṃ.
2568. “Người nữ nào chiếu sáng tựa như tia chớp, tựa như ngôi sao osadhī? Có phải nàng là vị Thiên nhân, hay nữ Càn-thát-bà? Trẫm không nghĩ rằng nàng là loài người.”
1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
Ta chắc nàng không phải thế nhân?
2569. Namhi devī na gandhabbī na mahārāja mānusī, nāgakaññamhi bhaddante atthenamhi idhāgatā.
2569. “Thưa đại vương, thiếp không phải là Thiên nữ, không phải nữ Càn-thát-bà, không phải loài người. Thưa bậc đức độ, thiếp là con gái của loài rồng. Vì công việc mà thiếp đã đi đến nơi này.”
2. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
Ðến đây vì có việc cầu ân.
2570. Vibbhantacittā kupitindriyāsi nettehi te vārigaṇā savanti, kinte naṭṭhaṃ kimpana patthayānā idhāgatā nāri tadiṅgha brūhi.
2570. “Nàng có tâm bị tản mác, các giác quan bị đờ đẫn. những dòng lệ tuôn trào từ hai con mắt của nàng. Nàng đã bị mất mát cái gì? Hơn nữa, trong khi ước nguyện điều gì mà nàng đã đi đến nơi này? Nào, hỡi cô nương, nàng hãy nói ra điều ấy.”
3. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!
2571. Yamuggatejo uragoti cāhu nāgoti taṃ āhu janā janinda, tamaggahī puriso jīvikattho
taṃ bandhanā muñca patī mameso.
2571. Tâu vị chúa của loài người, người ta đã gọi con vật có oai lực dữ dằn là ‘rắn’ và đã gọi chàng ấy là ‘rồng.’ Gã đàn ông đã bắt lấy chàng ấy vì mục đích kiếm sống. Hãy giải thoát cho chàng ấy khỏi sự trói buộc. Chàng ấy là chồng của thiếp.”
4. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!
2572. Kathaṃ nvayaṃ balaviriyūpapanno hatthattha māgañchi vaṇibbakassa, akkhāhi me nāgakaññe tamatthaṃ kathaṃ vijānemu gahītanāgaṃ.
2572. Vậy làm thế nào mà con rồng được sanh ra với sức lực và dũng mãnh này đã rơi vào bàn tay của kẻ cùng khổ? Hỡi nàng con gái của loài rồng, nàng hãy giải thích ý nghĩa ấy cho trẫm. Làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết về con rồng đã bị bắt?”
5. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
Làm sao đánh giá đúng Rồng này?
2573. Nagarampi nāgo bhasmaṃ kareyya tathā hi so balaviriyūpapanno, dhammañca nāgo apacāyamāno tasmā parakkamma tapo karoti.
2573. “Rồng chúa có thể làm cho cả thành phố trở thành tro bụi, bởi vì chàng ấy được sanh ra với sức lực và dũng mãnh như thế ấy. Và trong khi tôn kính pháp tu tập, vì thế rồng chúa đã nỗ lực (kiềm chế) và thực hành hạnh khắc khổ.
6. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.
2574. Cātuddasiṃ paṇṇarasiñca rāja catuppathe sammati nāgarājā, tamaggahī puriso jīvikattho
taṃ bandhanā muñca patī mameso.
2574. Tâu bệ hạ, vào ngày mười bốn và mười lăm, rồng chúa tịnh cư ở ngã tư đường. Gã đàn ông đã bắt lấy chàng ấy vì mục đích kiếm sống. Hãy giải thoát cho chàng ấy khỏi sự trói buộc. Chàng ấy là chồng của thiếp.”7. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
Gã múa rối kia tìm bắt được,
Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!
2575. Soḷasitthī sahassāni āmuttamaṇikuṇḍalā, vārigehasayā nārī tāpi taṃ saraṇaṅgatā.
2575. Mười sáu ngàn nữ nhân có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, các nàng có nhà ở dưới nước, các nàng ấy đã đến nương tựa ở chàng.
8. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
2576. Dhammena mocehi asāhasena gāmena nikkhena gavaṃ satena, ossaṭṭhakāyo urago carātu
puññatthiko muccatu bandhanasmā.
2576. Bệ hạ hãy giải thoát cho rồng chúa đúng theo pháp, không bằng bạo lực, bằng ngôi làng, bằng tiền vàng lớn, bằng một trăm bò cái. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”
9. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
Xin chuộc Long vương được thoát thân
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.
2577. Dhammena mocemi asāhasena gāmena nikkhena gavaṃ satena, ossaṭṭhakāyo urago carātu
puññatthiko muccatu bandhanasmā.
2577. “Trẫm sẽ giải thoát cho rồng chúa đúng theo pháp, không bằng bạo lực, bằng ngôi làng, bằng tiền vàng lớn, bằng một trăm bò cái. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.
10. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
2578. Dammi nikkhasataṃ ludda thullañca maṇikuṇḍalaṃ, catussadaṃ ca pallaṅkaṃ ummāpuppha siriṃnibhaṃ.
2578. Này thợ săn, trẫm sẽ ban thưởng một trăm tiền vàng lớn, bông tai ngọc ma-ni loại lớn, kiệu khiêng bốn bên đều lót nệm có màu sắc rực rỡ giống như màu hoa của cây bông vải, –
11. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
2579. Dve ca sādisiyo bhariyā usabhañca gavaṃ sataṃ,ossaṭṭhakāyo urago carātu puññatthiko muccatu bandhanasmā.
2579. – thêm hai người vợ tương xứng, cùng với bò mộng và bò cái một trăm con. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”
12. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
Và hai người vợ cũng chung dòng,
Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.
2580. Vināpi dānā tava vacanaṃ janinda, muñcemu taṃ uragaṃ bandhanasmā, ossaṭṭhakāyo urago carātu puññatthiko muccatu bandhanasmā.
2580. “Tâu vị chúa của loài người, chỉ với lời nói của bệ hạ thì khỏi cần vật ban thưởng, chúng thần sẽ giải thoát cho rồng chúa ấy khỏi sự trói buộc. Hãy để cho rồng chúa ra đi với thân thể được cởi trói. Hãy để cho người tầm cầu phước thiện được thoát khỏi sự trói buộc.”
13. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
Mà để chúa Rồng được thoát thân,
Như vậy, nay thần xin giải phóng:
Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.
2581. Mutto campeyyako nāgo rājānaṃ etadabravi, namo te kāsirājatthu namo te kāsivaḍḍhana, añjaliṃ te pagaṇhāmi passeyyamme nivesanaṃ.
2581. Được tự do, rồng chúa Campeyyaka đã nói với đức vua điều này: ‘Tâu đức vua xứ Kāsi, vậy hãy kính lễ đến ngài! Tâu bậc làm hưng thịnh xứ Kāsi, xin kính lễ ngài! Thần xin chắp tay lại chào bệ hạ. Thần có thể nhìn ngắm cung điện của thần.”
14. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
Liền nói như vầy với đức vua:
“Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
Trước lúc trở về viếng cố gia!”.
2582. Addhā hi dubbissasametamāhu yaṃ mānuso vissase amānusamhi, sace ca maṃ yācasi etamatthaṃ dakkhemu te nāga nivesanāni.
2582. “Quả đúng vậy, người đời đã nói việc ấy là khó tin, là việc con người có thể đặt niềm tin vào hạng phi nhân. Và nếu ngài yêu cầu trẫm (tin tưởng) điều ấy, này rồng chúa, hãy để chúng tôi nhìn thấy các cung điện của ngài.”
15. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian
Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!
2583. Sacehi vāto girimāvaheyya cando ca suriyo ca chamā pateyyuṃ, sabbā va najjo paṭisotaṃ vaheyyuṃ na tvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.
2583. “Bởi vì, nếu như làn gió có thể dời đi ngọn núi, mặt trăng và mặt trời có thể rơi xuống trái đất, và tất cả các con sông có thể chảy ngược dòng, nhưng tâu bệ hạ, thần không bao giờ có thể nói lời dối trá.
16. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
Chúa thượng, thần không thể dối lời!
2584. Nabhaṃ phaleyya udadhīpi susse saṃvaṭṭayaṃ bhūtadharā vasundharā, siluccayo meru samūlamubbahe natvevahaṃ rāja musā bhaṇeyyaṃ.
2584. (Dẫu cho) bầu trời có thể vỡ tan, thậm chí biển cả có thể khô cạn, trái đất cưu mang chúng sanh và cất giữ của cải tự cuộn tròn, ngọn núi đá Meru có thể nhổ lên luôn cả gốc, nhưng tâu bệ hạ, thần không bao giờ có thể nói lời dối trá.”
17. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
Dù núi Tu-di rung bật gốc,
Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!
2585. Addhā hi dubbissasametamāhu yaṃ mānuso vissase amānusamhi,sace ca maṃ yācasi etamatthaṃ dakkhemu te nāga nivesanāni.
2585. “Quả đúng vậy, người đời đã nói việc ấy là khó tin, là việc con người có thể đặt niềm tin vào hạng phi nhân. Và nếu ngài yêu cầu trẫm (tin tưởng) điều ấy, này rồng chúa, hãy để chúng tôi nhìn thấy các cung điện của ngài.”
18. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian,
Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!
2586. Tumhe khottha ghoravisā uḷārā mahātejā khippakopī ca hotha, mama kāraṇā bandhanasmā pamutto arahasi no jānitāye katāni.
2586. “Quả thật, các ngài ở đây là có chất độc dữ dội, có uy thế, có quyền lực lớn lao, và có sự nổi giận mau chóng. Nhờ vào trẫm mà ngài được thoát ra khỏi sự trói buộc, ngài cần phải nhận biết những việc đã được làm của chúng tôi.”
19. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
Quyền ta là phải được tri ân!
2587. So paccataṃ niraye ghorarūpe mā kāyikaṃ sātamalattha kiñci, peḷāya baddho maraṇaṃ upetu
yo tādisaṃ kamma kataṃ na jāne.
2587. “Kẻ nào không nhận biết hành động đã được làm như thế ấy, kẻ ấy hãy bị nung nấu ở địa ngục có hình thức ghê rợn, chẳng đạt được bất cứ khoái lạc nào thuộc về thân, và đạt đến cái chết khi bị giam cầm trong cái giỏ.”
20. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!
2588. Saccappaṭiññā tavamesa hotu akkodhano hohi anūpanāhī, sabbañca te nāgakulaṃ supaṇṇā
aggiṃva gimhāsu vivajjayantu.
2588. “Mong rằng lời hứa hẹn này của ngài là sự thật. Mong rằng ngài không giận dữ, không thù hằn. Mong rằng các linh điểu lánh xa tất cả gia tộc loài rồng của ngài, tựa như (loài người) lánh xa ngọn lửa vào các mùa nóng nực.”
21. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!
2589. Anukampasī nāgakulaṃ janinda mātā yathā suppiyaṃ ekaputtaṃ, ahaṃ ca te nāgakulena saddhiṃ
kāhāmi veyyāvaṭikaṃ uḷāraṃ.
2589. “Tâu vị chúa của loài người, bệ hạ đã có lòng thương tưởng đến gia tộc loài rồng, giống như người mẹ đối với đứa con trai độc nhất vô cùng yêu quý. Thần cùng với gia tộc loài rồng sẽ làm công việc phục vụ xuất sắc đến bệ hạ.”
22. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
Cho con độc nhất quý vô ngần,
Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.
2590. Yojentu ve rājarathe sucitte kambojake assatare sudante, nāge ca yojentu suvaṇṇakappane
dakkhemu nāgassa nivesanāni.
2590. “Các khanh hãy thắng các con la xứ Kamboja khéo được huấn luyện vào các cỗ vương xa khéo được sơn phết, và hãy thắng các yên cương bằng vàng cho các con voi; chúng ta hãy viếng thăm các cung điện của rồng chúa.”
23. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
Ta cùng đi viếng xứ Long vương.
2591. Bheri mutiṅgā paṇavā ca saṅkhā āvajjisuṃ uggasenassa rañño, pāyāsi rājā bahusobhamāno
purakkhato nārigaṇassa majjhe.
2591. Các trống lớn, các trống nhỏ, các trống con, và các tù và vỏ ốc đã vang lên chào đón đức vua Uggasena. Đức vua đã tiến đến, vô cùng rực rỡ, được tôn vinh, ở giữa một đoàn nữ nhân.
24. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.
2592. Suvaṇṇacitakaṃ bhūmiṃ addakkhi kāsivaddhano, sovaṇṇamaye ca pāsāde veḷuriyaphalakatthate.
2592. Bậc làm hưng thịnh xứ Kāsi đã nhìn thấy khu đất được trải lên bằng cát vàng và các tòa lâu đài làm bằng vàng, được khảm ngọc bích và ngọc pha-lê.
25. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
2593. Sa rājā pāvisi vyambhaṃ campeyyassa nivesanaṃ, ādiccavaṇṇūpanibhaṃ kaṃsavijjupabhassaraṃ
2593. Vị vua ấy đã tiến vào cung điện, nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, có sự chói sáng rực rỡ tựa như tia chớp phát ra từ đám mây đen, tương tự màu sắc của mặt trời.
26. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
Ngự vào đại sảnh của Long thần
Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
2594. Nānārukkhehi sañchannaṃ nānāgandhasameritaṃ, so pāvekkhi kāsirājā campeyyassa nivesanaṃ.
2594. Vị vua xứ Kāsi ấy sẽ tiến vào nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, được bao phủ bởi những cây cối đa dạng, được phảng phất với các hương thơm khác loại.
27. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
Ngàn cây đổ bóng che im mát,
Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
2595. Paviṭṭhamhi kāsiraññe campeyyassa nivesanaṃ, dibbā turiyā vajjiṃsu nāgakaññā ca naccayuṃ.
2595. Khi đức vua xứ Kāsi tiến vào nơi trú ngụ của rồng chúa Campeyya, các nhạc cụ Thiên đình đã tấu vang, và các nàng con gái của loài rồng đã nhảy múa.
28. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
Yêu kiều Long nữ múa như bay!
2596. Taṃ nāgakaññā caritaṃ gaṇena anvāruhī kāsirājā pasanno, nisīdi sovaṇṇamayamhi pīṭhe
sāpassaye candanasāralitte.
2596. Nơi trú ngụ ấy được lui tới bởi các nàng con gái của loài rồng theo từng nhóm. Được an tâm, đức vua xứ Kāsi đã bước tiếp lên, và đã ngồi xuống ở cái ghế làm bằng vàng, có chỗ tựa đầu, đã được thoa dầu của lõi trầm hương.
29. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.
2597. So tattha bhutvā ca atho ramitvā campeyyakaṃ kāsirājā avoca, vimānaseṭṭhāni imāni tuyhaṃ
ādiccavaṇṇāni pabhassarāni, netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2597. Sau khi đã thọ hưởng rồi vui thú ở nơi ấy, đức vua xứ Kāsi ấy đã nói với rồng chúa Campeyyaka rằng: “Các cung điện tuyệt vời này của ngài có màu sắc của mặt trời, có sự chói sáng rực rỡ. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?
30. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
“Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
Trên trần không chốn nào như vậy,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
2598. Tā kambukeyūra dharā suvatthā vaṭṭaṅgulī tambatalūpapannā, paggayha pāyenti anomavaṇṇā
netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2598. Các nàng ấy mang các vật trang sức bằng vàng, có y phục đẹp, có ngón tay tròn trịa, được thành tựu lòng bàn tay và bàn chân màu đỏ thắm, có làn da hoàn hảo, đã đem lại thần thủy mời trẫm uống. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?
31. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
2599. Najjo ca temā puthulomamacchā āṭā sakuntābhirudā sutitthā,netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2599. Và các dòng sông này của ngài có loài cá lớn vảy, có tiếng hót của loài chim āṭā, có bến tắm đẹp. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?
32. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
Ðều có bến xây bậc vững vàng
Trên trần chẳng chốn nào như thế,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
2600. Koñcā mayūrā diviyā ca haṃsā vaggussarā kokilā sampatanti, netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2600. Các con cò, các con công, các chim thiên nga, và các con chim cu với tiếng hót ngọt ngào bay nhảy. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?
33. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
2601. Ambāva sālā tilakā ca jambuyo uddālakā pāṭaḷiyo ca phullā, netādisaṃ atthi manussaloke
kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2601. Các cây xoài, các cây sāla, các cây họ mè, các cây mận đỏ, các cây bả đậu, và các cây hoa kèn được nở rộ. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?
34. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
2602. Imā ca te pokkharañño samantato divyā ca gandhā satataṃ sampatanti, netādisaṃ atthi manussaloke kimatthiyaṃ nāga tapo karosi.
2602. Các hồ sen này của ngài ở khắp nơi và có các mùi hương của cõi Trời thường xuyên phảng phất. Ở thế giới loài người, không có như thế này. Này rồng chúa, vì mục đích gì mà ngài thực hành hạnh khắc khổ?”
35. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
Cảnh này không thấy trên trần giới,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?
2603. Na puttahetu na dhanassa hetu na āyuno cāpi janinda hetu, manussayoniṃ abhipatthayāno
tasmā parakkamma tapo karomi.
2603. “Không vì nguyên nhân con trai, không vì nguyên nhân tài sản, và cũng không vì nguyên nhân tuổi thọ, tâu vị chúa của loài người, trong khi ước nguyện về bản thể loài người, vì thế thần đã nỗ lực (kiềm chế) và thực hành hạnh khắc khổ.”
36. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
Ta phấn đấu vầy với bản thân,
Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.
2604. Tvaṃ lohitakkho vihatantaraṃso alaṅkato kappitakesamassu, surosito lohitacandanena
gandhabbarājāva disā pabhāsasi.
2604. “Với mắt đỏ ngầu, với bờ vai rộng, đã được trang điểm, có râu tóc đã được chăm sóc, khéo được thoa trầm hương đỏ, ngài tỏa sáng các phương tựa như vị vua của các Càn-thát-bà.
37. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
2605. Deviddhipattosi mahānubhāvo sabbehi kāmehi samaṅgibhūto,pucchāmi taṃ nāgarājetamatthaṃ seyyo ito kena manussaloko.
2605. Ngài đã đạt được thần thông của chư Thiên, có đại oai lực, được phú cho tất cả các dục. Này chúa rồng, trẫm hỏi ngài ý nghĩa này, thế giới loài người tốt hơn nơi này bởi điều gì?”
38. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
Vì sao địa giới vượt Long đài?
2606. Janinda nāññatra manussalokā suddhī ca saṃvijjati saṃyamo ca, ahañca laddhāna manussayoniṃ
kāhāmi jātimaraṇassa antaṃ.
2606. “Tâu vị chúa của loài người, ngoại trừ thế giới loài người, không nơi nào khác được tìm thấy sự trong sạch và sự tự kiềm chế. Và sau khi đạt được bản thể loài người, thần sẽ thực hiện việc chấm dứt sanh tử.”
39. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
Khi người ta sống giữa quần sinh,
Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
Ta thấy tử sinh đến với mình.
2607. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, nāriyo ca disvāna tavaṃ ca nāga
karohi puññāni anappakāni.
2607. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực. Này rồng chúa, sau khi nhìn thấy ngài và các nàng con gái của loài rồng, trẫm sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”
40. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.
2608. Addhā have sevitabbā sapaññā bahussutā ye bahuṭhānacintino, nāriyo ca disvāna mamañca rāja
karohi puññāni anappakāni.
2608. “Quả thật, đúng vậy, nên thân cận các bậc có trí tuệ, các bậc đa văn, các vị có những suy nghĩ thiết thực. Tâu bệ hạ, sau khi nhìn thấy thần và các nàng con gái của loài rồng, bệ hạ hãy làm các việc phước thiện không phải là ít.
41. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.
2609. Idañca me jātarūpaṃ pahūtaṃ rāsī suvaṇṇassa ca tālamattā, ito haritvā sovaṇṇagharāni kāraya
rūpiyassa ca pākāraṃ karontu.
2609. Vàng này của thần có nhiều, và các đống vàng có số lượng nhiều như cây thốt nốt. Bệ hạ hãy mang đi khỏi đây rồi cho xây dựng các căn nhà bằng vàng. Và các vị hãy xây dựng tường thành bằng bạc.
42. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
Bạc chất như cây cả mấy tầng,
Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
2610. Muttānañca vāhasahassāni pañca veḷuriyamissāni ito haritvā,antepure bhūmiyaṃ santharantu
nikkaddamā hohiti nīrajā ca.
2610. Sau khi mang đi khỏi đây năm ngàn xe ngọc trai được trộn lẫn với ngọc bích, các vị hãy trải ở mặt đất ở nội cung, như vậy sẽ không có bùn và không có bụi.
43. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
San hô chen giữa ửng hồng tươi,
Lấy đi để trải đầy cung điện
Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
2611. Etādisaṃ āvasa rājāseṭṭha vimānaseṭṭhaṃ bahusobhamānaṃ, bārāṇasiṃ nagaraṃ iddhaphītaṃ
rajjañca kārehi anomapaññā ”ti.
2611. Tâu đấng quân vương hạng nhất, bệ hạ hãy cư ngụ ở cung điện hạng nhất đang chiếu sáng rực rỡ như thế ấy, trong thành Bārāṇasī thịnh vượng, sung túc. Và tâu bậc có trí tuệ tuyệt đỉnh, ngài hãy trị vì vương quốc.”
44. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
Tại đó xin ngài lên ngự trị,
Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
Mong ngài cai trị dân hiền đức,
Và trị nước nhà thật xứng danh.
Campeyyajātakaṃ.
***
Bổn sanh Rồng Chúa Campeyya. [506]
***
11. PALOBHANAJĀTAKAṂ
11. BỔN SANH SỰ CÁM DỖ LỚN
507. Chuyện sức cám dỗ mạnh
(Tiền thân Mahà-Palobhana)
2612. Brahmalokā cavitvāna devaputto mahiddhiko, rañño putto udapādi sabbakāmasamiddhisu.
2612. Vị Thiên tử có đại thần lực, sau khi chết đi từ thế giới Phạm Thiên, đã sanh làm con trai của một vị vua có sự thành tựu của tất cả các dục.
1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
Ðến đây là thế giới phàm nhân
Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
2613. Kāmā vā kāmasaññā vā brahmaloke na vijjati, yvāssa tāyeva saññāya kāmehi vijigucchatha.
2613. Dục hay dục tưởng không hiện hữu ở thế giới Phạm Thiên. Nhờ vào tưởng về thiền định đã phát sanh ở chính thế giới Phạm Thiên ấy, vị hoàng tử ấy ghê tởm đối với các dục.
2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
Giờ sinh dục giới này, vương tử
Nghe chữ “tình” thôi, chán ngấy liền!
2614. Tassa cantepure āsi jhānāgāraṃ sumāpitaṃ, so tattha patisallīno eko rahasi jhāyatha.
2614. Và có một thiền thất đã khéo được tạo lập ở nội cung cho vị hoàng tử. Tại nơi ấy, được yên tịnh, vị ấy, một mình, đã tham thiền trong sự cô tịch.
3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
Một am thất nhỏ của riêng tây,
Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
2615. Sa rājā paridevesi puttasokena aṭṭito, ekaputto cayaṃ mayhaṃ na ca kāmāni bhuñjati.
2615. Bị phiền muộn bởi nỗi sầu muộn về đứa con trai, đức vua ấy đã than vãn rằng: “Ta có mỗi một đứa con trai này, và nó không thọ hưởng các dục.
4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
“Trẫm chí sinh ra mình thái tử
Mà bao dục lạc, trẻ không màng!”2
616. Konu khettha upāyo so ko vā jānāti kiñcanaṃ, ko me puttaṃ palobheyya yathā kāmāni patthaye.
2616. Vậy ở đây có phương thức nào, hoặc ai biết được điều gì đó, người nào có thể cám dỗ con trai của trẫm khiến cho nó có thể thèm muốn các dục?”
5. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
Ôi, lẽ nào không có cách chi?
Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
Có ai làm thái tử mê ly?
2617. Ahū kumārī tattheva rūpavaṇṇa samāhitā, kusalā naccagītassa vādite ca padakkhiṇā, sā tattha upasaṅkamma rājānaṃ etadabravi.
2617. Ngay tại nơi (hoàng cung) ấy, đã có một thiếu nữ được hội đủ dáng vóc và sắc đẹp, thiện xảo về múa ca, và thành thạo về tấu nhạc. Nàng ấy đã đi đến nơi ấy và đã nói với đức vua điều này:
6. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
Và uốn người quay tít thật đều.
Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.
2618. Ahaṃ kho taṃ palobheyyaṃ sace bhattā bhavissati, taṃ tathāvādiniṃ rājā kumāriṃ etadabravi, tvaññeva naṃ palobhehi tava bhattā bhavissati.
2618. “Tiện nữ chắc chắn có thể cám dỗ được hoàng tử, nếu hoàng tử sẽ trở thành chồng (của thiếp). Đức vua đã nói với người thiếu nữ có lời nói như thế ấy điều này: “Chính nàng hãy cám dỗ hoàng tử, hoàng tử sẽ trở thành chồng của nàng.”
7. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.
Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!
2619. Sā ca antepuraṃ gantvā bahū kāmūpasaṃhitaṃ, hadayaṅgamā pemaṇīyā citragāthā abhāsatha.
2619. Và sau khi đi đến nội cung, nàng ấy, với nhiều kiểu cách liên hệ đến dục, đã nói lên những kệ ngôn hoa mỹ, đáng yêu, đi vào trái tim.
8. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
Xuyên vào tim của bạn chung tình.
2620. Tassā ca gāyamānāya saddaṃ sutvāna nāriyā, kāmacchandassa uppajji janaṃ so paripucchatha.
2620. Và sau khi lắng nghe âm thanh của người phụ nữ ấy trong khi nàng ấy đang ca hát, ước muốn về dục đã sanh khởi đến vị hoàng tử. Vị ấy đã hỏi người hầu rằng:
9. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
2621. Kasseso saddo ko vā so bhaṇati uccāvacaṃ bahu, hadayaṅgamaṃ pemaṇīyaṃ atho kaṇṇasukhaṃ mama.
2621. “Âm thanh ấy là của người nào? Ai là người nói với ta nhiều lời nói trầm bổng, đi vào trái tim, đáng yêu, êm tai vậy?”
10. “Âm thanh nào đó thật du dương
Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
Bên tai kỳ thú thật khôn lường!”
2622. Esā kho pamadā deva khiḍḍā esā anappikā, sace tvaṃ kāme bhuñjeyya bhiyyo bhiyyo chādeyyu taṃ.
2622. “Tâu hoàng tử, nàng ấy đúng là kiều nữ. Nàng ấy là thú tiêu khiển không phải tầm thường. Nếu ngài có thể thọ hưởng các dục, các dục có thể khiến ngài vui sướng nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
11. “- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!”.
2623. Iṅgha āgacchatorena avidūramhi gāyatu, assamassa samīpamhi santike mayha gāyatu.
2623. “Nào, hãy để nàng đến gần hơn, hãy để nàng ca hát ở nơi không xa. Hãy để nàng ca hát ở nơi kế cận thiền thất, trong sự hiện diện của ta.”
12. “- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!”
2624. Tirokuḍḍamhi gāyitvā jhānāgāramhi pāvisi, bandhi naṃ anupubbena āraññamiva kuñjaraṃ.
2624. Sau khi đã ca hát ở bên kia bức tường (ở phía ngoài), nàng đã đi vào thiền thất. Nàng đã từ từ trói buộc hoàng tử, tựa như trói buộc con voi rừng.
13. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
Nàng vây chàng chặt như voi nọ
Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
2625. Tassa kāmarasaṃ ñatvā issādhammo ajāyatha, ahameva kāme bhuñjeyyaṃ mā añño puriso ahū.
2625. Sau khi biết được hương vị của dục, vị hoàng tử đã khởi lên pháp ganh tỵ (nói rằng): “Chỉ có ta mới có thể thọ hưởng các dục, chẳng có người đàn ông nào khác (được phép thọ hưởng).”
14. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
“Không ai được phép yêu nàng cả!
Chỉ một mình ta được luyến thương!”
2626. Tato asiṃ gahetvāna purise hantuṃ upakkami, ahameva eko bhuñjissaṃ mā añño puriso siyā.
2626. Sau đó, vị hoàng tử đã cầm lấy thanh gươm rồi đã ra sức giết chết những người đàn ông (nói rằng): “Chỉ có một mình ta mới có thể thọ hưởng, chẳng có người đàn ông nào khác (được phép thọ hưởng)”
15. Một mình ta, chẳng được người nào!
Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
Cầm kiếm lồng lên như khát máu
Ði tàn sát hết bọn mày râu!
2627. Tato jānapadā sabbe vikkandiṃsu samāgatā, putto tyāyaṃ mahārāja janaṃ heṭhetyadūsakaṃ.
2627. Do đó, tất cả dân chúng đã tụ hội lại kêu than rằng: “Tâu đại vương, gã con trai này của ngài hãm hại người dân vô tội.”
16. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
Toàn thể phi thân đến hậu cung:
“Vương tử giết người bất kể số,
Chẳng ai khiêu khích!” Họ kêu rần.
2628. Tañca rājā vivāhesi samhā raṭṭhāto khattiyo, yāvatā vijitaṃ mayhaṃ na te vatthabba tāvade.
2628. Và đức vua, vị Sát-đế-lỵ, đã trục xuất hoàng tử ra khỏi xứ sở của mình (nói rằng): “Con không được sống ở trong lãnh địa của trẫm.”
17. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
“Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
Trong vùng biên địa nước ta này!”.
2629. Tato so bhariyaṃ ādāya samuddaṃ upasaṅkami, paṇṇasālaṃ karitvāna vanaṃ uñchāya pāvisi.
2629. Sau đó, vị hoàng tử ấy đã mang theo người vợ rồi đi về phía bờ biển. Vị ấy đã tạo nên một gian nhà lá, rồi đã đi vào rừng để thu nhặt củ quả.
18. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
Tại đó chàng xây lều lợp lá,
Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
2630. Athettha isimāgañchi samuddaṃ uparūpari, so tassa gehaṃ pāvekkhi bhattakāle upaṭṭhite.
2630. Rồi có vị ẩn sĩ đã lướt đi ở ngay trên mặt biển và đến tại nơi này,. Vị ấy đi vào căn nhà của hoàng tử vào lúc bữa ăn đã cận kề.
19. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
Bay qua biển cả, giữa không gian,
Ði vào lều lá sao vừa lúc
Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
2631. Tañca bhariyā palobhesi passa yāva sudāruṇaṃ, cuto so brahmacariyamhā iddhiyā parihāyatha.
2631. Và người vợ đã cám dỗ vị ẩn sĩ ấy. Hãy nhìn xem việc làm vô cùng tàn nhẫn đến chừng nào! Vị ấy đã bị lìa khỏi Phạm hạnh và đã mất hẳn thần thông.
20. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
Xem việc làm sao hạ liệt thay!
Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
Mọi thần thông lực thảy xa bay!
2632. Rājaputto ca uñchāto vanamūlaphalaṃ bahuṃ, sāyaṃ kājena ādāya assamaṃ upasaṅkami.
2632. Còn vị hoàng tử, vào buổi chiều, đã dùng giỏ đeo vai mang vác nhiều rễ và trái cây rừng do việc thu nhặt, rồi đã đi về lại khu ẩn cư.
21. Chiều đến, khi vương tử trở về,
Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
Quả rau, một đống trên đòn gánh,
Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
2633. Isī ca khattiyaṃ disvā samuddaṃ upasaṅkami, vehāsayaṃ gamissanti sīdate so mahaṇṇave.
2633. Và vị ẩn sĩ, sau khi nhìn thấy vị Sát-đế-lỵ, đã đi về phía biển cả (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ ra đi bằng đường không trung;’ vị ấy chìm xuống ở đại dương.
22. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
Ngài ra bờ biển vội rời chân,
Ngỡ là hành cước qua không khí,
Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
2634. Khattiyo ca isiṃ disvā sīdamānaṃ mahaṇṇave, tasseva anukampāya imā gāthā abhāsatha.
2634. Còn vị Sát-đế-lỵ, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang chìm xuống ở đại dương, vì lòng thương xót đối với chính vị ấy, đã nói những lời kệ này:
23. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
Vào trong biển cả cứ chìm thân,
Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
2635. Abhijjamāne vārismiṃ sayaṃ āgamma iddhiyā, missībhāvitthiyā gantvā saṃsīdasi mahaṇṇave.
2635. “Sau khi tự mình đi đến bằng thần thông ở mặt nước không bị xao động, sau khi đi đến trạng thái chung chạ cùng với phụ nữ, ngài chìm xuống ở đại dương.
24. Ngài phi hành đến bởi thần thông
Trên biển không buồm để ruổi dong,
Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
2636. Āvaṭṭanī mahāmāyā brāhmacariyavikopanā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
2636. Có sức quyến rũ, có nhiều xảo trá, có sự làm tổn hại Phạm hạnh, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.
25. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết hồng quần phải tránh xa!
2637. Analā mudusambhāsā duppūrā tā nadīsamā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.
2637. Các nàng ấy có lối nói mềm mỏng, không hề biết đủ, tựa như dòng sông, khó làm cho tràn đầy, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.
26. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
Cũng như khó đổ nước đầy sông,
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết, nên xa lánh má hồng!
2638. Yaṃ etā upasevanti chandasā vā dhanena vā, jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti taṃ.
2638. Các nàng hầu hạ người nào, dầu do sự mong muốn hay vì tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy một cách mau chóng, tựa như ngọn lửa đốt cháy nhiên liệu.”
27. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
2639. Khattiyassa vaco sutvā isissa nibbidā ahu, laddhā porāṇakaṃ maggaṃ gacchate so vihāyasaṃ.
2639. Sau khi lắng nghe lời nói của vị Sát-đế-lỵ, sự nhàm chán (các dục) đã sanh khởi đến vị ẩn sĩ. Sau khi đạt được đạo lộ cũ, vị ấy ra đi bằng đường không trung.
28. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
Chán chê trần thế quả hư huyền,
Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
2640. Khattiyo ca isiṃ disvā gacchamānaṃ vihāyasaṃ, saṃvegaṃ alabhī dhīro pabbajjaṃ samarocayi.
2640. Còn vị Sát-đế-lỵ, sau khi nhìn thấy vị ẩn sĩ đang ra đi bằng đường không trung, bậc sáng trí đã đạt đến trạng thái chấn động, đã vui thích việc xuất gia.
29. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
Cách ngài bay bổng giữa hư không,
Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
2641. Tato so pabbajitvāna kāmarāgaṃ virājayi, kāmarāgaṃ virājetvā brahmalokūpago ahū ”ti.
2641. Sau đó, khi đã xuất gia, vị ấy đã dứt trừ sự luyến ái ở các dục. Sau khi đã dứt trừ sự luyến ái ở các dục, vị ấy đã đạt đến thế giới Phạm Thiên.
30. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
Dục tham và khát vọng nồng nàn,
Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
“Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng”.
Mahāpalobhanajātakaṃ.
***
Bổn sanh Sự Cám Dỗ Lớn. [507]
***
12. PAÑCAPAṆḌITAPAÑHO
12. CÂU HỎI DÀNH CHO NĂM BẬC NHÂN SĨ
508. Chuyện năm vị Hiền nhân
(Tiền thân Panca-Pandita)
2642. Pañca paṇḍitā samāgatā pañho me paṭibhāti taṃ suṇātha, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā kassevāvikareyya guyhamatthaṃ.
2642. “Năm bậc nhân sĩ đã tụ hội lại. Có câu hỏi lóe lên ở trẫm, các vị hãy lắng nghe điều ấy. Có nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người nào khác, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi?”
54. Năm vị hiền nhân họp buổi nay,
Vấn đề trẫm chợt nghĩ, nghe đây:
Cùng ai, bí mật nên bày tỏ,
Dù tốt xấu, hay dở, nói ngay!
2643. Tvaṃ no āvikarohi bhūmipāla bhattā bhārasaho tuvaṃ vadetaṃ, tava chandañca ruciñca sammasitvā atha vakkhanti janinda pañca dhīrā.
2643. “Tâu đấng hộ quốc, xin bệ hạ hãy bày tỏ với chúng thần. Bệ hạ là chủ nhân, là người nâng đỡ gánh nặng cho chúng thần, xin bệ hạ hãy nói ra. Tâu vị chúa của loài người, sau khi nắm bắt được mong muốn và ý thích của bệ hạ, khi ấy năm vị sáng trí sẽ phát biểu.”
55. Xin Đại vương cho biết ý trời,
Muôn tâu Chúa thượng ở trên đời,
Là người bảo hộ, cưu mang nặng,
Năm trí giả mong hiểu ý ngài,
Cùng sở thích ngài, xin hãy nói,
Muôn tâu chúa tể cõi trần ai!
2644. Yā sīlavatī anaññadheyyā bhattucchandavasānugā manāpā, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhariyāyāvikareyya guyhamatthaṃ.
2644. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người vợ, (nếu) nàng là người có giới hạnh, không thể bị xúi giục bởi người khác, hợp ý, chiều theo sự mong muốn và mệnh lệnh của chồng.”
56. Nếu nữ nhân đức hạnh phục tùng,
Tuân theo ý nguyện của phu quân,
Đầy tình thân ái thì nên nói,
Điều bí mật, hay dở mặc lòng!
2645. Yo kicchagatassa āturassa saraṇaṃ hoti gatī parāyaṇañca, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
sakhinovāvikareyya guyhamatthaṃ.
2645. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người bạn, (nếu) vị ấy là nơi nương tựa, nơi đi đến, nơi nâng đỡ của người gặp khó khăn, của người bị bệnh.”
57. Ai bảo vệ người bệnh khốn cùng,
Là nguồn cấp dưỡng, chốn nương thân,
Thì nên bày tỏ cùng thân hữu.
Điều bí mật, hay dở mặc lòng.
2646. Jeṭṭho atha majjhimo kaṇiṭṭho so ce sīlavato samāhito ṭhitatto, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
bhātuvāvikareyya guyhamatthaṃ.
2646. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến anh em trai, là người anh cả, anh thứ, hay em út, nếu người ấy có giới hạnh, trầm tĩnh, có bản tánh kiên định.”
58. Dù già hay trẻ, hoặc trung niên,
Nếu chú em đức hạnh, đáng khen,
Với chú em này, điều bí mật,
Dù là tốt xấu, hãy nêu lên.
2647. Yo ve hadayassa paddhagu anujāto pitaraṃ anomapañño, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā
puttassāvikareyya guyhamatthaṃ.
2647. “Cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người con trai, là người tuân phục sự sai bảo của cha, người con tiếp nối sự nghiệp của cha, có trí tuệ không kém cỏi.”
59. Khi đứa con vâng phục ý cha,
Con trai thành thật, trí cao xa,
Với con như vậy, thì nên nói,
Điều bí mật, dù tốt xấu mà.
2648. Mātā dipadā janindaseṭṭha yā taṃ poseti chandasā piyena, nindiyamatthaṃ pasaṃsiyaṃ vā mātuyāvikareyya guyhamatthaṃ.
2648. “Tâu vị chúa tối thượng của loài người có hai chân, cho dầu là việc đáng bị chê bai hay là việc đáng được khen ngợi, nên bày tỏ việc cần phải giấu kín đến người mẹ, là người mẹ nuôi dưỡng kẻ ấy với sự mong mỏi, với sự yêu mến.”
60. Muôn tâu Chúa tể của quần sinh,
Nếu mẹ yêu con thật tận tình,
Đối với mẹ này, điều bí mật
Dở hay, có thể nói cho rành.
2649. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.
2649. “Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói một cách thoải mái.”
61. Giữ gìn bí mật chính là hay,
Chẳng đáng khen cơ mật tỏ bày,
Người khôn phải giữ điều thầm kín,
Khi việc chưa thành tựu, khéo thay!
Sau lúc thực hành điều bí mật,
Khi người muốn, có thể nêu ngay.
2650. Kinnu tvaṃ vimanosi rājaseṭṭha dipadinda vacanaṃ suṇoma netaṃ, kiṃ cintayamāno dummanosi
nūna deva aparādho atthi mayhaṃ.
2650. “Tâu chúa thượng, việc gì khiến bệ hạ ưu tư? Tâu vị chúa của loài người, bọn thiếp không nghe nói gì về việc ấy. Trong khi suy nghĩ về việc gì mà ngài phiền muộn? Tâu bệ hạ, không lẽ thiếp có lỗi lầm gì chăng?”
62. Vì sao lo lắng, tâu Quân vương?
Thần thiếp chẳng nghe giọng Chúa công,
Hoàng thượng nghĩ gì sinh khổ não,
Có gì lầm lỗi, thiếp làm chăng?
2651. Pañño vajjho mahosadhoti āṇatto me vadhāya bhūripaññā, taṃ cintayanto dummanosmi
na hi devi aparādho atthi tuyhaṃ.
2651. “‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ (nghe vậy) trẫm đã ra lệnh hành quyết bậc có trí tuệ uyên bác. Trong khi suy nghĩ về việc ấy khiến trẫm phiền muộn. Này hoàng hậu, nàng chẳng có lỗi lầm gì.”
63. Chúng tâu: “Trí giả Đại Sa-dha
Phải bị giết ngay vì đức vua”,
Đệ nhất hiền nhân, ta xử trảm,
Khi ta nghĩ vậy, trí buồn lo.
Không gì lầm lỗi từ khanh cả,
Hỡi ái hậu yêu dấu của ta.
2652. Abhidosagato idāni esi kiṃ sutvā kimāsaṅkate mano te, ko te kimavoca bhūripañña iṅgha taṃ vacanaṃ suṇoma brūhi metaṃ.
2652. “Tối hôm qua khanh đã ra về, bây giờ khanh đi đến. Khanh đã nghe điều gì? Ý của khanh nghi ngờ điều gì? Này bậc có trí tuệ uyên bác, người nào đã nói điều gì với khanh? Nào, hãy cho chúng ta nghe lời nói ấy. Khanh hãy nói điều ấy với trẫm.”
64. Chiều tối hôm qua, con đã đi,
Bây giờ lại đến, hỡi vương nhi!
Điều gì lo sợ trong tâm trí,
Hoặc giả con nghe nói những gì?
Ai bảo con làm, này Trí giả,
Nào ta lắng đợi, nói ngay đi!
2653. Pañño vajho mahosadhoti yadi te mantayitaṃ janinda dosaṃ, bhariyāya rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2653. “Tâu vị chúa của loài người, nếu điều đã được nói ra bởi bệ hạ tối hôm qua rằng: ‘Kẻ có trí Mahosadha đáng bị giết chết,’ rồi bệ hạ đã tiết lộ cho người vợ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
65. Bậc hiền trí Đại O-sadha,
Phải bị giết ngay, nếu tối qua,
Ngài kể chuyện này cho chánh hậu,
Thì điều bí mật bị phơi ra!
2654. Yaṃ sālavanasmiṃ senako pāpakammaṃ akāsi asabbhirūpaṃ, sakhinova rahogato asaṃsi
guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2654. Việc Senaka đã làm hành động xấu xa, có hình thức không tốt lành, ở khu rừng cây sāla, rồi đã tiết lộ cho người bạn ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
66. Tội ác bạo tàn Se-na-ka,
Đã làm trong bụi rậm Sà-la,
Lão cho bạn biết nơi thầm kín,
Thần đã nghe: cơ mật lộ ra!
2655. Pukkusapurisassa te janinda uppanno rogo arājayutto, bhātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2655. Tâu vị chúa của loài người, Pukkusa, người của bệ hạ, đã bị phát khởi chứng bệnh (phong cùi), không thích hợp để đức vua chạm đến. Lão đã tiết lộ cho người em trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
67. Trong người này, lão Pu-ku-sa,
Có một bệnh không thích hợp cho,
Một đấng quân vương nào đụng chạm,
Lão đem bí mật nói riêng tư,
Cho em mình biết, điều thầm kín,
Thần đã nghe, được tiết lộ ra.
2656. Ābādhoyaṃ asabbhirūpo kāvindo naradevena phuṭṭho,puttassa rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2656. Căn bệnh này có hình thức không tốt lành, Kāvinda bị ám ảnh bởi Dạ-xoa Naradeva. Lão đã tiết lộ cho người con trai ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
68. Kẻ kia bệnh hoạn, tính tà gian,
Bị quỷ Na-ra ám ảnh tâm,
Lão nói cho con điều bí mật,
Thần nghe bí mật bị phơi trần!
2657. Aṭṭhavaṅkaṃ maṇiratanaṃ uḷāraṃ sakko te adadā pitāmahassa devindassa gataṃ tadajja hatthaṃ
mātucca rahogato asaṃsi guyhaṃ pātukataṃ sutaṃ mametaṃ.
2657. Thiên chủ Sakka đã cho đến ông nội của bệ hạ viên bảo ngọc ma-ni tuyệt hảo, có tám mặt. Hôm nay, viên ngọc ấy đã rơi vào tay của Devinda. Lão đã tiết lộ cho người mẹ ở nơi kín đáo. (Như thế) việc cần phải giấu kín đã được rõ ràng, (bởi vì) thần đã nghe được điều ấy.
69. Bát giác ngọc thần ấy thuở xưa,
Thượng hoàng được tặng bởi Sak-ka,
De-vin-da giữ trong tay lão,
Lão kể chuyện kia với mẹ già,
Trong chỗ kín, thần nghe thấy được,
Điều cơ mật ấy được phôi ra!
2658. Guyhassa hi guyhameva sādhu na hi guyhassa pasatthamāvikammaṃ, anipphādāya saheyya dhīro
nipphannattho yathāsukhaṃ bhaṇeyya.
2658. Riêng đối với việc cần phải giấu kín, chỉ có việc giấu kín là tốt, bởi vì đối với việc cần phải giấu kín, sự bày tỏ là không được khen ngợi. Khi việc chưa được hoàn tất, vị sáng trí nên chịu đựng; khi việc đã được hoàn tất, thì có thể nói một cách thoải mái.
70. Giữ điều bí mật mới là hay,
Bí mật không nên được tỏ bày,
Người trí phải duy trì bí mật,
Khi người thành tựu mục tiêu này,
Thì người hãy nói như mình muốn.
2659. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ, na hi pātukato sādhu guyho attho pajānatā.
2659. Không nên bộc lộ điều cần được giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Bởi vì, người có sự nhận thức làm rõ ràng điều cần được giấu kín là không tốt đẹp.
Vậy chớ phơi ra bí mật vầy,
Phải giữ nó như kho bảo vật,
Người khôn chẳng lộ việc riêng tây.
2660. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito, yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.
2660. Vị sáng suốt không nên tiết lộ bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, là hạng có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.
71. Người trí chẳng nên nói lộ ra,
Một điều bí mật với đàn bà,
Với cừu địch, người ham tư lợi,
Hoặc bởi tình thân ái thiết tha.
2661. Guyhamatthamasaṃbuddhaṃ saṃbodhayati yo naro, mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.
2661. Người nào cho biết việc cần phải giấu kín đến kẻ không biết do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ biết được ấy).
Người tiết lộ ra điều bí mật,
Vì lo sợ bạn chẳng tin ta,
Về sau phải chịu làm nô lệ,
Cho chính kẻ kia thật dại khờ!
2662. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantitaṃ, tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.
2662. Càng có nhiều kẻ biết được điều cần được giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.
72. Càng nhiều người biết chuyện riêng tư,
Càng có thêm nhiều mối sợ lo,
Vậy chẳng nên phơi bày bí mật,
2663. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce, upassutikā hi suṇanti mantaṃ
tasmā manto khippamupeti bhedan ”ti.
2663. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đên không nên thốt ra lời quá nhiều thời gian. Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.”
Ban ngày hãy đến một nơi xa,
Nói điều bí mật, còn đêm tối,
Hãy nói giọng nho nhỏ ấy mà,
Vì lắm người nghe lời nói ấy,
Nên lời ấy thoáng chốc tuôn ra.
Pañcapaṇḍitapañho.
***
Câu Hỏi Dành Cho Năm Bậc Nhân Sĩ. [508]
***
13. HATTHIPĀLAJĀTAKAṂ
13. BỔN SANH VƯƠNG TỬ HATTHIPĀLA
509. Chuyện Hiền giả quản tượng
(Tiền thân Hatthipàla)
2664. Cirassaṃ vata passāma brāhmaṇaṃ devavaṇṇinaṃ, mahājaṭaṃ khāridharaṃ paṅkadantaṃ rajassiraṃ.
2664. “Quả thật đã lâu lắm chúng tôi mới nhìn thấy vị Bà-la-môn có dáng vóc Thiên thần, có bện tóc to, đang mang túi vật dụng, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi.
1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
2665. Cirassaṃ vata passāma isiṃ dhammaguṇe rataṃ, kāsāyavatta vasanaṃ vākacīraṃ paṭicchadaṃ.
2665. Quả thật đã lâu lắm chúng tôi mới nhìn thấy vị ẩn sĩ thỏa thích trong đức hạnh của thiện pháp, mặc vải màu ca-sa, che thân bằng y phục sợi vỏ cây.
2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
Vui thú theo đường lối chánh chân
Với vỏ cây làm y phủ kín,
Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
2666. Āsanaṃ udakaṃ pajjaṃ patigaṇhātu no bhavaṃ, agghe bhavantaṃ pucchāma agghaṃ kurutu no bhavaṃ.
2666. Thưa đại đức, xin ngài hãy thọ nhận chỗ ngồi, nước rửa chân, dầu thoa chân của chúng tôi. Chúng tôi hỏi dâng đại đức các vật có giá trị, thưa đại đức, xin ngài hãy làm vẻ vang cho chúng tôi (bằng sự thọ nhận).”
3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
Thật là chân chánh lúc đem dâng,
Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.
2667. Adhicca vede pariyesa vittaṃ putte gehe tāta patiṭṭhapetvā, gandhe rase paccanubhuyya sabbaṃ araññaṃ sādhu muni so pasattho.
2667. “Này con, sau khi đã học các kinh Vệ Đà, con hãy tầm cầu của cải. Sau khi đã ổn định về con cái và nhà cửa, sau khi đã hưởng thụ các hương, các vị, và mọi thứ (vật dục), khu rừng là (sự chọn lựa) tốt đẹp (cho vị xuất gia lúc tuổi già); vị hiền trí ấy được ca ngợi.
4. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
Thế là người trí xứng danh hiền.
2668. Vedā na saccā na ca vittalābho na puttalābhena jaraṃ vihanti, gandhe rase muñcanamāhu sante sakammanā hoti phalūpapatti.
2668. “Các kinh Vệ Đà không phải là chân lý, và sự đạt được của cải cũng không phải. Con người không tránh khỏi sự già do việc có được con cái. Các vị hiền nhân đã nói về sự giải thoát đối với các hương và các vị. Sự thành tựu quả báo là do nghiệp của bản thân.”
5. Chân lý không sao lại đạt thành
Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
Có lối thoát ra mọi dục tình,
Như các trí nhân đều thấu suốt:
Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.
2669. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ sakammanā8 hoti phalūpapatti, jiṇṇā ca mātāpitaro tavayime
passeyyu taṃ vassasataṃ arogaṃ.
2669. “Quả thật vậy, lời nói ấy của con là sự thật. Sự thành tựu quả báo là do nghiệp của bản thân. Mẹ và cha của con đã già, họ có thể nhìn thấy con sống khỏe mạnh đến trăm tuổi.”
6. Lời tự mồm con quả thật chân:
Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
Hai thân con đó, nay già yếu
Song các người mong muốn thấy rằng
Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
An khang cho trẻ hưởng riêng phần.
2670. Yassassa sakkhī maraṇena rāja jarāya metti naraviriyaseṭṭha, yo cāpi jaññā na marissaṃ kadāci
passeyyu taṃ vassasataṃ ārogaṃ.
2670. “ Tâu bệ hạ, người nào có thể có tình bạn với sự chết, (hoặc) có tình thân hữu với sự già, tâu đấng tối thượng dũng mãnh của loài người, và người nào lại có thể biết được rằng mình sẽ không chết vào bất cứ lúc nào, họ có thể nhìn thấy bệ hạ sống khỏe mạnh đến trăm tuổi chăng?
7. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
Có thể tìm ra một bạn thân,
Ðã ký với tuổi già thỏa ước
Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
2671. Yathāpi nāvaṃ puriso dakamhi ereti cenaṃ upaneti tīraṃ, evampi vyādhi satataṃ jarā ca
upanenti maccaṃ vasamantakassa.
2671. Cũng giống như người đàn ông chèo chiếc thuyền ở trong nước và đưa nó đến gần bờ, cũng tương tự như thế, bệnh và già thường xuyên đưa con người đến gần quyền lực của Thần Chết.”
8. Cũng giống như người lái vượt dòng,
Con thuyền sang bến nọ bên sông,
Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.
2672. Paṅko va kāmā palipo ca kāmā manoharā duttarā maccudheyyā, etasmiṃ paṅke palipe vyasannā
hīnattarūpā na taranti pāraṃ.
2672. “Các dục tựa như đất bùn, và các dục là đầm lầy, hấp dẫn, khó vượt qua, là lãnh địa của Ma Vương. Những người bị chìm vào đất bùn, đầm lầy này có trạng thái tâm hạ liệt, không vượt qua đến bờ kia.
9. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
Ai chìm trong đám bùn vô trí
Không thể bước sang đến bến bờ.
2673. Ayaṃ pure luddamakāsi kammaṃ svāyaṃ gahīto na hi mokkhito me, orundhiyānaṃ parirakkhissāmi
māyaṃ puna luddamakāsi kammaṃ.
2673. Bản thân này trước đây đã tạo nghiệp hung bạo. Quả thành tựu của nghiệp ấy con phải gánh lấy, không bao giờ có sự thoát khỏi ác nghiệp đối với con. Con sẽ gìn giữ bản thân kỹ lưỡng bằng sự ngăn chặn. Chớ để bản thân này tạo nghiệp hung bạo nữa.”
10. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
Nó bị bắt giam trước đến giờ,
Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
Ðể không làm những chuyện như xưa
Từ nay con quyết lòng xây dựng
Những bức tường không thể lọt vô.
2674. Gāvaṃva naṭṭhaṃ puriso yathā vane pariyesatī rāja apassamāno, evaṃ naṭṭho esukārī mamattho
sohaṃ kathaṃ na gaveseyya rāja.
2674. “Tâu bệ hạ, giống như người tìm kiếm chỉ mỗi con bò bị lạc mất ở trong rừng mà không tìm thấy, tương tự như vậy, tâu đức vua Esukārī, mục đích của thần đã bị lạc mất, tâu bệ hạ, tại sao thần đây không tìm lại (và đi theo đạo lộ của các anh trai)?
11. Như tìm bò cái lạc trên đường,
Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
Cũng vậy, an vui con đã mất,
Sao còn do dự với phân vân,
Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
Khi bước đi tìm theo dấu chân?
2675. Hiyyoti hīyati poso paretha parihāyati, anāgataṃ netamatthīti ñatvā uppannaṃ chandaṃ kopanudeyya dhīro.
2675. Kẻ buông xuôi (nghĩ rằng): ‘Để ngày mai,’ rồi buông bỏ (nghĩ rằng): ‘Để ngày khác.’ Bậc sáng trí, sau khi biết rằng: ‘Việc gì để ngày mai, việc ấy là không có,’ rồi nên xúc tiến điều ước muốn đã được sanh khởi.”
12. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
“Thời vị lai không còn sự nghiệp!”
Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.
2676. Passāmi vohaṃ dahariṃ kumāriṃ mattūpamaṃ ketakapupphanettaṃ, abhuttabhoge paṭhame vayasmiṃ
ādāya maccu vajate kumāriṃ.
2676. “Thần quả có nhìn thấy người thiếu nữ trẻ trung đang say đắm (cười nói), có cặp mắt (to và dài) như bông hoa ketaka, ở vào giai đoạn đầu của cuộc đời khi thú vui còn chưa được hưởng thụ, thì tử thần đã đoạt lấy người thiếu nữ rồi ra đi.
13. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
2677. Yuvā sujāto sumukho sudassano sāmo kusumbhaparikiṇṇamassu, hitvāna kāme paṭigacca gehaṃ
anujāna maṃ pabbajissāmi deva.
2677. Thần trẻ tuổi, có dòng dõi cao sang, có khuôn mặt thanh tú, có vóc dáng đẹp, có làn da vàng sẫm, có bộ râu tua tủa như nhụy bông hoa kusumbha. Tâu bệ hạ, thần sẽ từ bỏ các dục, lìa xa gia đình, và xuất gia. Xin bệ hạ cho phép thần.”
14. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
Con giã biệt đời người thế tục
Cùng bao dục lạc của trần gian,
Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
Và hãy trở về chốn cố hương.
2678. Sākhāhi rukkho labhate samaññaṃ pahīnasākhaṃ pana khāṇumāhu, pahīnaputtassa mamajja hoti
vāseṭṭhi bhikkhācariyāya kālo.
2678. “Nhờ vào những cành cây mà cây cối đạt được tên gọi riêng; hơn nữa, khi cành cây bị chặt bỏ thì người ta đã gọi là gốc cây. Này bà Vāseṭṭhī, khi đứa con trai đã dứt bỏ (ra đi), thì hôm nay là thời điểm thực hành hạnh khất thực của ta.”
15. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
Người ta gọi đó một cây xanh,
Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
Ðây là thời điểm dành cho lão
Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.
2679. Aghasmiṃ koñcāva yathā himaccaye tantāni jālāni padāḷeyya haṃsā, gacchanti puttā ca patī ca mayhaṃ sāhaṃ kathaṃ nānuvaje pajānaṃ.
2679. “Tựa như loài chim diệc di chuyển ở không trung, giống như loài chim thiên nga phá vỡ các mạng lưới đã được giăng mắc (bởi loài nhện) lúc đã hết mùa đông, các con trai và người chồng của ta ra đi, tại sao ta đây, trong khi nhận biết như thế, lại không đi theo họ?”
16. Tháng ngày mưa gió đã qua,
Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
Tự do bay lượn giữa trời,
Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
Vậy ta theo đúng đường thiêng
Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.
2680. Ete bhutvā vamitvā ca pakkamanti vihaṅgamā, ye ca bhutvā na vamiṃsu te me hatthatthamāgatā.
2680. “Những con chim này sau khi ăn, đã ói ra rồi bay đi; còn những con chim nào sau khi ăn mà không ói ra, chúng đi đến ở trong bàn tay của thiếp.
17. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
Tự do bay lượn giữa bầu trời:
Ðám kia ăn nán và lưu lại,
Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
2681. Avamī brāhmaṇo kāme te tvaṃ paccāvamissasi, vantādo puriso rāja na so hoti pasaṃsiyo.
2681. Vị Bà-la-môn đã ói ra các dục, không lẽ bệ hạ sẽ thụ hưởng các dục ấy sao? Tâu bệ hạ, kẻ ăn vào vật đã được ói ra bởi kẻ khác, kẻ ấy không đáng được khen ngợi.”
18. Vị tế sư nôn hết dục tham,
Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!
2682. Paṅkeva posaṃ palipe vyasannaṃ balī yathā dubbalaṃ uddhareyya, evampi maṃ tvaṃ udatāri hoti pañcāli gāthāhi subhāsitāhi.
2682. “Giống như người có sức mạnh vớt lên người yếu đuối bị chìm đắm từ chính vũng bùn ở trong đầm lầy, cũng tương tự như vậy, này Pañcālī, nàng là người đã nâng trẫm lên bằng những kệ ngôn được thốt ra khéo léo.”
19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!
2683. Idaṃ vatvā mahārājā esukārī disampati, raṭṭhaṃ hitvāna pabbaji nāgo chetvā va bandhanaṃ.
2683. Sau khi nói điều này, vị đại vương Esukārī, bậc chúa tể một phương, đã từ bỏ vương quốc rồi xuất gia, tựa như con voi đã giật đứt sự trói buộc rồi ra đi.
20. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
Như thể voi vùng đứt bộ cương.
2684. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, tuvampi no hohi yatheva rājā
amhehi guttaṃ anusāsa rajjaṃ.
2684. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Đối với chúng thần, hoàng hậu cũng giống y như là đức vua. Hoàng hậu hãy trị vì xứ sở đã được bảo vệ bởi chúng thần.”
21. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
Vào ngự trong ngôi vị đế vương
Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
Ðược tay phò trợ của quần thần.
XXXX. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, ahampi ekā carissāmi loke
hitvāna kāmāni manoramāni.
XXXX. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục quyến rũ.
(Câu kệ này không có ở Tạng Sri Lanka)
22. An lạc thay là đấng Thánh Quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
2685. Rājā ca pabbajjamarocayittha raṭṭhaṃ pahāya naraviriyaseṭṭho, ahampi ekāva carissāmi loke
hitvāna kāmāni yathodhikāni.
2685. “Đức vua đã ưa thích việc xuất gia. Đấng tối thượng dũng mãnh của loài người đã từ bỏ vương quốc. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục còn nguyên vẹn (không đụng chạm đến).
23. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
2686. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke
hitvāna kāmāni manoramāni.
2686. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục quyến rũ.
24. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
Dung sắc thanh xuân phải úa dần
Nay hãy biết rằng ta đã quyết
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Giã từ khát vọng và tham ái
Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
2687. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke hitvāna kāmāni yathodhikāni.
2687. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, sau khi đã từ bỏ các dục còn nguyên vẹn (không đụng chạm đến).
25. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
Nay hãy biết rằng ta quyết chí
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Nơi nào bất kể còn tham dục
Ta cũng rời xa chúng mọi phần
2688. Accenti kālā tarayanti rattiyo vayoguṇā anupubbaṃ jahanti, ahampi ekāva carissāmi loke sītibhūtā sabbamaticca saṅgan ”ti.
2688. Các thời khắc (ban ngày) đi qua, các đêm tối trôi qua, các giai đoạn của tuổi thọ lần lượt từ bỏ. Bổn cung cũng sẽ đơn độc sống ở thế gian, có trạng thái mát mẻ, sau khi đã vượt qua mọi sự quyến luyến.”
26. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
Hương sắc thanh tân phải úa dần,
Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
Cũng chẳng còn uy lực dục tâm
Hatthipālajātakaṃ.
***
Bổn sanh Vương Tử Hatthipāla. [509]
***
14. AYOGHARAJĀTAKAṂ
14. BỔN SANH TÒA NHÀ SẮT
510. Chuyện vương tử trong ngôi nhà sắt (Tiền thân Ayoghara)
2689. Yamekarattiṃ paṭhamaṃ gabbhe vasati māṇavo, abbhuṭṭhitova sayati sagacchaṃ na nivattati.
2689. “Việc đầu tiên (của sự tục sanh) là một đêm (hoặc một ngày), bào thai trú ở bụng mẹ. Ngay khi đã được hình thành, nó (liên tục) phát triển. Trong khi tiến triển, nó không dừng lại.
1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
Mới vừa khởi sự bước đầu xong
Nó liền tiến mãi hoài liên tục
Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
2690. Na yujjhamānā na balena vassitā narā na jīranti navāpi mīyare, sabbaṃ hi taṃ jātijarāyupaddutaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2690. Không phải trong lúc chiến đấu, không phải được trông cậy vào sức mạnh, mà con người không già hoặc thậm chí không chết. Toàn bộ tất cả đều bị quấy nhiễu bởi sự sanh và sự già. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
Giúp người tránh lão tử sau cùng,
Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
2691. Caturaṅginiṃ senaṃ subhiṃsarūpaṃ jayanti raṭṭhādhipatī pasayha, na maccuno jayituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2691. Các vua chúa của các xứ sở (có thể) chiến thắng đoàn quân gồm bốn binh chủng có dáng vẻ vô cùng khủng khiếp bằng vũ lực, nhưng không thể nào chiến thắng đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
2692. Hatthīhi assehi rathehi pattihi parivāritā muccare ekaceyyā, na maccuno muccituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2692. Được tháp tùng bởi các tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh, một số vua chúa (có thể) được thoát khỏi (kẻ thù), nhưng không thể nào được thoát khỏi đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
Song không ai thoát tay thần chết
Con quyết đời thanh tịnh để phần.
2693. Hatthīhi assehi rathehi pattihi sūrā pabhañjanti padhaṃsayanti, na maccuno bhañjituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2693. Cùng với các tượng binh, xa binh, kỵ binh, và bộ binh, các dũng sĩ (có thể) phá tan, tiêu diệt (kẻ thù), nhưng không thể nào phá vỡ đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
Song không thấy có người nào đủ
Sức mạnh phá tan được tử hình;
Vì thế lòng con nay đã quyết
Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
2694. Mattā gajā bhinnagaḷā pabhinnā nagarāni maddanti janaṃ hananti, na maccuno maddituṃ ussahanti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2694. Những con voi bị nổi cơn dục, có dịch chất tiết ra (ở trán), bị giận dữ, (có thể) dẫm nát các thành phố và giết hại dân chúng, nhưng không thể nào dẫm nát đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
Song chẳng thấy người đầy thế lực
Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
Cho nên con quyết lòng tu tập
Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
2695. Issāsino katahatthāpi dhīrā dūrepātī akkhaṇavedhinopi, na maccuno vijjhituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2695. Những người bắn cung có cánh tay đã được tập luyện, sáng trí, có khả năng bắn xa, có phát bắn nhanh như tia chớp, nhưng không thể nào xuyên thủng đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
Bắn như tia chớp tự xa bay,
Song con không thấy người thừa sức
Làm tổn thương được thần chết này
Vì thế lòng con giờ quyết định
Theo đời thanh tịnh để phần đây.
2696. Sarāni khīyanti saselakānanā sabbaṃ hi taṃ khīyati dīghamantaraṃ, sabbaṃ hi taṃ bhañjare kālapariyaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2696. Các hồ nước, cùng với các ngọn núi và các khu rừng đều bị tiêu hoại. Toàn bộ tất cả đều bị tiêu hoại sau một thời gian dài. Toàn bộ tất cả đều tan vỡ theo trình tự của thời gian. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
Không lâu để sụp đổ điêu tàn
Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
2697. Sabbesamevaṃ hi narānanārinaṃ calācalaṃ pāṇabhunodha jīvitaṃ, paṭova dhuttassa dumova kūlajo
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2697. Bởi vì mạng sống của tất cả những người nam và nữ, của sinh linh ở thế gian này là bấp bênh như vậy, tựa như tấm vải choảng của kẻ nghiện ngập, tựa như cây cối sanh trưởng ở bờ vực. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
9. Giống như cây ở mé bờ sông
Bán áo, người say đổi rượu nồng
Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
2698. Dumapphalāneva patanti māṇavā daharā ca vuddhā ca sarīrabhedā, nāriyo narā majjhimaporisā ca
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2698. Tựa như các trái ở trên cây rụng xuống, các chúng sanh, bao gồm các phụ nữ, các nam nhân, và những người bán nam bán nữ, ở tuổi non trẻ và già cả, khi có sự tan rã thân xác đều ngã xuống. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
Ngã như trái rụng vì cây đổ;
Con quyết đời thanh tịnh bản thân
2699. Nāyaṃ vayo tārakarājasannibho yadabbhatītaṃ gatamevadāni taṃ, jiṇṇassa hi natthi ratī kuto sukhaṃ tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2699. Tuổi tác này không như mặt trăng, chúa của các vì sao (khuyết rồi lại tròn), một khi nó đã trôi qua, thì nó đã đi qua hẳn vào khi ấy (không còn trở lại nữa). Thật sự đối với người già cả, sự vui sướng (ở các dục) không còn, làm sao có sự khoái lạc? Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
11. Xuân của thế gian khác nữ thần
Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
Ðối với lão niên kiệt quệ dần
Lạc thú ái ân nào có được?
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
2700. Yakkhā pisācā athavāpi petā kupitāpi te assasantī manusse, na maccuno assasitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2700. Các Dạ-xoa, các yêu tinh, hoặc thậm chí các vong nhân, khi đã nổi giận, chúng thổi hơi (làm mê man) con người, nhưng không thể nào thổi hơi (làm mê man) đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
Song làn khí độc thần linh ấy
Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
Vì vậy lòng con giờ đã quyết
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
2701. Yakkhe pisāce athavāpi pete kupitepi te nijjhapanaṃ karonti, na maccuno nijjhapanaṃ karonti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2701. Con người (có thể) xoa dịu các Dạ-xoa, các yêu tinh, hoặc thậm chí các vong nhân đã nổi giận, nhưng không thể nào xoa dịu được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
Do người cúng bái; song không thể
Làm tử thần tan hết bất bình
Vì vậy giờ con đây quyết định
Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
2702. Aparādhake heṭhake dūsake ca rājāno daṇḍenti viditva dosaṃ, na maccuno daṇḍayitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2702. Các vị vua (có thể) trừng trị những kẻ phạm tội, những kẻ quấy rối, và những kẻ hư hỏng, sau khi biết được tội lỗi (của những kẻ ấy), nhưng không thể nào trừng trị đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
14. Những người gây tội ác, hung tàn
Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
Song với tử thần, không thể phạt
Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
2703. Aparādhakā dūsakā heṭhakā ca labhanti te rājino nijjhapetuṃ, na maccuno nijjhapanaṃ karonti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2703. Những kẻ phạm tội, những kẻ quấy rối, và những kẻ hư hỏng đạt được việc xoa dịu đối với các vị vua của họ, nhưng không thể nào xoa dịu được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
15. Những người gây tội ác đau thương
Tìm cách cản tay các đế vương
Song với tử thần tay lưỡi hái
Việc này xem quả thật vô phương.
Cho nên con quyết giờ đây chọn
Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
2704. Na khattiyoti na pi brāhmaṇoti na aḍḍhakā balavā tejavāpi, na maccurājassa apekhamatthi tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2704. Tử Thần không có sự mong mỏi ở một chúng sanh nào, là ‘vị Sát-đế-lỵ’ cũng không, là ‘vị Bà-la-môn’ cũng không, những người giàu có, những người có năng lực, những người có uy quyền cũng không. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
Những kẻ mang danh vị tối tôn,
Những đại phú gia, người thế lực
Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
Cho nên con quyết từ đây sống
Phạm hạnh đời con đã chọn đường
2705. Sīhāca vyagghāca athopi dīpiyo pasayha khādanti vipphandamānaṃ, na maccuno khādituṃ ussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2705. Các con sư tử, các con cọp, và luôn cả các con báo (có thể) dùng bạo lực nhai ngấu nghiến con mồi đang giãy giụa, nhưng không thể nào nhai ngấu nghiến đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
Cho nên con trẻ từ đây quyết
Phạm hạnh riêng con sống cả đời
2706. Māyakārā raṅgamajjhe karontā mohenti cakkhūni janassa tāvade, na maccuno mohayitussahanti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2706. Những người làm ảo thuật, trong khi biểu diễn ở giữa khán đài, đánh lừa các con mắt của người xem vào lúc ấy, nhưng không thể nào mê hoặc được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
Diễn trò lừa bịp mắt người trông
Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
2707. Āsīvisā kupitā uggatejā ḍasanti mārentipi te manusse, na maccuno ḍasituṃ ussahanti tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2707. Các con rắn có nọc độc bị nổi giận thì có uy lực hung bạo. Chúng cắn và giết chết nhiều người, nhưng không thể nào cắn được đạo binh của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
Tấn công, giết lập tức người trần;
Nọc kia, thần chết không hề sợ;
Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
2708. Āsīvisā kupitā yaṃ ḍasanti tikicchakā tesaṃ visaṃ hananti, na maccuno daṭṭhavisaṃ hananti
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2708. Các con rắn có nọc độc bị nổi giận rồi cắn người nào, các thầy thuốc (có thể) tiêu diệt nọc độc của chúng, nhưng không thể nào tiêu diệt được nọc độc đã cắn vào của Thần Chết. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
Vị lương y có đủ tài năng
Làm tiêu tan hết xà công lực
Song chữa vết thương của Tử thần
Không một anh hùng nào đủ sức
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
2709. Dhammantarī vetaraṇī ca bhojo visāni hantvāna bhujaṅgamānaṃ, sūyanti te kālakatā tatheva
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2709. Dhammantarī, Vetaraṇī, và Bhoja được nổi tiếng sau khi tiêu diệt các nọc độc của những con rắn. Họ đã qua đời tương tự y như thế. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
2710. Vijjādharā ghoramadhīyamānā adassanaṃ osadhehi vajanti, na maccurājassa vajantadassanaṃ
tamme matī hoti carāmi dhammaṃ.
2710. Các nhà pháp thuật trong khi học thần chú Ghora (có thể) tàng hình di chuyển nhờ vào các phương thuốc, nhưng không thể nào tàng hình di chuyển đối với Ma Vương. Vì thế, con có ý nghĩ rằng: ‘Ta phải thực hành pháp tu tập.’
22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
Mà tử thần trông thấy vẫn gần
Vì vậy lòng con nay quyết định:
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
2711. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti, esānisaṃso dhamme suciṇṇe na duggatiṃ gacchati dhammacārī.
2711. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp. Thiện pháp khéo được thực hành đem lại sự an lạc. Điều này là quả báu khi thiện pháp khéo được thực hành: Người có sự thực hành thiện pháp không đi đến cảnh giới khổ đau.
23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
Ðều là người được hưởng bình an,
Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
2712. Na hi dhammo adhammo ca ubho samavipākino, adhammo nirayaṃ neti dhammo pāpeti suggatinti.
2712. Bởi vì cả hai thiện pháp và phi pháp không có quả thành tựu giống nhau. Phi pháp dẫn đến địa ngục, thiện pháp giúp cho đạt được nhàn cảnh.”
24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.
Ayogharajātakaṃ.
***
Bổn sanh Tòa Nhà Sắt. [510]
***
TASSUDDĀNAṂ
Mātaṅga sambhūta sivi sirimanto rohaṇa haṃsa sattigumbo bhallāṭiya, somanassa campeyya brahma pañca
paṇḍita cirassaṃ vata ayogharāni.
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Ẩn sĩ Mātaṅga, vị Sambhūta, đức vua Sivi, vị Sirimanda, nai Rohaṇa, chim thiên nga, chim két Sattigumba, vua Bhallāṭiya, hoàng tử Somanassa, rồng chúa Campeyya, sự cám dỗ lớn, năm bậc nhân sĩ, vương tử Hatthipāla, và các tòa nhà sắt.
Vīsatinipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
Nhóm Hai Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda