Nội Dung Chính
- Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm năm kệ ngôn, Phẩm 1 – 3
- ▪ 1. MAṆIKUṆḌALAVAGGO – PHẨM BÔNG TAI NGỌC MA-NI
- 1. Maṇikuṇḍalajātakaṃ – Bổn Sanh Bông Tai Ngọc Ma-ni
- 2. Sujātajātakaṃ – Bổn Sanh Thanh Niên Sujāta.
- 4. Uragajātakaṃ – Bổn Sanh Con Rắn.
- 5. Ghatajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Ghata.
- 6. Kāraṇḍiyajātakaṃ – Bổn Sanh Thanh Niên Kāraṇḍiya
- 7. Laṭukikajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Cút.
- 8. Culladhammapālajātakaṃ – Tiểu Bổn Sanh Dhammapāla
- 9. Suvaṇṇamigajātakaṃ – Bổn Sanh Con Nai Vàng
- 10. Susandhijātakaṃ – Bổn Sanh Hoàng Hậu Susandhi.
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 2. VAṆṆĀROHAVAGGO – PHẨM MÀU DA VÀ DÁNG VÓC
- 1. Vaṇṇārohajātakaṃ – Bổn Sanh Màu Da và Dáng Vóc.
- 2. Sīlavīmaṃsajātakaṃ – Bổn Sanh Suy Xét Về Giới.
- 3. Hirijātakaṃ – Bổn Sanh Sự Liêm Sỉ.
- 4. Khajjopaṇakapañho – Bổn Sanh Con Đom Đóm.
- 5. Ahituṇḍikajātakaṃ – Bổn Sanh Người Bắt Rắn.
- 6. Gumbiyajātakaṃ – Bổn Sanh Dạ-xoa Gumbiya.
- 7. Sāḷiyajātakaṃ – Bổn Sanh Con chim Sáo.
- 8. Tacasārajātakaṃ – Bổn Sanh Cật Của Cây Tre.
- 9. Mittavindakajātakaṃ – Bổn Sanh Mittavindaka.
- 10. Palāsajātakaṃ – Bổn Sanh Cây Palāsa.
- ▪ 3. AḌḌHAVAGGO – PHẨM MỘT NỬA
- 1. Dīghitikosalajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Dīghiti Xứ Kosala.
- 2. Migapotajātakaṃ – Bổn Sanh Nai Con.
- 3. Mūsikajātakaṃ – Bổn Sanh Con Chuột.
- 4. Culladhanuggahajātakaṃ – Bổn Sanh Tiểu Xạ Thủ.
- 5. Kapotajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Bồ Câu.
- TÓM LƯỢC (HAI) PHẨM NÀY
Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm năm kệ ngôn, Phẩm 1 – 3
▪ 1. MAṆIKUṆḌALAVAGGO – PHẨM BÔNG TAI NGỌC MA-NI
708. Jino rathassa maṇikuṇḍale ca putte ca dāre ca tatheva jino, sabbesu bhogesu asesitesu kasmā na santappasi sokakāle.
708. “Bị tước đoạt cỗ xe, ngựa, và các bông tai ngọc ma-ni, tương tự y như thể, bị tước đoạt các con và những người vợ, khi tất cả các của cải không còn tồn tại, vì sao ngài không bực bội vào thời điểm sầu muộn?”
Bị cướp hết niềm vui cuộc sống,
Hết hoa tai lộng ngọc, ngựa, xe,
Vợ yêu, con dấu mất đi,
Xem ra ngài chẳng tỏ chi phiền hà!
709. Pubbe va maccaṃ vijahanti bhogā macco vā te pubbataraṃ jahāti, asassatā bhogino kāmakāmī tasmā na socāmahaṃ sokakāle.
709. “Các của cải lìa bỏ con người trước tiên, hoặc là con người từ bỏ chúng trước hết, này kẻ ước ao dục vọng, là tính chất không trường tồn của tài sản, vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.
Thú vui sẽ vội rời ta,
Thú vui rồi sẽ bay xa mấy hồi.
Vua kia tự hóa buồn thôi,
710. Udeti āpūrati veti cando atthaṃ tapetvāna paleti suriyo, viditā mayā sattuka lokadhammā tasmā na socāmahaṃ sokakāle.
710. Mặt trăng mọc lên, tròn dần, rồi khuyết, mặt trời sau khi đốt nóng bầu trời rồi rút lui, này kẻ thù địch, các pháp thế gian đã được ta nhận biết, vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.
Như vần trăng hiện trên trời, trăng non,
Ðầy dần cho đến lúc tròn,
Khuyết đi rồi lại chẳng còn trăng đâu!Sưởi cho vạn vật tươi màu,
Mặt trời vội lặn bên bầu trời xa,
Luật đời là đổi thay mà,
Khổ đau không thể làm ta bận lòng.
711. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.
711. Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.
Ghét thường nhân tham dục
Vẫn theo thói biếng lười.
Kẻ tu hành giả mặt:
Phường xảo quyệt đấy thôi!
Hôn quân thường xử án
Mà chẳng chịu lắng nghe;
Không thể nào biện bạch
Bậc trí nổi sân si7
1. Maṇikuṇḍalajātakaṃ – Bổn Sanh Bông Tai Ngọc Ma-ni
12. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisamma kārino rañño yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.
712. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”
Chiếu vương phán một lời
Cân nhắc thật hẳn hoi,
Chính chuyên lời phán ấy
Vang danh mãi trên đời.
713. Kinnu santaramānova lāyitvā haritaṃ tiṇaṃ, khāda khādāti vilapi gatasattaṃ jaraggavaṃ.
713. “Tại sao con lại phải vội vàng đi cắt cỏ xanh tươi và nói lảm nhảm với con bò già có mạng sống đã lìa rằng: ‘Hãy ăn đi, hãy ăn đi.’
Sao con lại vội mang
Cỏ mới cắt ngọt ngon
Cho con vật đã chết,
Lại kêu “Dậy mà ăn”?
714. Na hi annena pānena mato goṇo samuṭṭhahe, tvañca tucchaṃ vilapasi yathā taṃ dummatī tathā.
714. Bởi vì con bò đã chết không thể nào sống lại nhờ vào cơm ăn nước uống. Và con nói lảm nhảm một cách vô ích như là kẻ điên khùng.”
Không có thức ăn gì
Hồi sinh một bò chết,
Lời con vớ vẩn thật,
Và do bởi mê si.
715. Tatheva tiṭṭhati sīsaṃ hatthapādā ca vāḷadhi, sotā tatheva tiṭṭhanti maññe goṇo samuṭṭhahe.
715. “Đầu, các chân trước sau, và đuôi tồn tại y như thế, hai lỗ tai tồn tại y như thế, con nghĩ rằng con bò có thể sống lại được.
Con vật này hẳn rồi
Vẫn còn đường sống lại,
Vì đủ cả đầu đuôi
Và bốn chân còn đấy.
716. Nevayyakassa sīsaṃ vā hatthapādā na dissare, rudaṃ mattikathūpasmiṃ nanu tvaññeva dummati.
716. Cái đầu hay các tay chân của ông nội không còn được nhìn thấy, trong khi khóc lóc ở tháp thờ bằng đất sét, có lẽ cha mới là điên khùng?”
Còn ông nội, rõ ràng
Ðầu, tay, chân đã mất,
Kẻ khùng nào khóc than?
Chỉ có cha độc nhất!
717. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
717. “Quả thật, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, con có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
Như lửa dầu đang trong cơn cháy mạnh,
Nước đổ vào liền bị tắt ngay đi,
718. Abbūḷhaṃ vata me sallaṃ sokaṃ hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa pitusokaṃ apānudi.
718. Khi ta bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người cha của ta, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của ta.
Cõi lòng ta đang nhức nhối sầu bi,
Con ta đã chữa lành đời ta sáng
719. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇava.
719. Ta đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe con, ta không sầu muộn, không khóc lóc.
Gai đã nhổ, tươi vui và tĩnh lặng,
Ta hết sầu, nghe lời của con ta.
2. Sujātajātakaṃ – Bổn Sanh Thanh Niên Sujāta.
720. Evaṃ karonti sappaññā ye honti anukampakā, vinivattayanti sokamhā sujāto pitaraṃ yathā ”ti.
720. Những vị có trí tuệ hành động như vậy, họ là những người có lòng bi mẫn, họ giúp cho vượt qua nỗi sầu muộn, giống như Sujāta đã giúp cho người cha.”
Bậc thiện hiền khiến đời dứt phiền hà
Cứu thân phụ như Su-jà thông tuệ.
721. Nayidaṃ niccaṃ bhavitabbaṃ brahmadatta khemaṃ subhikkhaṃ sukhatā ca kāye, atthaccaye mā ahu sampamūḷho bhinnaplavo sāgarasseva majjhe.
721. “Này Brahmadatta, điều này không thể là mãi mãi, sự an toàn, sự dễ dàng về vật thực, và sự thoải mái ở cơ thể, khi đã hết thời kỳ tốt đẹp, chớ trở nên hốt hoảng,
tựa như chiếc bè bị vỡ ở giữa biển khơi.
Nay dù bạn bình an hạnh phúc,
Hạnh phúc kia mấy chốc chẳng còn.
Của mất đi chớ khổ buồn,
Như người đi biển bão dồn ném xa.
722. Yāni karoti puriso tāni attani passati, kalyāṇakārī kalyāṇaṃ pāpakārī ca pāpakaṃ, yādisaṃ vapate bījaṃ tādisaṃ harate phalaṃ.
722. Người ta làm những điều gì thì nhìn thấy những điều ấy ở bản thân, người làm thiện nhìn thấy điều thiện, và người làm ác nhìn thấy điều ác, gieo hạt giống như thế nào thì mang lại kết quả như thế ấy.”
Theo hành vi, chúng ta xuôi hướng
Mùa gặt theo như hạt giống gieo,
Hai đằng ta phải nhận vào:
Cỏ hoang độc hại, cây cao tốt lành.
723. Idaṃ tadācariyavaco pārāsariyo yadabravi, māssu tvaṃ akarā pāpaṃ yaṃ taṃ pacchā kataṃ tape.
723. “Điều này là lời nói của thầy dạy học, thầy Pārāsariya đã nói điều ấy: ‘Con chớ làm việc ác, sau này con sẽ hối hận về việc ác đã làm ấy.’
Nay mới hiểu lẽ chân thầy dạy
Từ lúc ta trẻ tuổi dại ngây:
Chớ gây tội ác, có ngày
Ngươi làm việc xấu bị đày đọa thôi.
724. Ayameva so piṅgiya dhonasākho yamhi ghātayiṃ khattiyānaṃ sahassaṃ, alaṅkate candanasāralitte tameva dukkhaṃ paccāgataṃ mamaṃ.
724. Này Piṅgiya, chính là cây này, nó có cành cây tỏa rộng, ở nơi này ta đã giết chết một ngàn vị Sát-đế-lỵ, ở nơi này đã được trang hoàng, đã được bôi tinh dầu trầm hương, chính nỗi khổ đau ấy đã quay trở lại với ta.
Nằm ở dưới tàn cây bóng mát,
Tẩm dầu thơm ngào ngạt chiên-đàn,
Ðịch vương, ta giết cả ngàn,
Nỗi đau họ chịu, ta đang chịu cùng.
3. Dhonasākhajātakaṃ – Bổn Sanh Cành Cây Tỏa Rộng.
725. Sāmāpi kho candanalittagattā siṅguva sobhañjanakassa uggatā, adisvāva kālaṃ karissāmi ubbariṃ taṃ me tato dukkhataraṃ bhavissatī ”ti.
725. Nàng có làn da màu vàng, có thân thể được bôi trầm hương, tựa như nhánh non của cây sobhañjana đã được vươn lên, ta sẽ qua đời không được nhìn thấy nàng Ubbarī,
điều ấy sẽ làm cho ta đau khổ hơn là cái chết.”
Ub-ba-rì mặn mà,
Ôi hoàng hậu của ta,
Dáng người trông yểu điệu,
Như cành Mo-rin-ga.
Tay chân nàng thơm ngát,
Ướp dầu hương chiên-đàn,
Làm sao ta sống nổi,
Khi chẳng thấy được nàng?
Ôi chết không tàn khốc
Bằng nỗi này đau thương!
726. Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ hitvā gacchati saṃ tanuṃ, evaṃ sarīre nibbhoge pete kālakate sati.
726. “Giống như con rắn từ bỏ lớp vỏ già cỗi, phần thân thể của mình, rồi ra đi, tương tự như thế ấy khi thân xác không còn lợi ích, khi là người đã ra đi, đã từ trần.
Ðời người bỏ xác ra,
Khi niềm vui sống qua,
Như rắn kia vẫn thế,
Thường lột vỏ thay da.
727. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
727. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
728. Anabbhito tato āga ananuññāto ito gato, yathā gato tathā gato tattha kā paridevanā.
728. “Không được gọi, từ nơi kia nó đã đi đến; chưa được phép, từ nơi này nó đã ra đi. Nó đã đi đến như thế nào thì nó đã ra đi như thế ấy, trong trường hợp ấy sự than vãn có lợi ích gì?
Không gọi nó đến đây,
Chẳng sai nó đi ngay,
Nó đi như nó đến,
Sao lại phải sầu cay?
729. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
729. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
730. Sace rode kisā assaṃ tassā me kiṃ phalaṃ siyā, ñātimittasuhajjānaṃ bhiyyo no aratī siyā.
730. “Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên tiều tụy; trong trường hợp ấy liệu có được kết quả gì cho tôi? (Việc ấy) còn có thể làm tăng thêm sự ưu sầu cho quyến thuộc bạn bè thân hữu của chúng tôi.
Dù nhịn đói, khóc than,
Ích gì được cho con,
Ôi, bà con thân thuộc,
Sẽ nhiều đau khổ hơn.
731. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
731. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao còn phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
732. Yathāpi dārako candaṃ gacchantamanurodati, evaṃ sampadamevetaṃ yo petamanusocati.
732. “Cũng giống như đứa bé trai khóc lóc đòi mặt trăng đang di chuyển, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.
Như con trẻ kêu gào,
Ðòi vô vọng trăng cao,
Khóc than người yêu mất,
Người đời ngớ ngẩn sao!
733. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
733. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi lại buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
734. Yathāpi udakakumbho bhinno appaṭisandhiyo, evaṃ sampadamevetaṃ yo petamanusocati.
734. “Này người Bà-la-môn, cũng giống như lọ nước đã bị vỡ, không thể hàn gắn lại, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.
Một bình đất đã vỡ,
Ai ráp lại được vào,
Khóc than cho người chết,
Chỉ chuốc thất bại vào.
4. Uragajātakaṃ – Bổn Sanh Con Rắn.
735. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gatī ”ti.
735. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
736. Aññe socanti rodanti aññe assumukhā janā, pasannamukhavaṇṇosi kasmā ghata na socasi.
736. “Những người khác sầu muộn, khóc lóc, những người khác có khuôn mặt đẫm nước mắt. Còn ông có vẻ mặt trầm tĩnh, này Ghata, tại sao ông không sầu muộn?”
Khi kẻ khác khóc than sầu khổ,
Má người kia lệ nhỏ đầm đìa,
Mặt ngài vẫn nụ cười kia,
Ga-ta há chẳng bao giờ kêu than?
737. Nābbhatītaharo soko nānāgatasukhāvaho, tasmā dhaṃka na socāmi natthi soko dutīyatā .
737. “Sầu muộn không đem lại việc đã qua, không mang đến hạnh phúc ở tương lai. Vì thế, này Dhaṃka, ta không sầu muộn; sầu muộn không phải là người bạn.
Chuyện đã qua, buồn nào thay đổi được,
Buồn nào gây hạnh phúc ở tương lai?
Cớ sao ta than vãn khổ đau này?
Sầu muộn chẳng đáng cho ta làm bạn.
738. Socaṃ paṇḍu kiso hoti bhattañcassa na ruccati, amittā sumanā honti sallaviddhassa na ruccati.
738. Trong khi sầu muộn thì trở nên vàng vọt, ốm o, đối với người này thức ăn không được ưa thích. Các kẻ thù trở nên mừng rỡ, là điều không được ưa thích đối với người bị mũi tên (sầu muộn) xuyên thủng.
Kẻ mang bệnh khổ sầu thì suy tận,
Các thức ăn thành vô vị nhạt màu,
Như trúng tên mồi thịt của sầu đau
Làm trò tếu cho kẻ thù tiêu khiển.
739. Gāme vā yadi vāraññe ninne vā yadi vā thale, ṭhitaṃ maṃ nāgamissati evaṃ diṭṭhapado ahaṃ.
739. (Sầu muộn) sẽ không xảy đến cho ta dầu ta ở làng hoặc ở rừng, dầu ta ở đất trũng hoặc ở đất bằng, điều căn bản đã được ta nhận thức như vậy.
Nhà ta ở, dù trên đất, ngoài biển.
Dù trong làng hay heo hút rừng già,
Không bao giờ sầu não đền gần ta,
Hồn đã thiện, chẳng có gì để sợ.
5. Ghatajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Ghata.
740. Yassattā nālamekova sabbakāmarasāraho, sabbāpi paṭhavī tassa na sukhaṃ āvahissatī ”ti.
740. Bản thân người nào, chỉ một mình, là không đủ khả năng để đem lại mọi hỷ lạc của thiền, thì toàn bộ trái đất cũng sẽ không mang đến hạnh phúc cho người ấy.”
Còn kẻ nào chưa kiện toàn đến độ,
Bị nấu nung vì tham dục lắm đàng,
Cả cõi đời cùng của cải tệ tàn
Cũng không hề đủ thỏa lòng tham muốn.
741. Eko araññe girikandarāyaṃ paggayha paggayha silaṃ pavecchasi, punappunaṃ santaramānarūpo kāraṇḍiya ko nu tava yidhattho.
741. “Một mình con lần lượt bê từng tảng đá bỏ vào hang núi ở trong rừng, với dáng vẻ vội vã lặp đi lặp lại, này Kāraṇḍiya, ở đây có lợi ích gì cho con?”
Sao một mình trong rừng
Từng tảng đá con khuân,
Ném đá như có ý
Lấp bằng hang núi chăng?
742. Ahaṃ himaṃ sāgarasevitantaṃ samaṃ karissāmi yathāpi pāṇiṃ, vikiriya sānūni ca pabbatāni ca tasmā silaṃ dariyā pakkhipāmi.
742. “Chính con sẽ làm cho trái đất bốn bề giáp với biển cả này bằng phẳng thậm chí giống như bàn tay sau khi đã san bằng các đồi và các ngọn núi, vì thế, con ném đá vào hang động.”
Con muốn làm đảo này
Phẳng như lòng bàn tay,
San bằng gò đồi nọ,
Chỗ trũng, đá lấp đầy.
743. Nayimaṃ mahiṃ arahati pāṇikappaṃ. samaṃ manusso karaṇāyameko, maññāmimaññeva dariṃ jigiṃsaṃ kāraṇḍiya hāyasi jīvalokaṃ.
743. “Một người sử dụng bàn tay không đủ khả năng để làm công việc san bằng trái đất này. Này Kāraṇḍiya, ta nghĩ rằng trong lúc cố gắng lấp đầy chỉ một hang động này, con sẽ từ bỏ mạng sống.”
Ðời nào một phàm nhân
Có sức lấp đất bằng?
Kà-ran khó hy vọng
Ðọ sức với hang cùng.
744. Sace ayaṃ bhūtadharaṃ na sakko samaṃ manusso karaṇāyameko, evameva tvaṃ brahme ime manusse nānādiṭṭhike nānayissasi te.
744. “Nếu một người không có thể làm công việc san bằng quả địa cầu này, thưa Bà-la-môn, tương tự y như vậy, với những người này là những người có quan điểm khác biệt, thầy sẽ không hướng dẫn được họ.”
Nếu một kẻ phàm nhân,
Không thể san đất bằng,
Ngoại nhân há chịu nhận
Quan điểm thầy hay chăng?
6. Kāraṇḍiyajātakaṃ – Bổn Sanh Thanh Niên Kāraṇḍiya
745. Saṅkhittarūpena bhavaṃ mamatthaṃ akkhāsi kāraṇḍiya evametaṃ, yathā na sakkā paṭhavī samāyaṃ kātuṃ manussena tathā manussā ”ti.
745. “Thưa ngài, ngài đã nói ý nghĩa cho ta bằng hình thức tóm tắt. Này Kāraṇḍiya, điều ấy là như vậy. Giống như trái đất này bằng phẳng là không thể được, những con người với con người là tương tự như thế.”
Này Kà-ran-di-ya,
Bạn khuyên tốt cho ta,
Ðất không san phẳng được,
Ý người chẳng đồng hòa.
746. Vandāmi taṃ kuñjara saṭṭhihāyanaṃ āraññakaṃ yūthapatiṃ yasassiṃ, pakkhehi taṃ pañjalikaṃ karomi mā me vadhī puttake dubbalāya.
746. “Thưa ông voi, tôi xin đảnh lễ ngài, vị có sáu mươi tuổi thọ, ở trong rừng, chúa bầy, có danh vọng. Tôi chắp hai cánh lại làm lễ ngài. Xin ngài chớ hại chết những chim con yếu ớt của tôi.”
Hỡi Voi tuổi sáu mươi,
Chúa rừng của đồng loài,
Ta chỉ là chim nhỏ,
Còn ngài lãnh đạo bầy,
Cánh nâng, tôi kính cẩn
Xin tha lũ con này.
747. Vandāmi taṃ kuñjara ekacāriṃ āraññakaṃ pabbatasānugocaraṃ, pakkhehi taṃ pañjalikaṃ karomi mā me vadhī puttake dubbalāya.
747. “Thưa ông voi, tôi xin đảnh lễ ngài, vị độc hành, ở trong rừng, đi kiếm ăn ở vùng núi đồi. Tôi chắp hai cánh lại làm lễ ngài. Xin ngài chớ hại chết những chim con yếu ớt của tôi.”
Khắp thung lũng, núi đồi
Ngài riêng một đường thôi,
Vua rừng, tôi năn nỉ
Nâng cánh cúi can ngài,
Tôi chỉ là Cút mọn
Xin tha lũ con tôi.
748. Vadhissāmi te laṭukike puttakāni kiṃ me tuvaṃ kāhasi dubbalāsi, sataṃ sahassānipi tādisīnaṃ vāmena pādena papothayeyya.
748. “Ta sẽ giết hại những chim cút con của ngươi. Ngươi là loài yếu ớt, ngươi sẽ làm gì ta? Đối với một trăm ngàn chim cút như thế ấy, ta có thể dẫm nát với bàn chân trái.”
Cút ơi, ta sẽ giết con mi
Hèn mọn như mi giúp được chi?
Chân trái ta đây đè bẹp hết
Mấy ngàn chim nhỏ vẫn thường khi.
749. Naheva sabbattha balena kiccaṃ balaṃ hi bālassa vadhāya hoti, karissāmi te nāgarājā anatthaṃ yo me vadhī puttake dubbalāya.
749. “Không hẳn ở mọi nơi đều có việc phải làm với sức mạnh,
chính sức mạnh đem lại sự chết chóc cho kẻ ngu.
Này voi chúa, ta sẽ làm điều bất lợi đối với ngươi,
kẻ đã giết hại những chim con yếu ớt của ta.”
Bạo lực không là được lợi luôn,
Mạnh thường là họa của si cuồng,
Thú kia đã giết con ta chết,
Ác ấy ta đây sẽ tính đường.
7. Laṭukikajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Cút.
750. Kākañca passa laṭukikaṃ maṇḍūkaṃ nīlamakkhikaṃ, ete nāgaṃ aghātesuṃ passa verassa verinaṃ, tasmā veraṃ na kayirātha appiyena ca kenacī ”ti.
750. “Hãy nhìn xem con quạ, con chim cút, con ếch, và con nhặng xanh. Những con vật này đã giết chết con voi. Hãy nhìn xem người có thù hận đưa đến sự thù hận, vì thế không nên tạo ra sự thù hận với kẻ không yêu mến và với bất cứ người nào.”
Cút cùng Quạ, Ruồi xanh, Ếch hợp lại,
Từng chứng minh kết quả của thù hằn,
Vương tượng kia vì chúng chết oan thân,
Vậy hãy tránh hết mọi điều tranh cãi.
751. Ahameva dūsiyā bhūnahatā rañño mahāpatāpassa, etaṃ muñcatu dhammapālaṃ hatthe me deva chedehi.
751. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt hai cánh tay của thiếp.”
Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt tay tôi, người bất hạnh.
752. Ahameva dūsiyā bhūnahatā rañño mahāpatāpassa, etaṃ muñcatu10 dhammapālaṃ pāde me deva chedehi.
752. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt hai bàn chân của thiếp.”
Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pa-la,
Và hãy chặt chân tôi, người bất hạnh.
753. Ahameva dūsiyā bhūnahatā rañño mahāpatāpassa, etaṃ muñcatu dhammapālaṃ sīsaṃ me deva chedehi.
753. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt cái đầu của thiếp.”
Hoàng hậu hèn của Ðại Pa-tà-pa,
Chính là tôi, tội này riêng phải gánh.
Ðại vương, hãy thả Dham-ma-pà-la,
Và hãy chặt đầu tôi, người bất hạnh.
754. Nahanūnimassa rañño mittāmaccā ca vijjare suhadā, ye na vadanti rājānaṃ mā ghātayi orasaṃ puttaṃ.
754. “Chẳng lẽ vị vua này không có các bạn bè, các quan cố vấn, và các thân hữu? Và họ không nói với đức vua rằng: ‘Xin bệ hạ chớ giết chết đứa con trai chính thống của mình.’
Cận thần chẳng ai can
Một lời với chúa công:
Chớ giết kẻ thừa kế
Từ ruột ngài nên thân!
755. Nahanūnimassa rañño mittā ñātī ca vijjare suhadā, ye na vadanti rājānaṃ mā ghātayi atrajaṃ puttaṃ.
755. Chẳng lẽ vị vua này không có các bạn bè, các bà con, và các thân hữu? Và họ không nói với đức vua rằng: ‘Xin bệ hạ chớ giết chết đứa con trai ruột của mình.’
Thân quyến chẳng một người
Nhẹ khuyên vua một lời:
Chớ giết đi hoàng tử
Ngài đã ban cuộc đời!
8. Culladhammapālajātakaṃ – Tiểu Bổn Sanh Dhammapāla
756. Candanarasānulittā bāhā chijjanti dhammapālassa, dāyādassa pathavyā pāṇā me deva rujjhantī ”ti.
756. Hai cánh tay được bôi tinh dầu trầm hương của Dhammapāla, người thừa kế lãnh thổ, bị chặt đứt, tâu bệ hạ, hơi thở của thiếp bị tắc nghẹn.”
Hỡi Dham-ma-pà-la,
Dòng chính thống sinh ra;
Ðể trị vì trọn cõi
Tay con từng tắm dội,
Với dầu thơm chiên-đàn,
Nay nằm đấy, máu tràn.
Hỡi ôi, ta nghẹn thở,
Nghẹn cả lời kêu than.
757. Vikkama re mahāmiga vikkama re harīpada, chinda vārattikaṃ pāsaṃ nāhaṃ ekā vane rame.
757. “Hỡi nai lớn, chàng hãy cố gắng. Hỡi chân vàng, chàng hãy cố gắng. Chàng hãy giựt đứt lưới bẫy với đai da. Một mình, thiếp sẽ không vui thích ở khu rừng.”
Hỡi chân vàng, hãy dồn hết sức,
Ðể thoát ra cho dứt bẫy này,
Mất chàng, há thiếp vui say
Thảnh thơi dong ruổi đó đây trong rừng?
758. Vikkamāmi na pāremi bhūmiṃ sumbhāmi vegasā, daḷho vārattiko pāso pādaṃ me parikantati.
758. “Ta cố gắng nhưng không thoát được. Ta tống mạnh vào mặt đất. Lưới bẫy với đai da cứng rắn cứa đứt bàn chân của ta.”
Ta đây đã quá chừng cố gắng,
Tự do nào đạt đặng đâu mà!
Càng vùng để thoát thân ra,
Mối dây càng thắt thịt da thế này.
759. Attharassu palāsāni asiṃ nibbāha luddaka, paṭhamaṃ maṃ hanitvāna hana pacchā mahāmigaṃ.
759. “Này người thợ săn, ông hãy trải rộng các lá cây, rồi hãy rút gươm ra. Ông hãy giết chết tôi trước, rồi giết chết con nai lớn sau.”
Nơi đây, hãy trải lá dày
Chúng tôi sẽ ngã xuống ngay đây mà,
Thợ săn, hãy rút gươm ra
Giết tôi, rồi giết tiếp là chồng tôi!
760. Na me sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā bhāsantiṃ mānusiṃ migiṃ, tvañca bhadde sukhī hohi eso cāpi mahāmigo.
760. “Ta chưa từng được nghe hay được thấy con nai cái nói tiếng người. Này nai hiền, cầu cho ngươi và luôn cả con nai lớn ấy được an lành..”Con vật nói tiếng người
Ta chưa thấy trên đời
Nai hiền, an tâm nhé!
Chân vàng, dứt sợ thôi!
9. Suvaṇṇamigajātakaṃ – Bổn Sanh Con Nai Vàng
761. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātihi, yathāhamajja nandāmi muttaṃ disvā mahāmigan ”ti.
761. “Này người thợ săn, mong rằng ông cùng với tất cả thân quyến được vui mừng như vầy, giống như tôi hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai lớn được cứu thoát.”
Hôm nay tôi thích thú đầy tràn,
Nai vĩ đại này được thoát thân,
Vậy thợ săn, người vừa gỡ bẫy,
Hãy vui vầy với mọi thân nhân.
762. Vāti gandho timirānaṃ kusamuddo ca ghosavā, dūre ito hi susandhi tambakāmā tudanti maṃ.
762. “Mùi hương của các hoa timira thoảng đến, và vùng biển nhỏ có âm thanh vang dội. Nàng Susandhi ở xa nơi này lắm, sự mong muốn của đức vua Tamba thúc giục tôi.”
Tôi ngửi thấy mùi hương rừng rậm,
Tôi nghe ra biển thẳm rền la,
Vì tình tôi khổ, Tam-ba,
Sus-son-di đẹp cách xa tôi rồi!
763. Kathaṃ samuddamatari kathaṃ addakkhi serumaṃ, kathaṃ tassā ca tuyhañca ahu saggasamāgamo.
763. “Làm thế nào ngươi đã vượt qua biển cả, làm thế nào ngươi đã nhìn thấy hòn đảo Seruma? Này Sagga, làm thế nào đã có sự gặp gỡ giữa nàng và ngươi được?”
Biển bão tố, sao người qua được
Se-ru-ma mà vẫn an hòa?
Cách nào, hãy nói, Sag-ga,
Sus-son-di đẹp, người đà đến ngay
764. Bharukacchā payātānaṃ vāṇijāna dhanesinaṃ, makarehambhidā nāvā phalakenāhamaplaviṃ.
764. “Chiếc thuyền của các thương buôn tầm cầu tài sản khởi hành từ Bharukaccha đã bị vỡ tan bởi các con hải quái, tôi đã trôi nổi nhờ vào tấm ván gỗ.
Từ Bhà-ru-kac-cha,
Cùng với đoàn thương gia,
Thuyền tôi đi bị đắm
Vì hải quái gây ra,
Tôi nhờ vào tấm ván
Mà ghé được vào bờ.
765. Sā maṃ saṇhena mudunā niccaṃ candanagandhinī, aṅkena uddharī bhaddā mātā puttaṃva orasaṃ.
765. Công nương ấy, luôn có mùi thơm trầm hương, đã nâng tôi dậy bằng cơ thể mịn màng, mềm mại, tựa như người mẹ bồng ẵm đứa con trai ruột.
Một hoàng hậu thơm tho
Với bàn tay dịu hiền
Nhẹ nhàng nâng tôi lên
Ðặt tôi vào đầu gối.
Hẳn như tôi lúc ấy
Là con thực của nàng.
10. Susandhijātakaṃ – Bổn Sanh Hoàng Hậu Susandhi.
766. Sā maṃ annena pānena vatthena sayanena ca, attanāpi ca maddakkhī evaṃ tamba vijānahī ”ti.
766. Nàng ấy đã làm tôi thỏa mãn với cơm, nước, y phục, và chỗ nằm, và đích thân nàng cũng đã chăm sóc tôi. Tâu đức vua Tam ba, ngài hãy nhận biết như vậy.”
Nàng cho mặc, cho ăn,
Và khi tôi nằm đấy,
Nàng nhìn chỗ tôi nằm,
Bằng đôi mắt đắm đuối,
Suốt cả ngày như vậy,
Chúa Tam-ba, nên biết,
Ðây lời thực tôi trình.
Maṇikuṇḍalavaggo paṭhamo.
*****
Phẩm Bông Tai Ngọc Ma-ni là thứ nhất.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Athajinavaroharitaṃ tiṇako athabhinnaplavo uragovaghato, dariyā puna kuñjara bhūnahatā migaputtamasaggavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ chuyện bị tước đoạt, người có cỏ xanh tươi, rồi chiếc bè bị vỡ, giống như con rắn, vua Ghata, ở hang động, thưa ông voi, người phá hoại sự thăng tiến, con nai, với chuyện Sagga cao quý, là mười.
–ooOoo–
▪ 2. VAṆṆĀROHAVAGGO – PHẨM MÀU DA VÀ DÁNG VÓC
767. Vaṇṇārohena jātiyā balanikkamaṇena ca, subāhu na mayā seyyo sudāṭha iti bhāsati.
767. “Nghe nói sư tử Sudāṭha nói rằng: ‘Cọp Subāhu không hơn ta về màu da và dáng vóc, về dòng dõi, về sức mạnh, và về sự dũng cảm,’ có đúng không?”
Có phải chăng Su-dà-tha nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung.
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-bà-hu cũng phải nhường thua tôi!
768. Vaṇṇārohena jātiyā balanikkamaṇena ca, sudāṭho na mayā seyyo subāhu iti bhāsati.
768. “Nghe nói cọp Subāhu nói rằng: ‘Sư tử Sudāṭha không hơn ta về màu da và dáng vóc, về dòng dõi, về sức mạnh, và về sự dũng cảm,’ có đúng không?
Có phải chăng Su-bà-hu nói:
Ðẹp sang về dòng dõi, hình dung
Oai hùng, quyền lực trong vùng
Su-dà-ha cũng phải nhường thua tôi!
769. Evañce maṃ viharantaṃ subāhu samma dubbhasi, nadānāhaṃ tayā saddhiṃ saṃvāsamabhirocaye.
769. Này bạn Subāhu, trong khi tôi sống như vậy nếu bạn muốn hại tôi, thì từ nay, tôi sẽ không thích thú việc cộng trú với bạn nữa.
Nếu lời bạn chê bai như vậy,
Thì bạn đâu còn phải bạn tôi!
770. Yo paresaṃ vacanāni saddahetha yathātathaṃ, khippaṃ bhijjetha mittasmiṃ verañca pasave bahuṃ.
770. Kẻ nào tin các lời nói của những người khác là sự thật, thì có thể bị sứt mẻ tình bạn một cách mau chóng và tạo ra sự thù hận với nhiều người.
Chuyện tầm phào, lắng nghe rồi
Sẽ gây tranh cãi với người bạn ta,
Và trong thù hận cay chua
Mối tình thân hữu sẽ là đứt ngang.
1. Vaṇṇārohajātakaṃ – Bổn Sanh Màu Da và Dáng Vóc.
771. Na so mitto yo sadā appamatto bhedāsaṅkī randhamevānupassī, yasmiñca seti urasīva putto sa ve mitto yo abhejjo parehī ”ti.
771. Kẻ nào luôn cảnh giác, ngờ vực sự chia rẽ, có sự soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Người nào không bị chia cắt bởi những kẻ khác, và ở người nào (có thể) trông cậy được (không có sự nghi ngờ, không có sự sợ hãi), tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (mẹ), người ấy quả thật là bạn.”
Ðã là bè bạn thương thân,
Ai đâu nghi ngại chẳng nhân cớ nào!Ai đâu tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau làm gì!Niềm tin bạn, ta thì vẫn giữ
Như trẻ thơ tin vú mẹ thân.
Chẳng gì kẻ lạ nói năng
Mà đành có lúc tách phân bạn lòng.
772. Sīlaṃ seyyo sutaṃ seyyo iti me saṃsayo ahū, sīlameva sutā seyyo iti me natthi saṃsayo.
772. “Thần đã có hoài nghi rằng: ‘Giới hạnh là tốt hơn hay kiến thức là tốt hơn.’ Hoài nghi của thần không còn nữa: ‘Giới hạnh là tốt hơn kiến thức.’
Ðức hạnh và kiến thức
Tôi đã thể nghiệm rồi.
Nay không còn ngờ vực,
Ðức hạnh tốt nhất đời.
773. Moghā jāti ca vaṇṇo ca sīlameva kiruttamaṃ, sīlena anupetassa sutenattho na vijjati.
773. Dòng dõi và sắc đẹp là vô ích, nghe nói chỉ có giới hạnh là tối thượng. Đối với người không thành tựu giới hạnh, lợi ích do kiến thức không tồn tại.
Ðức hạnh vượt thiên phú
Ðẹp, sang suông đâu bí.
Khi ở xa đức hạnh
Kiến thức chẳng đáng chi!
774. Khattiyo ca adhammaṭṭho vesso cādhammanissito, te pariccajjubho loke upapajjanti duggatiṃ.
774. Vị Sát-đế-lỵ duy trì phi pháp và thương nhân nương tựa phi pháp, những kẻ ấy tái sanh vào khổ cảnh sau khi lìa bỏ cả hai thế giới (người và Trời).
Nông dân hay hoàng tử
Hễ đã vướng tội vào,
Ở cõi nào đâu chứ,
Thoát khỏi niềm khổ đau?
775. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍālapukkusā, idha dhammaṃ caritvāna bhavanti tidive samā.
775. Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, và các người hốt rác, sau khi thực hành đức hạnh ở nơi này, sẽ được bình đẳng ở cõi Trời.
Dù thuộc hàng thấp kém
Hay ở lớp quý cao,
Nếu đời này đức hạnh,
Ở Thiên giới ngang nhau.
2. Sīlavīmaṃsajātakaṃ – Bổn Sanh Suy Xét Về Giới.
776. Na vedā saṃparāyāya na jāti nopi bandhāvā, sakañca sīlaṃ saṃsuddhaṃ samparāyasukhāvahan ”ti.
776. Các kiến thức không đưa đến tương lai, dòng dõi cũng không, các thân quyến cũng không, và giới hạnh hoàn toàn trong sạch của bản thân là nguồn đem lại hạnh phúc ở tương lai.”
Dòng dõi và trí thức,
Thân tình, chẳng đáng đâu!
Chỉ riêng thuần đức hạnh
Ðem phước lạc mai sau.
777. Hiriṃ tarantaṃ vijigucchamānaṃ tavāhamasmiṃ iti bhāsamānaṃ, seyyāni kammāni anādiyantaṃ neso mamanti iti taṃ vijaññā.
777. “Người vượt qua liêm sỉ, xem thường (tình bạn), người nói rằng: ‘Tôi là thuộc về bạn,’ người không chọn lấy các công việc tốt hơn (cho bạn), nên biết rõ về kẻ ấy rằng: ‘Người này không phải là bạn của ta.’
Kẻ nào dù được kính vì,
Khi làm phận tớ, lòng thì ghét ta.
Chẳng làm việc tốt đâu mà,
Còn riêng lời nói rườm rà nhiêu khê,
Ta nên phải quyết một bề:
Người nào như thế, chớ hề kết giao.
778. Yaṃ hi kayirā taṃ hi vade yaṃ na kayirā na taṃ vade, akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.
778. Có thể làm điều gì thì nên nói điều ấy, không thể làm điều gì thì không nên nói điều ấy. Các bậc sáng suốt biết rõ người nói mà không làm.
Một khi đã trót hứa vào
Thực hành lời hứa làm sao cho tròn.
Việc nào chẳng thể làm xong,
Thì ta từ chối, quyết không hứa gì. Người khôn quay mặt ngoảnh đi
Những khoa trương rỗng đáng chi để lòng.
779. Na so mitto yo sadā appamatto bhedāsaṅkī randhamevānupassī, yasmiñca seti urasīva putto sa ve mitto yo abhejjo parehi.
779. Kẻ nào luôn cảnh giác, ngờ vực sự chia rẽ, có sự soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Người nào không bị chia cắt bởi những kẻ khác, và ở người nào (có thể) trông cậy được (không có sự nghi ngờ, không có sự sợ hãi), tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (mẹ), người ấy quả thật là bạn.”
Một khi bạn đã nhau cùng,
Thì không tranh chấp khi không cớ nào.
Chẳng hề tìm vạch gắt gao
Những điều lầm lỗi của nhau bao giờ.
Vững tin bạn, tựa trẻ thơ
Tin vào vú mẹ chẳng ngờ chút chi.
780. Pāmojjakaraṇaṃ ṭhānaṃ pasaṃsāvahanaṃ sukhaṃ, phalānisaṃso bhāveti vahanto porisaṃ dhuraṃ.
780. Trong khi thực hành phận sự của con người, người cân nhắc về kết quả và sự lợi ích làm tăng trưởng (tình bạn thông qua) việc tạo ra sự vui thích, sự nâng đỡ, sự đem lại lời khen tặng, sự thoải mái.
Dù người lạ nói, làm gì,
Cũng không hề muốn chia ly bạn lòng.
Tình bằng ai khéo chịu tròn
Hẳn đời tăng ích, cao khôn phước phần.
3. Hirijātakaṃ – Bổn Sanh Sự Liêm Sỉ.
781. Pavivekarasaṃ pītvā rasaṃ upasamassa ca, niddaro hoti nippāpo dhammapītirasaṃ pivan ”ti.
781. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.”
Nhưng người hưởng thú tịnh an,
Uống vào những ngụm lẽ Chân ngọt ngào.
Riêng người ấy biết làm sao
Thoát dây buộc tội, thoát bao khổ phiền.
782. Ko nu santamhi pajjote aggipariyesanaṃ caraṃ, addakkhi rattiṃ khajjotaṃ jātavedaṃ amaññatha.
782. “Người nào, trong khi có ngọn đèn, trong khi đi tìm kiếm lửa đã nhìn thấy con đom đóm lúc ban đêm và đã nghĩ là ngọn lửa?
Khi lửa tắt, có ai đi tìm lửa từng nghĩ rằng con đom đóm có thể làm mồi lửa được chăng, nếu người ấy trông thấy đom đóm ban đêm?
783. Svāssa gomayacuṇṇāni abhimatthaṃ tiṇāni ca, viparītāya saññāya nāsakkhi pajjaletave.
783. Kẻ ấy, trong khi nghiền nát bụi phân bò và các cỏ khô ở con đom đóm (để nhóm lửa), do hiểu biết sai lệch, đã không thể làm bùng lên ngọn lửa.
Nếu người ấy vò vụn phân bò và cỏ chất lên nó thì thật là điên rồ, vì không thể làm nó bắt lửa được.
784. Evampi anupāyena atthaṃ na labhate mago, visāṇato gavaṃ dohaṃ yattha khīraṃ na vindati.
784. Cũng như vậy, bằng cách thức sai trái, kẻ ngu không đạt được sự lợi ích, trong khi vắt sữa bò cái từ sừng bò, là nơi không tìm thấy sữa.
Cũng vậy, một thú vật không ích lợi gì cho ta nếu ta dùng nó theo cách sai lạc, ví như vắt sữa sừng bò, thì chẳng bao giờ sữa chảy ra.
785. Vividhehi upāyehi atthaṃ papponti māṇavā, niggahena amittānaṃ mittānaṃ paggahena ca.
785. Các chàng trai trẻ thu thập điều lợi ích theo nhiều cách thức, nhờ vào sự quở trách của những kẻ thù và nhờ vào sự nâng đỡ của các thân hữu.
Con người được lợi lạc nhờ nhiều phương tiện như là trừng phạt kẻ thù và tỏ tình thân ái với bằng hữu.
4. Khajjopaṇakapañho – Bổn Sanh Con Đom Đóm.
786. Seṇimokkho palābhena vallabhānaṃ nayena ca, jagatiṃ jagatīpālā āvasanti vasundharan ”ti.
786. Nhờ việc thu phục các tướng lãnh của quân đội, và nhờ vào kế hoạch của các cận thần, các vị chúa tể trái đất cư ngụ ở trái đất, nơi cất giữ nhiều của cải.”
Nhờ chinh phục các tướng lãnh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn.
787. Dhuttomhi samma sumukha jūte akkhaparājito, harehi ambapakkāni viriyante bhakkhayāmase.
787. “Này anh bạn có khuôn mặt đẹp, ta là kẻ đánh bạc, bị thua vì những con súc sắc ở sòng bạc. Bạn hãy ném xuống những trái xoài chín, chúng ta sẽ thọ hưởng sự nỗ lực của bạn.”
Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi,
Như người chơi bị súc sắc phá tàn,
Hãy ném xoài đây; Ta biết rõ ràng
Ta sống được nhờ bạn nhiều mưu kế.
788. Alikaṃ vata maṃ samma abhūtena pasaṃsasi, ko te suto vā diṭṭho vā sumukho nāma makkaṭo.
788. “Này ông bạn, quả thật ông ca ngợi không đúng về ta bằng điều dối trá; ông đã nghe hoặc đã thấy con khỉ nào được gọi là có khuôn mặt đẹp?
Lời bạn khen, âm thanh vô nghĩa thế, Khỉ đẹp xinh: Bao giờ kiếm cho ra!
789. Ajjāpi me tvaṃ manasi yaṃ maṃ tvaṃ ahituṇḍika, dhaññāpaṇaṃ pavisitvā matto chātaṃ hanāsi maṃ.
789. Này người bắt rắn, hôm nay vẫn còn trong trí của ta về việc ông đối xử với ta, sau khi đi vào tiệm bán ngũ cốc, ông, bị say rượu, đã đánh đập ta lúc ta đang bị đói khát.
Xin hỏi ai trong hàng quán say sưa,
Nay bỏ đói và đánh ta đau vậy?
790. Tāhaṃ saraṃ dukkhaseyyaṃ api rajjampi kāraye, nevāhaṃ yācito dajjaṃ tathā hi bhayatajjito.
790. Trong khi ta nhớ lại việc nằm dài khổ sở, thậm chí ông có cho ta làm vua, ta sẽ không bao giờ ban thưởng cho ngươi dầu được cầu xin, bởi vì ta đã bị kinh hoàng vì sợ hãi như thế ấy.
Anh dụ rắn hỡi, ta đây nhớ lại
Giường khổ đau nơi ta phải nằm vào.
Nếu có ngày ta lên nắm ngôi cao,
Chớ xin ta rỉ chút nào ân huệ.Vì ta nhớ bạn từng hung ác thế,
5. Ahituṇḍikajātakaṃ – Bổn Sanh Người Bắt Rắn.
791. Yañca jaññā kule jātaṃ gabbhe tittaṃ amacchariṃ, tena sakhiñca mittañca dhīro sandhātumarahatī ”ti.
791. Và nếu biết người nào đã được sanh ra trong gia đình danh giá, được nuôi dưỡng đầy đủ lúc ở bào thai, không bỏn xẻn, bậc sáng trí có thể kết giao bạn bè và thân hữu với người ấy.”
Nhưng nếu ai vui vẻ sống trong nhà
Hạng thanh cao, chịu đem của trao ra,
Thì sẽ được người khôn giao kết chặt.
792. Madhuvaṇṇaṃ madhurasaṃ madhugandhaṃ visaṃ ahu, gumbiyo ghāsamesāno araññe odahī visaṃ.
792. “Chất độc có màu sắc của mật ong, có vị của mật ong, có hương của mật ong. Dạ-xoa Gumbiya, với sự tìm kiếm thực phẩm, đã đặt để chất độc ở trong rừng.
Thuốc độc giống như mật ngọt ngào
Khi ta ngửi, nếm hoặc nhìn vào,
Gum-bi-ya đã bày ra đó,
Mục đích hại người thật hiểm sao!
793. Madhu iti maññamānā ye taṃ visamasāyisuṃ, tesaṃ taṃ kaṭukaṃ āsi maraṇaṃ tenupāgamuṃ.
793. Những kẻ nào nghĩ rằng: ‘Mật ong’ rồi đã ăn vào chất độc ấy. Đối với những kẻ ấy, chất ấy có vị cay. Họ đã đi đến cái chết vì chất độc ấy.Hễ kẻ nào ham ăn hưởng mật,
Ăn vào, phải chết giữa rừng sâu.
794. Ye ca kho paṭisaṅkhāya visaṃ taṃ parivajjayuṃ, te āturesu sukhitā ḍayhamānesu nibbutā.
794. Và quả thật những người nào, sau khi xem xét, đã lánh xa chất độc ấy, những người ấy được an lạc, được thoát khỏi các cơn bệnh đang thiêu đốt.
Những ai khôn tránh xa mồi nhử,
Giữ được an lành, khỏi khổ đau.
795. Evameva manussesu visaṃ kāmā samohitā, āmisaṃ bandhanaṃ cetaṃ maccuvaso guhāsayo.
795. Tương tự y như thế ở loài người, chất độc là các dục đã được phô bày, và vật chất này là sự trói buộc, quyền lực của thần chết có sự trú ngụ ở thân xác này.
Tham dục cũng như mồi dục vậy,
Ðược bày ra để hại con người,
Tấm lòng tham ái thường khi vẫn
Phản bội, đưa người đến chết thôi.
6. Gumbiyajātakaṃ – Bổn Sanh Dạ-xoa Gumbiya.
796. Evameva ime kāme āturā paricārake, ye sadā parivajjenti saṅgaṃ loke upaccagun ”ti.
796. Tương tự y như thế, những người nào luôn luôn lánh xa các dục, các bệnh tật, các sự trói buộc này, những người ấy vượt qua sự quyến luyến ở thế gian.”
Những hễ kẻ nào dù yếu đuối,
Tránh xa ác dục cuốn lôi người,
Chính là kẻ thoát dây ràng buộc
Của nỗi thương đau, thoát khổ rồi.
797. Yvāyaṃ sāḷiya chāpoti kaṇhasappaṃ agāhayi, tena sappenayaṃ daṭṭho hato pāpānusāsako.
797. “Kẻ này đã bảo đứa trẻ nắm lấy con rắn độc màu đen bảo là ‘con chim sáo con,’ gã này đã bị con rắn ấy cắn, kẻ chỉ dạy điều ác đã bị giết chết.
Kẻ nào khiến bè bạn
Bắt một con rắn độc tàn,
Bảo là nhím, chẳng hạn,
Chính kẻ ấy lãnh phầnPhải chết vì rắn cắn,
798. Ahanantamahantāraṃ yo naro hantumicchati, evaṃ so nihato seti yathāyaṃ puriso hato.
798. Kẻ nào muốn giết chết người không đánh đập và không phải là kẻ sát nhân, kẻ ấy bị giết chết nằm dài như vậy, giống như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).
Như kẻ mong láng giềng
Gặp phải điều bất hạnh.
Ai muốn đánh một kẻ
Chẳng bao giờ đánh trả,Sẽ bị đánh, ngã xoài
799. Ahanantamahantāraṃ yo naro hantumicchiti, evaṃ so nihato seti yathāyaṃ puriso hato.
799. Kẻ nào muốn giết chết người không đánh đập và không giết hại, kẻ ấy bị giết chết nằm dài như vậy, giống như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).
Như cú đấm chết người
Khiến kẻ ác thống khổ.
800. Yathā paṃsumuṭṭhiṃ puriso paṭivātaṃ paṭikkhipe, tameva so rajo hanti tathāyaṃ puriso hato.
800. Giống như người tung ra nắm bụi đất ngược chiều gió, bụi bặm ấy hãm hại chính kẻ ấy, tương tự như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).
Như cát tung ngược gió
Bị thổi lại người tung.
7. Sāḷiyajātakaṃ – Bổn Sanh Con chim Sáo.
801. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati suddhassa posassa anaṅgaṇassa, tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto ”ti.
801. Kẻ nào làm điều xấu xa đến người không làm điều xấu xa,
đến người trong sạch, không có ô nhiễm,
điều ác xấu sẽ nung nấu chính kẻ ngu ấy,
tựa như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.”
Kẻ nào trao tai họa
Cho một bậc thiện nhân. Khổ ải quay trở lại
Cho chính kẻ điên khùng
Như cát bay trở lại,
Khi tung ngược cuồng phong.
802. Amittahatthatthagatā tacasārasamappitā, pasannamukhavaṇṇattha kasmā tumhe na socatha.
802. “Bị rơi vào trong tay của kẻ thù, bị trói buộc bởi cật của cây tre, các ngươi vẫn có sắc mặt điềm tĩnh, tại sao các ngươi không sầu muộn?”
Bị rơi vào giữa tay thù
Bị dây tre trói buộc như thế này,
Vẫn trông tươi tỉnh mặt mày,
Làm sao người dấu được ngay khổ sầu?
803. Na socanāya paridevanāya attho ca labbhā api appakopi, socantamenaṃ dukhitaṃ viditvā paccatthikā attamanā bhavanti.
803. “Lợi ích không thể nào đạt được do sầu muộn do than vãn, thậm chí chỉ là chút ít. Sau khi biết kẻ ấy đang sầu muộn, bị khổ sở, các địch thủ trở nên hoan hỷ.
– Người kia than trách buồn đau
Có đâu thu được lợi nào mảy may!
Ðối phương thích thú lắm thay
Khi trông thấy nỗi khổ giày vò ta.
804. Yato ca kho paṇḍito āpadāsu na vedhati atthavinicchayaññū, paccatthikāssa dukhitā bhavanti disvā mukhaṃ avikāraṃ purāṇaṃ.
804. Và thật vậy, bởi vỉ người sáng suốt trong những lúc rủi ro, không run rẩy, biết cách phán quyết tình huống. Các địch thủ của người này bị đau khổ, sau khi nhìn thấy khuôn mặt như cũ, không thay đổi.
Thù nhân sẽ lắm ưu tư
Khi ta ngẩng mặt tiến ra số phần,
Chẳng lùi như một trí nhân
Khéo bề phán đoán tách phân mọi điều.
805. Jappena mantena subhāsitena anuppadānena paveṇiyā vā, yathā yathā yattha labhetha atthaṃ tathā tathā tattha parakkameyya.
805. Do việc lẩm bẩm (cầu nguyện), do chú thuật, do việc khéo nói, do việc hối lộ, hoặc do dòng dõi gia tộc, ở nơi nào có thể đạt được lợi ích theo cách này hay cách khác,
thì ở nơi ấy nên nỗ lực theo cách thức như thế ấy.
Dù nhờ bùa chú cao siêu
Thì thầm nho nhỏ, dù nhiều tài cao,
Người thân quyền thế giúp vào,
Mà ta thoát nạn cách nào cũng hay.
Ta nên nỗ lực cho tày
Chiếm phần ưu thắng về ngay phía mình.
8. Tacasārajātakaṃ – Bổn Sanh Cật Của Cây Tre.
806. Yato ca jāneyya alabbhaneyyo mayāva aññena vā esa attho, asocamāno adhivāsayeyya kammaṃ daḷhaṃ kinti karomidānī ”ti.
806. Và khi có thể biết được rằng lợi ích ấy là không thể đạt được bởi chính ta hoặc bởi người khác, không nên sầu muộn và nên chịu đựng (nghĩ rằng): ‘Nghiệp là chắc chắc, ta làm gì giờ đây.’”
Nhưng khi kết quả không thành
Nhờ người giúp hoặc riêng mình chẳng xong,
Thì ta nên vẫn một lòng
Sẵn sàng chấp nhận mà không đau buồn.
Số phần dù quá gian truân,
Ta đành nỗ lực gắng công tới cùng.
807. Kyāhaṃ devānamakaraṃ kiṃ pāpaṃ pakataṃ mayā, yamme sirasmiṃ ohacca cakkaṃ bhamati matthake.
807. “Tôi đã làm điều gì đối với chư Thiên, điều ác gì đã được tạo ra bởi tôi khiến bánh xe giáng xuống đầu và quay tròn ở trên đỉnh đầu (của tôi)?”
Việc xấu nào tôi đã trót gây
Khiến trời nguyền rủa phận tôi đây?
Ôi, đầu tôi hẳn là nứt vỡ
Vì bánh xe quay hành tội này.
808. Atikkamma ramaṇakaṃ sadāmattañca dūbhakaṃ, brahmatarañca pāsādaṃ kenaṭṭhena idhāgato.
808. “Sau khi đã vượt qua lâu đài pha-lê, lâu đài bạc, lâu đài ngọc ma-ni, và lâu đài vàng, vì mục đích gì mà ngươi đã đi đến nơi này?”
Từ bỏ cửa nhà đầy phước lạc,
Ðây thì dát ngọc, đấy pha lê,
Các phòng đều chói ngời vàng bạc,
Thảm cảnh do đâu đấy bạn về?
809. Ito bahutarā bhogā atra maññe bhavissare, iti etāya saññāya passa maṃ vyasanaṃ gataṃ.
809. “Tôi nghĩ rằng các của cải nơi kia sẽ nhiều hơn nơi này, như vậy do ý nghĩ này, ngài hãy nhìn xem tôi đã đi đến sự bất hạnh.”
“Lạc thú nơi kia sẽ ngập tràn,
Chốn này kém cỏi chẳng so bằng”.
Ðấy là ý nghĩ gây tai ách
Và đấy tôi vào cảnh thảm thương.
810. Catubbhi aṭṭhajjhagamā aṭṭhakāhi ca soḷasa, soḷasāhi ca battiṃsa atricchaṃ cakkamāsado, icchāhatassa posassa cakkaṃ bhamati matthake.
810. “Với bốn, gã đã đi đến tám, và với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai, trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn.
Từ bốn lên thành tám,
Lên mười sáu, băm hai,
Lòng tham không biết thỏa
Cứ tăng trưởng lên hoài.Và cứ thế đưa bạn
Sinh linh tham dục đầy
Ðến khi chịu đày đọa
Ðầu mang bánh xe nầy
9. Mittavindakajātakaṃ – Bổn Sanh Mittavindaka.
811. Upari visālā duppūrā icchā visadagāminī, ye taṃ anugijjhanti te honti cakkadhārino ”ti.
811. Các ước muốn quá to lớn là khó được làm cho đầy đủ, chúng có khuynh hướng lan tỏa rộng ra. Những người nào thèm muốn điều ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).”
Vậy tất cả thế nhân
Cứ đeo đòi tham ái,
Mãi vẫn chưa thỏa lòng,
Vẫn đòi thêm, thêm mãi.
Ðường tham lam rộng lớn,
Họ vẫn bước chân vào
Rồi phải mang như bạn
Bánh xe này trên đầu.
812. Haṃso palāsamavaca nigrodho samma jāyati, aṅkasmiṃ te nisinnova so te mammāni checchati.
812. “Con thiên nga đã nói với vị thần ở cây palāsa rằng: ‘Này bạn, cây đa sanh ra và mọc rễ ở nơi chạng ba của bạn. Nó sẽ cắt đứt mạng sống của bạn.”
Ngỗng này nói với cội Ju-das:
Chồi của cây đa bám bạn kia,
Vật bạn vẫn nuôi trong bụng ấy
E rồi sẽ xé bạn tơi ra.
813. Vaḍḍhatumeva nigrodho patiṭṭhassa bhavāmahaṃ, yathā pitā ca mātā ca evameso bhavissati.
813. “Hãy để cho cây đa lớn lên. Ta sẽ là chỗ nương tựa cho nó giống như người cha và người mẹ, nó sẽ là như vậy đối với ta.”
Ðể nó lớn lên tôi sẽ là
Nơi nương tựa của một cây đa.
Tôi săn sóc nó, tình cha mẹ,
Phước lạc cho tôi, nó tỏ ra.
814. Yaṃ tvaṃ aṅkasmiṃ vaḍḍhesi khīrarukkhaṃ bhayānakaṃ, āmanta kho taṃ gacchāma vuḍḍhimassa na ruccati.
814. “Việc bạn để cho cây con, mầm nguy hiểm, lớn lên ở chạng ba, chúng tôi đã nói điều ấy và chúng tôi ra đi; việc lớn lên của nó không làm chúng tôi vui thích.”
Sợ rằng đấy là mầm tai ách
Sâu tận trong lòng, bạn vẫn nuôi.
Từ biệt bạn thôi, tôi bay vút,
Hỡi ơi, nó lớn, bực lòng tôi!
815. Idāni kho maṃ bhāyati mahāneru nidassanaṃ, haṃsassa anabhiññāya mahā me bhayamāgataṃ.
815. “Giờ đây, nó quả thật làm tôi sợ hãi. Sau khi hiểu rõ lời chỉ dạy vĩ đại như ngọn núi Neru của chim thiên nga, nỗi sợ hãi to lớn đã đến với tôi.”
Quỷ hung cao tợ núi Tu-di
Ðã đẩy ta vào cảnh khốn nguy;
Lời bạn Ngỗng kia ta miệt thị,
Giờ đây ta ngập nỗi sầu bi.
10. Palāsajātakaṃ – Bổn Sanh Cây Palāsa.
816. Na tassa vuḍḍhi kusalappasatthā yo vaḍḍhamāno ghasate patiṭṭhaṃ, tassūparodhaṃ parisaṅkamāno patārayī mūlavadhāya dhīro ”ti.
816. “Cái gì hủy hoại nơi nương tựa trong khi lớn lên, sự phát triển của cái ấy không được các bậc thiện nhân khen ngợi. Trong khi nghi ngờ sự phá hoại của nó, bậc sáng trí đã giải quyết bằng sự tiêu diệt tận gốc rễ.”
Người khôn sinh sợ loài tầm gửi
Chèn nghẹt vật chi nó bám mình,
Bậc trí dè chừng nguy cỏ dại,
Diệt ngay rễ trước lúc mầm sinh.
Vaṇṇārohavaggo dutiyo.
*****
Phẩm Màu Da và Dáng Vóc là thứ nhì.
*****
▪ 3. AḌḌHAVAGGO – PHẨM MỘT NỬA
817. Evambhūtassa te rāja āgatassa vase mamaṃ, atthi nu koci pariyāyo yo taṃ dukkhā pamocaye.
817. “Tâu bệ hạ, khi bệ hạ đã trở thành như vầy, đã rơi vào quyền lực của thần, có cách thức nào đó có thể giúp cho bệ hạ thoát khỏi khổ đau chăng?”
Ngươi đang thuộc quyền ta sinh sát,
Khi nằm đây úp mặt, vua kia,
Mưu nào ngươi tính nghĩ ra
Cứu ngươi ra khỏi tay ta hãi hùng?
818. Evambhūtassa me tāta āgatassa vase tava, natthi no koci pariyāyo yo maṃ dukkhā pamocaye.
818. “Này khanh, khi trẫm đã trở thành như vầy, đã rơi vào quyền lực của khanh, chẳng có cách thức nào có thể giúp cho trẫm thoát khỏi khổ đau cả.”
Nay ta chẳng còn phương cứu nữa,
Trên đất nằm lọt giữa tay người.
Cách nào cũng chẳng biết noi
Ðể mong thoát được ra ngoài khốn nguy.
819. Nāññaṃ sucaritaṃ rāja nāññaṃ rāja subhāsitaṃ, tāyate maraṇakāle evamevitaraṃ dhanaṃ.
819. “Tâu bệ hạ, không có cái gì khác ngoài tánh nết tốt đẹp, tâu bệ hạ, không có cái gì khác ngoài lời nói tốt đẹp có thể hộ trì (bệ hạ) vào thời điểm từ trần, tài sản khác là tương tự y như vậy.
Hỡi nhà vua, chẳng phải là của cải,
Mà chính là các lời nói, hành vi
Vốn thiện hiền mà ta đã thực thi,
Ðến giờ chết mới cho ta thư thái,
820. Akkocchi maṃ avadhi maṃ ajini maṃ ahāsi me, ye taṃ upanayhanti veraṃ tesaṃ na sammati.
820. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.
Nếu cứ bảo: “Ta đây từng khổ ải,
Kẻ này la, và kẻ nọ đánh ta.
Và kẻ kia cướp của đến thứ ba”,
Những kẻ nào nuôi các tình cảm ấy
821. Akkocchi maṃ avadhi maṃ ajini maṃ ahāsi me, ye taṃ na upanayhanti veraṃ tesūpasammati.
821. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.
Chẳng bao giờ giận hờn nguôi lắng lại.
“Nó xưa kia từng đánh, mắng vào ta,
Nó đã gây lắm áp bức phiền hà”,
Ý nghĩ ấy những ai không ham muốn.
1. Dīghitikosalajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Dīghiti Xứ Kosala.
822. Nahi verena verāni sammantīdha kudācanaṃ, averena ca sammanti esa dhammo sanantano ”ti.
822. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.”
Giận sẽ nguôi và hài hòa chung sống.
Xóa căm hờn đâu phải bởi căm hờn,
Xóa căm hờn chính là bởi yêu thương,
Ðấy là luật niên trường cho an lạc.
823. Agārā paccupetassa anāgārassa te sato, samaṇassa na taṃ sādhu yaṃ petamanusocasi.
823. “Ông là người đã rời khỏi gia đình, sống không nhà, là người tốt, là vị Sa- môn, đối với ông việc ấy là không tốt, là việc ông sầu muộn về người đã từ trần.
Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư.
Thoát dây tục lụy xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!
824. Saṃvāsena have sakka manussassa migassa vā, hadaye jāyate pemaṃ taṃ na sakkā asocituṃ.
824. “Thật vậy, thưa Thiên chủ Sakka, do việc sống chung với con người hay con thú, sự yêu thương sanh khởi trong tim; không thể nào không sầu muộn về người (hay thú) ấy.”
Nếu người bầu bạn thú hiền,
Tâu ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu.
825. Mataṃ marissaṃ rodanti ye rudanti lapanti ca, tasmā tvaṃ isi mā rodi roditaṃ moghamāhu santo.
825. “Những người nào khóc lóc người đã chết và người sẽ chết, những người ấy sẽ mãi khóc lóc và than vãn. Này ẩn sĩ, vì thế, ông chớ khóc lóc. Các hiền nhân đã nói việc khóc lóc là vô ích.
Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương.
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
826. Roditena have brahme mato peto samuṭṭhahe, sabbe saṅgamma rodāma aññamaññassa ñātake.
826. Thật vậy, này Bà-la-môn, nếu người đã chết, người đã qua đời có thể sống lại nhờ việc khóc lóc, thì tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và khóc lóc cho các thân quyến của người này người khác.”
Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất trần.
827. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
827. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ngài có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
Ví như ngọn lửa nóng hừng
Ðổ thêm bơ sữa cháy bừng thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
828. Abbahi vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.
828. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên đã cắm vào trái tim của tôi.
Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng.
Ngài đã chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
2. Migapotajātakaṃ – Bổn Sanh Nai Con.
829. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna vāsavā ”ti.
829. Tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Thưa Thiên chủ, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”
Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi,
Lắng nghe Ðế Thích nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.
830. Kuhiṃ gatā kattha gatā iti lālappatī jano, ahameva eko jānāmi udapāne mūsikā hatā. 8
30. “‘Nó đã đi đâu? Nó đã đi nơi nào?’ người ta lải nhải như thế. Chỉ một mình trẫm biết, con chuột đã bị chết ở trong giếng nước.”
Bọn chúng hỏi to: Nó ở đâu?
Chuột ơi, mày đã trốn nơi nào?
Việc này chỉ một mình ta biết
Nó đã chết nằm trong giếng sâu.
831. Yathetaṃ iti cīti ca gadrabhova nivattasi, udapāne mūsikaṃ hantvā yavaṃ bhakkhetum icchasi.
831. “Giống như việc ngươi đi tới đi lui chỗ này và chỗ khác tựa như con lừa, sau khi đã giết chết con chuột ở trong giếng nước, có phải ngươi muốn nhai lúa mạch?”
Giống như con vật đẩy xe đi,
Ngươi cứ xoay qua lại trở về,
Ngươi đã giết xong con Chuột ấy,
Nay thèm ăn Lúa mạch, ta nghi.8
32. Daharo cāsi dummedha paṭhamuppattiko susu, dīghametaṃ samāsajja na te dassāmi jīvitaṃ.
832. “Này kẻ ngu muội, ngươi là con nít, còn non trẻ, ở giai đoạn đầu của cuộc đời. Sau khi cầm lấy vật có cán dài này, ta sẽ không cho ngươi toàn mạng sống.”
Ngươi là thằng nhãi quá ngu ngơ
Như món đồ chơi với trẻ thơ,
Cầm vật cán dài hình chiếc muỗng,
Thằng kia, ta quyết giết bây giờ.
833. Nāntalikkhabhavanenāhaṃ nāṅgaputtasirena vā, puttena hi patthayito silokehi pamocito.
833. “Ta chưa ngự đến cung điện ở cõi trời, hoặc chưa thoát khỏi sự liên hệ với thân thể của ta hoặc với đứa con trai, tuy nhiên ta bị chính đứa con trai cầu mong cho chết và ta được thoát chết nhờ những bài thơ.
Ta chưa giải thoát tự do
Bằng đường lạc thú an cư cõi trời.
Hoặc nhờ hiếu hạnh sáng ngời;
Ðến khi con trẻ toan đòi mạng ta,
Cứu nguy nhờ mấy vần thơ,
3. Mūsikajātakaṃ – Bổn Sanh Con Chuột.
834. Sabbaṃ sutamadhīyetha hīnamukkaṭṭhamajjhimaṃ, sabbassa atthaṃ jāneyya na ca sabbaṃ payojaye, hoti tādisako kālo yattha atthāvahaṃ sutan ”ti.
834. Nên học tập mọi loại kiến thức thấp thỏi, cao siêu, và trung bình.
Nên hiểu biết ý nghĩa của tất cả và không nên gắn bó với tất cả.
Vào thời điểm như thế ấy, kiến thức là có sự đem lại lợi ích.”
Vậy cần học hỏi suy tư mọi điều,
Xét xem ý nghĩa cao siêu,
Dẫu chưa dùng, cũng lợi nhiều ngày sau
Những lời nghe được đã lâu.
835. Sabbaṃ bhaṇḍaṃ samādāya pāraṃ tiṇṇosi brāhmaṇa, paccāgaccha lahuṃ khippaṃ mampi tārehidānito.
835. “Này Bà-la-môn, sau khi cầm lấy tất cả hành lý, chàng đã vượt đến bờ kia. Chàng hãy mau quay trở lại, và cấp tốc đưa luôn cả thiếp vượt khỏi nơi này liền bây giờ.”
Bờ kia chàng đã bước lên
Với bao tài sản của em góp thành.
Mau mau quay trở lại nhanh
Mang em qua với bạn tình, chàng ơi!
836. Asanthukaṃ maṃ cirasanthutena niminni hotī adhuvaṃ dhuvena, mayāpi hotī nimineyya aññaṃ ito ahaṃ dūrataraṃ gamissaṃ.
836. “Nàng ơi, nàng đã chọn ta là người không thân thiết thay thế người chồng thân thiết lâu nay, là người không chung thủy thay thế người chồng chung thủy. Nàng hỡi, nàng cũng có thể chọn người khác thay thế ta. Từ nơi này, ta sẽ đi xa hơn nữa.”
Ý nàng dời đổi nhất thời
Từ lòng chung thủy luyện tôi bao lần
Ðến màn tình ái lông bông,
Chóng chầy nàng cũng thay lòng phản ta,
Nếu ta không kịp chạy xa
Từ đây nàng hỡi, đôi ta chia lìa.
837. Kāyaṃ eḷagalāgumbe karoti ahuhāsiyaṃ, nayidha naccaṃ vā gītaṃ vā tālaṃ vā susamāhitaṃ, anamhi kāle sussoṇi kinnu jagghasi sobhane.
837. “Cô nàng nào cười lớn tiếng ở bụi cây bả đậu? Ở đây, không có nhảy múa, hoặc ca hát, hoặc vỗ tay theo nhịp. Này cô nàng có eo thon, vào thời điểm của sự khóc lóc, này người đẹp, vì sao nàng lại cười giỡn?”
Ai làm bụi quế ngân nga
Tiếng cười, dù chẳng múa ca tiệc tùng,
Vỗ tay thích thú? Hồng nhan,
Ðừng cười, khi phải khóc than buồn phiền.
838. Sigāla bāla dummedha appapaññosi jambuka, jino macchañca pesiñca kapaṇo viya jhāyasi.
838. “Này chó rừng ngu si, ngu muội, này sơn cẩu, ngươi là kẻ thiểu trí. Ngươi đã mất con cá và miếng thịt. Ngươi bị bứt rứt như là kẻ khốn khổ.”C
hó ngu, mày phải ước nguyền
Giá đừng mất cá, thịt liền một khi.
Ðồ ngu, phải biết sầu bi
Những gì xảy đến, ngu si do mày!
839. Sudassaṃ vajjaṃ aññesaṃ attano pana duddasaṃ, jinā patiñca jārañca mampi tvaññeva jhāyasi.
839. “Lỗi của những người khác thì dễ nhìn thấy, trái lại của bản thân thì khó nhìn thấy. Nàng đã bị mất người chồng và người tình, chính nàng còn bị bứt rứt hơn ta nữa.”
Lỗi người dễ thấy lắm thay,
Chắc là khó thấy: “Lỗi này của tôi”.
Nàng nên tính giá thiệt thòi
Khi nàng mất hết cả đôi bạn đời.
840. Evametaṃ migarāja yathā bhāsasi jambuka, sā nūnāhaṃ ito gantvā bhattu hessaṃ vasānugā.
840. “Này chúa tể của loài thú, điều ấy là như vậy, này sơn cẩu, giống như ngươi nói. Chắc chắn ta đây, sau khi đi khỏi nơi này, sẽ là người vợ phục tùng chồng.”
Cẩu vương, quá đúng như lời,
Nên ta quyết chí vội dời chân nhanh
Ðể tìm thêm bạn chung tình,
Cố làm người vợ trung thành khó chi!
4. Culladhanuggahajātakaṃ – Bổn Sanh Tiểu Xạ Thủ.
841. Yo hare mattikaṃ thālaṃ kaṃsathālampi so hare, kataṃyeva tayā pāpaṃ punapevaṃ karissasī ”ti.
841. “Kẻ nào có thể lấy trộm cái đĩa bằng đất sét, kẻ ấy có thể lấy trộm cái đĩa bằng đồng. Nàng đã dám làm việc xấu xa, thì nàng sẽ còn làm như vậy nữa.”
Kẻ nào ăm trộm cái ghè
Sẽ còn ăn trộm mai kia nồi đồng,
Người gây tai họa cho chồng
Vẫn tàn tệ vậy, hoặc còn tệ hơn!
842. Idāni khomhi sukhito arogo. nikkaṇṭako nippatito kapoto, kāhāmidāni hadayassa tuṭṭhiṃ tathāhi maṃ maṃsasākaṃ baleti.
842. “Bây giờ, ta quả thật an vui, không bệnh tật, không kẻ ngăn chặn, chim bồ câu đã đi ra ngoài. Giờ đây, ta sẽ làm điều vui thích ở trong lòng, đúng như thế, món thịt và rau tươi làm cho ta khỏe mạnh.”
Ta đây khỏe mạnh, dạ an vui,
Vì chú Bồ câu đã biến rồi,
Ta muốn làm cơn thèm dịu xuống
Rau thơm cùng thịt khỏe thêm người!
843. Kāyaṃ balākā sikhinī corī laṅghipitāmahā, oraṃ balāke āgaccha caṇḍo me vāyaso sakhā.
843. “Con hạc nâu có chỏm lông, kẻ trộm cướp, tổ tiên của cơn dông, này là ai? Này hạc nâu, hãy đi đến nơi khác, con quạ bạn của tôi là dữ tợn.”
Con Mây này với chiếc mào cao,
Ngài chiếm chỗ chim bạn tớ sao?
Ông Hạc, đến đây, thân hữu Quạ
Tính tình nóng nảy, biết không nào?
844. Alaṃ hi te jagghitāye mamaṃ disvāna edisaṃ, vilūnaṃ sūdaputtena piṭṭhimaddena makkhitaṃ.
844. “Thôi đi với việc cười giỡn của bạn sau khi nhìn thấy tôi ở tình trạng đã bị người con trai của đầu bếp vặt lông và bôi trét bột ở thân như thế này!”
Bạn cứ cười to trước cảnh này,
Ta lâm hoạn nạn đáng thương thay!
Hỏa đầu quân vặt lông trần trụi,
Gia vị, chà là thối tẩm đầy.
845. Sunhāto suvilittosi annapānena tappito, kaṇṭho ca te veḷuriyo agamā nu kajaṅgalaṃ
845. “Bạn đã được tắm rửa kỹ càng, đã được thoa dầu kỹ lưỡng, đã được thỏa mãn với cơm ăn và nước uống. Và cổ của bạn có hạt ngọc bích, phải chăng bạn đã đi đến Bārāṇasī?”
Tắm sạch, dầu thơm xát ngạt ngào,
No say ăn uống thỏa dường bao!
Cổ ông sáng chói đồ trang sức,
Ông đến Ba-la-nại đó sao?
846. Mā te mitto amitto vā agamāsi kajaṅgalaṃ, piñchāni tattha lāyitvā kaṇṭhe bandhanti vaṭṭanaṃ.
846. “Chớ để bạn hay thù của bạn đi đến Bārāṇasī. Tại nơi ấy, chúng đã nhổ các lông của tôi và buộc mảnh sành vào ở cổ.”
Bạn thiết hay cừu địch của ta
Chớ đi Ba-la-nại bây giờ!
Mình trần chúng vặt, còn trêu ghẹo
Buộc mảnh sành trên ngực ấy mà!
5. Kapotajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Bồ Câu.
847. Punapāpajjasī samma sīlaṃ hi tava tādisaṃ, na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.
847. “Này bạn, bạn lại phạm vào điều ác, bởi vì bản chất của bạn là như thế ấy, bởi vì của cải thuộc con người là không dễ gì thọ dụng bởi loài chim.”
Bỏ các thói hư tật xấu kia
Tính tình như Quạ khó làm ghê!
Chim nên thận trọng bay xa lánh
Thực phẩm loài người ăn thỏa thuê.
Aḍḍhavaggo tatiyo.
*****
Phẩm Một Nửa là thứ ba.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Atha vaṇṇā sasīla hiri labhate sumukhāmisasāliya mittavaro, atha cakka palāsa sarāja sato yavabālakapotakaṃ paṇṇarasā ”ti.
Pañcakanipāto niṭṭhito.
*****
TÓM LƯỢC (HAI) PHẨM NÀY
Giờ là màu da, có giới hạnh, sự liêm sỉ, người đạt được (lợi ích), khuôn mặt đẹp, vật chất, con chim sáo, chuyện kẻ thù, rồi bánh xe, cây palāsa, với đức vua, đối với người tốt,
lúa mạch, loài ngu si, và chim bồ câu là thứ mười lăm.
Nhóm Năm Kệ Ngôn được chấm dứt.
*****
TATRA VAGGUDDĀNAṂ
Jinañca vaṇṇaṃ asamaṃ vaggupari sudesitā jātakanti pañca vīsati, mahesino brahmacarittamuttama mavoca gāthā atthavatī subyañcanā ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY
Bị tước đoạt, và màu da, không bằng phẩm ở phía trên, đã khéo được thuyết giảng, hai mươi lăm chuyện bổn sanh, về sự thực hành Phạm hạnh tối thượng của bậc Đại Ẩn Sĩ,
Ngài đã nói những câu kệ ngôn có ý nghĩa, có văn tự khéo léo.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda