Nội Dung Chính
- Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm tám kệ ngôn, Phẩm 1
- KACCĀNIVAGGO – PHẨM BÀ KACCĀNI
- 1. Kaccānijātakaṃ – 1. Bổn sanh Bà Kaccāni
- 2. Aṭṭhasaddajātakaṃ – Bổn sanh Tám Âm Thanh.
- 3. Sulasājātakaṃ – Bổn sanh Nàng Sulasā.
- 4. Sumaṅgalajātakaṃ – Bổn sanh Gã Giữ Vườn Sumaṅgala.
- 5. Gaṅgamālajātakaṃ – Bổn sanh Thợ Cạo Gaṅgamāla
- 6. Cetiyajātakaṃ – Bổn sanh Vua Cetiya.
- 7. Indriyajātakaṃ – Bổn sanh Các Giác Quan.
- 8. Ādittajātakaṃ – Bổn sanh Bị Cháy Rực.
- 9. Aṭṭhānajātakaṃ – Bổn sanh Sự Việc Không Xảy Ra.
- 10. Dīpijātakaṃ – Bổn sanh Con Báo.
Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm tám kệ ngôn, Phẩm 1
KACCĀNIVAGGO – PHẨM BÀ KACCĀNI
1147. Odātavatthā suci allakesā kaccāni kiṃ kumbhimadhissayitvā, piṭṭhā tilā dhovasi taṇḍulāni tilodano hohiti kissa hetu.
1147. “Bà mặc y phục trắng, sạch sẽ, tóc thấm ướt. Này Kaccāni, bà đã nấu cái nồi gì vậy? Mè đã được xay, bà vo gạo. Cơm mè sẽ là nguyên nhân của việc gì?”
1. Mặc áo trắng và tóc xõa vai,
Kac-cà-ni lại nấu nồi sôi,
Gạo mè bà rửa đằng kia đó,
Bà có dùng không lúc chín rồi?
1148. Na kho ayaṃ brāhmaṇa bhojanatthā tilodano hohiti sādhupaññā, dhammo mato tassa bahūtamajja ahaṃ karissāmi susānamajjhe.
1148. “Thưa vị Bà-la-môn, cái này không phải để ăn. Cơm mè sẽ có mục đích tốt đẹp. Đạo lý đã chết rồi, tôi sẽ thực hiện việc cúng cơm cho nó ở giữa bãi tha ma.”
2. Ðạo sĩ ơi, tôi chẳng muốn ăn
Mè xay và cả món cơm hầm:
Giờ đây đã chết thần Công chánh,
Tôi muốn cúng dâng lễ tế thần.
1149. Anuvicca kaccāni karohi kiccaṃ dhammo mato ko nu tavetasaṃsī, sahassanetto atulānubhāvo na mīyati dhammavaro kadāci.
1149. “Này Kaccāni, bà hãy suy xét và hãy làm việc nên làm.
Vậy ai đã tuyên bố với bà là đạo lý đã chết rồi?
Đấng Ngàn Mắt có năng lực không thể sánh bằng.
Đạo lý cao quý không bị chết bao giờ.”
3. Khi quyết định, bà phải nghĩ suy:
Bà nghe ai nói vọng ngôn kia?
Ngài ngàn mắt ấy đầy uy lực,
Công chánh Thần không thể chết đi.
1150. Daḷhappamāṇaṃ mama ettha brahme dhammo mato natthi mamettha kaṅkhā, ye yevadāni pāpā bhavanti te tevadāni sukhitā bhavanti.
1150. “Thưa vị Bà-la-môn, tôi có sự phán quyết chắc chắn về điều này.
Đạo lý đã chết rồi, tôi không có nghi ngờ về điều này.
Hiện nay, những cái gì là sai trái,
những cái ấy, hiện nay, được an ổn.
4. La-môn, tôi chứng kiến rành rành,
“Công lý chết rồi.” Tôi phải tin:
Tất cả kẻ nào theo ác hạnh
Hiện giờ hưởng đại phồn vinh.
1151. Suṇisā hi mayhaṃ vañjhā ahosi sā maṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ, sādāni sabbassa kulassa issarā ahaṃ panamhi apaviddhā ekikā.
1151. Bởi vì con dâu của tôi đã bị hiếm muộn. Cô ta, sau khi hành hạ tôi, đã sanh con trai. Giờ đây, cô ta là chủ nhân của toàn bộ gia đình. Còn tôi, ngược lại, bị đuổi đi, chỉ có một mình.”
5. Dâu của tôi ngày trước hiếm hoi,
Ðánh tôi, rồi lại đẻ con trai,
Nó thành bà chủ trong nhà ấy,
Tôi bị lãng quên, bị bỏ rơi.
1152. Jīvāmi vohaṃ nāhaṃ matosmi aveva atthāya idhāgatosmi, yā taṃ vadhitvāna vijāyi puttaṃ sahāva puttena karomi bhasmaṃ.
1152. “Ta vẫn còn sống, ta không có bị chết.
Ta đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính bà.
Cô dâu nào, sau khi hành hạ bà, đã sanh con trai,
ta sẽ làm cho cô ta và đứa con trai hóa ra tro.”
6. Không phải đâu, ta sống mãi mà,
Nay ta giáng thế, chính vì bà,
Dâu bà đánh mẹ, song dâu cháu,
Sẽ hóa tro trong lửa của ta.
1153. Etañca te ruccati devarāja mameva atthāya idhāgatosi, ahañca putto suṇisā ca nattā sammodamānā gharamāvasema.
1153. “Thưa Thiên Vương, điều này được ngài vui thích,
ngài đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính tôi.
Tôi, con trai, con dâu, và cháu trai,
hãy cho chúng tôi sống chung nhà, hòa thuận.”
7. Thiên chủ, mong sao hợp ý ngài,
Vì tôi, ngài đến tự trên trời,
Ước mong đôi trẻ và thằng cháu
Ðược sống đời hòa thuận với tôi.
1154. Etañca te ruccati kātiyāni hatāpi santā na jahāsi dhammaṃ, tuvañca putto suṇisā ca nattā sammodamānā gharamāvasetha.
1154. “Này Kātiyāni, điều này được bà vui thích, ngay cả trong khi bị đánh đập, bà cũng không từ bỏ đạo lý. Bà, con trai, con dâu, và cháu trai,
quý vị hãy sống chung nhà, hòa thuận.”
8. Ka-ti sẽ mãn nguyện, vì bà
Bị đánh, song bà tin tưởng ta
Công chánh, vậy cùng con, cháu nội
Sống đời hòa thuận ở trong nhà.
1. Kaccānijātakaṃ – 1. Bổn sanh Bà Kaccāni
1155. Sā kātiyāni suṇisāya saddhiṃ sammodamānā gharamāvasitvā, putto ca nattā ca upaṭṭhahiṃsu devānamindena adhiggahītā ”ti.
1155. “Bà Kātiyāni ấy cùng với người con dâu
đã sống chung nhà, hòa thuận.
Con trai và cháu trai đã phụng dưỡng.
Bà đã được vị Chúa của chư Thiên nâng đỡ.”
9. Với con dâu thảo lại vui mừng
Bà lão Ka-ti đã sống chung,
Thiên chủ giải hòa xung đột cũ,
Cháu con săn sóc thật ân cần.
1156. Idaṃ pure ninnamāhu bahumacchaṃ mahodikaṃ, āvāso bakarājassa pettikaṃ bhavanaṃ mama, tyajja bhekena yāpema okaṃ na vijahāmase.
1156. “Trước đây, chỗ này đã là vùng trũng, có nhiều cá, có nhiều nước, là chỗ ngụ của hạc chúa, là nơi cư trú của cha ta. Hiện nay, chúng tôi đây nuôi sống bằng loài ếch nhái, chúng tôi không lìa bỏ chỗ ở này.”
1. Ngày xưa thường gọi chốn này
Ao sâu, tôm cá lội đầy tung tăng,
Là nơi cư trú Hạc vương,
Tổ tiên ta cũng sống thường trước kia.
Dẫu ăn ếch nhái bây giờ,
Chúng ta không thể xa bờ ao xưa.
1157. Ko dutiyaṃ asīlassa bandhurassakkhi bhejjati, ko me putte kulāvakaṃ mañca sotthiṃ karissati.
1157. “Ai sẽ làm hỏng con mắt thứ hai của kẻ phá giới Bandhura? Ai sẽ tạo ra sự an toàn cho các chim con của tôi, cái tổ chim, và tôi?”
2. Anh chàng một mắt Ban-ra
Là ai mà cứ phá nhà của tôi?
Bầy chim mới nở, than ôi!
Ai người thân thiện cứu tôi khốn cùng?
1158. Sabbā parikkhatā pheggu yāva tassā gatī ahu, khīṇabhakkho mahārāja sāre na ramatī ghuṇo.
1158. “Tất cả phần giác gỗ đã bị gặm nhấm cho đến chỗ tận cùng của nó. Tâu đại vương, thức ăn bị cạn kiệt, loài mọt không ưa thích lõi gỗ.
3. Ta vừa ăn hết gỗ sung,
Mọi nơi ta đã đi vòng quanh co,
Gỗ nào cứng, mọt khó ưa,
Còn thức ăn khác ở xa dưới mình!
1159. Sā nūnāhaṃ ito gantvā rañño muttā nivesanā, attānaṃ ramayissāmi dumasākhāniketinī.
1159. “Ước gì sau khi đi đến nơi này, chim cu cu tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, tôi sẽ vui thích tự thân, khi có được chỗ ngụ ở cành cây!”
4. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình tự do!
Hân hoan bay lượn rừng già,
Rồi ta xây tổ của ta trên cành.
1160. So nūnāhaṃ ito gantvā rañño mutto nivesanā, aggo dakāni pivissāmi yūthassa purato vajaṃ.
1160. “Ước gì sau khi đi đến nơi này, nai tôi được thoát khỏi cung điện của đức vua, là thủ lãnh, tôi sẽ uống nước, trong khi đi phía trước bầy nai.”
5. Ước gì rời chốn cung đình!
Ước gì giải thoát thân mình vui sao!
Uống dòng nước suối trong veo,
Dẫn đàn nai vẫn bước theo sau mình!
1161. Taṃ maṃ kāmehi sampannaṃ rattaṃ kāmesu mucchitaṃ, ānayī harato luddo bāhiko bhaddamatthu te.
1161. “Được đầy đủ các dục, tôi đây bị luyến ái, bị mê mẫn trong các dục. Gã thợ săn Bharata người ngoại xứ đã dắt tôi đi. Mong rằng sự may mắn hãy có cho ông.”
6. Lòng ta nặng trĩu dục tình,
Với bao ước vọng thân mình nhiễm ô,
Bha-ta, lạp hộ bắt ta,
Ước mong phước phận lão gia tràn trề!
1162. Andhakāratimisāyaṃ tuṅge uparipabbate, sā maṃ saṇhena mudunā mā pādaṃ khaṇiyasmani.
1162. “Trong bóng tối của đêm đen, ở phía trên ngọn núi cao nhọn, nàng đã nói với tôi bằng giọng nói mềm mỏng, dịu dàng: ‘Chàng chớ để trượt chân ở tảng đá.’”
7. Bóng đêm dày đặc kéo về
Trên non cao nọ tứ bề cô đơn,
“Xin chàng đừng ngã trượt chơn”,
Nàng khe khẽ nhắc bên sườn đá xưa.
2. Aṭṭhasaddajātakaṃ – Bổn sanh Tám Âm Thanh.
1163. Asaṃsayaṃ jātikhayantadassī na gabbhaseyyaṃ punarāvajissaṃ, ayaṃ hi me antimā gabbhaseyyā khīṇo me saṃsāro punabbhavāyā ”ti.
1163. “Là người nhìn thấy sự tiêu hoại của việc sanh ra một cách chắc chắn, tôi sẽ không đi đến việc nằm trong bào thai lần nữa. Đây chính là lần nằm trong bào thai cuối cùng. Sự luân hồi đưa đến việc hiện hữu lần nữa của tôi đã được cạn kiệt.”
8. Tái sinh đã tận với ta,
Không vào thai mẹ từ giờ về sau,
Ðây đời cuối ở địa cầu
Sắp tàn cùng mọi khổ đau phàm trần.
1164. Idaṃ suvaṇṇakāyūraṃ muttā veḷuriyā bahū, sabbaṃ harassu bhaddante mañca dāsīti sāvaya.
1164. “Chàng kính, cái vòng kiềng vàng này, nhiều ngọc trai và ngọc bích, xin chàng hãy mang đi tất cả, xin chàng hãy công bố thiếp là ‘nữ tỳ.’”
1. Này đây là chiếc vòng vàng,
Này đây ngọc bích cùng tràng hạt trai,
Lấy đi tất cả chàng ôi,
Xin chàng cho thiếp làm tôi tớ chàng!
1165. Oropayassu kalyāṇi mā bahuṃ paridevasi, na cāhaṃ abhijānāmi ahantvā dhanamāhataṃ.
1165. “Này người đẹp, nàng hãy bỏ chúng xuống và chớ khóc than nhiều. Ta biết chắc chắn rằng không giết nàng thì ta không lấy được tài sản.”
2. Ðể vàng ngọc xuống, kiều nương,
Và nàng đừng có khóc thương buồn phiền,
Ta nay muốn giết nàng liền
Vì ta không chắc hưởng tiền hồi môn!
1166. Yato sarāmi attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ, na cāhaṃ abhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā.
1166. “Kể từ khi thiếp nhớ được bản thân, kể từ khi thiếp đạt được sự nhận thức, thiếp biết chắc chắn rằng không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu mến hơn là chàng.
3. Suốt bao năm tháng lớn khôn,
Với bao hồi tưởng trong hồn thật chân,
Thiếp thề giữa cõi phàm trần
Không người nào đã thiết thân hơn chàng.
1167. Ehi taṃ upagūhissaṃ karissañca padakkhiṇaṃ, na hi dāni punā atthi mama tuyhañca saṅgamo.
1167. Xin chàng hãy đến, thiếp sẽ ôm lấy chàng và sẽ đi nhiễu xung quanh chàng, bởi vì giờ đây không còn có sự gặp gỡ giữa thiếp và chàng nữa.
4. Ðến đây lần nữa cuối cùng,
Thiếp xin kính lễ trong vòng bàn tay,
Chẳng bao giờ ở đời này
Ðôi ta gặp mặt từ đây hỡi chàng!
1168. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito, itthipi paṇḍitā hoti tattha tattha vicakkhaṇā.
1168. “Không phải trong mọi trường hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và khôn ngoan trong trường hợp này hoặc trường hợp khác.
5. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi có thể nhiều minh trí
Xuất hiện trong tình thế hiểm nguy.
1169. Na hi sabbesu ṭhānesu puriso hoti paṇḍito, itthipi8 paṇḍitā hoti lahumatthavicintikā.
1169. Không phải trong mọi trường hợp người nam đều sáng suốt, phụ nữ cũng sáng suốt và suy xét điều lợi ích một cách mau chóng.
6. Trí tuệ khôn ngoan cũng lắm khi
Không dành riêng với bọn nam nhi,
Nữ nhi nhanh trí nhiều mưu kế
Dự định làm công việc kịp thì.
1170. Lahuñca vata khippañca nikaṭṭhe samacetayi, migaṃ puṇṇāya tenevaṃ sulasā sattukaṃ vadhi.
1170. Đúng vậy, nàng đã tự mình suy nghĩ kế hoạch giết chết kẻ thù đang đứng gần một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng. Người thợ săn giết chết con thú bằng cây cung hoàn hảo như thế nào thì Sulasā đã giết chết Sattuka như vậy.
7. Cô nàng bày tỏ trí khôn ngoan
Hiểu biết tinh thông mọi lối đường,
Ðã giết anh chàng này chẳng khác
Giết con nai với chiếc cung giương.
1171. Yodha uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, so haññati mandamatī corova girigabbhare.
1171. Ở đây, kẻ nào không mau chóng nhận ra cơ hội đã được sanh lên, kẻ có đầu óc đần độn ấy bị giết chết tựa như gã trộm bị giết chết ở hang núi. 8. Người nào khi gặp cảnh cùng đường,
Không thể vươn lên để thoát thân
Sẽ ngã nhào như tên trộm ngốc
Ngã vào trong vực thẳm tan xương.
3. Sulasājātakaṃ – Bổn sanh Nàng Sulasā.
1172. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati, muccate sattu sambādhā sulasā sattukāmivā ”ti.
1172. Và người nào mau chóng biết được cơ hội đã được sanh lên, rồi được thoát khỏi sự áp bức của kẻ thù, tựa như Sulasā được thoát khỏi gã Sattuka.”
9. Còn kẻ tinh nhanh ấy sự tình
Hiểm nguy đến với số phần mình,
Như nàng được thoát thân ra khỏi
Cừu địch bên mình đáng hãi kinh.
1173. Bhūsaṃ hi kuddhoti avekkhiyāna na tāvadaṇḍaṃ paṇayeyya issaro, aṭṭhānaso appatirūpamattano parassa dukkhāni bhusaṃ udīraye.
1173. “Bởi vì sau khi thường xuyên xem xét về sự ‘nóng giận,’ vị chúa tể không nên sử dụng đến hình phạt không phù hợp một cách không hợp lý đối với tư cách của bản thân, và không nên thường xuyên gây ra những sự khổ đau cho kẻ khác.
1. Ý thức giận hờn, nét mặt cau,
Quân vương đừng giáng trận đòn đau,
Những điều bất xứng ngôi Thiên tử
Sẽ tiếp theo sau cái gật đầu.
1174. Yatova jāneyya pasādamattano atthaṃ niyuñjeyya parassa dukkataṃ, tadāyamatthoti sayaṃ avekkhiya athassa daṇḍaṃ sadisaṃ nivesaye.
1174. Chỉ khi nào biết được sự cảm thông của bản thân (đối với tha nhân), mới nên phán xét ý nghĩa và việc làm sai trái của kẻ khác, khi ấy, sau khi đã tự mình xem xét thấy ‘đây là ý nghĩa.’ rồi mới ấn định hình phạt tương xứng dành cho kẻ ấy.
2. Ý thức tính tình bớt khắt khe,
Quân vương ban pháp lệnh ra uy,
Khi nào vụ án đà thông hiểu,
Hãy xác định các hình phạt thích nghi.
1175. Na cāpi jhāpeti paraṃ na attanaṃ amucchito yo nayate nayānayaṃ, yo daṇḍadhāro bhavatīdha issaro savaṇṇagutto siriyā na dhaṃsati.
1175. Không làm khó dễ người khác, cũng không làm khó dễ bản thân, là người không bị lầm lẫn, tự mình phán xét đường lối đúng sai, ở đây, vị chúa tể nào là người có sự ấn định hình phạt có sự duy trì đức độ, vị chúa tể ấy không đánh mất sự vinh quang.
3. Không giận mình và chẳng giận ai,
Biết phân biệt rõ đúng và sai,
Dù vua ngự trị trên quần chúng,
Ðức hạnh khiến vua vĩ đại hoài.
1176. Ye khattiyā se anisammakārino paṇenti daṇḍaṃ sahasā pamucchitā, avaṇṇasaṃyuttā jahanti jīvitaṃ ito vimuttāpi ca yanti duggatiṃ.
1176. Các vị Sát-đế-lỵ nào có hành động không cân nhắc, sử dụng hành phạt một cách tàn bạo, bị lầm lẫn, không quan tâm đến đức độ, các vị ấy từ bỏ cuộc sống, lúc lìa khỏi chốn này, liền đi đến chốn khổ đau.
4. Vua chúa buông lung các việc công,
Thực hành roi trượng chẳng bao dung,
Ô danh dưới thế phần vua hưởng,
Ðịa ngục đợi chờ lúc mạng chung.
1177. Dhamme ca ye ariyapavedite ratā anuttarā te vacasā manasā kammanā ca, te santi soraccasamādhisaṇṭhitāvajanti lokaṃ dubhayaṃ tathāvidhā.
1177. Và những ai yêu thích đạo lý được tuyên thuyết bởi các bậc Thánh, các vị ấy hơn hẳn về lời nói, về ý nghĩ, và về hành động,các vị ấy đã đứng vững ở sự an tịnh, ở sự hiền hòa, và ở sự định tâm, các vị đi đến cả hai thế giới, người và trời, theo cách thức phù hợp.
5. Người nào yêu đạo đức hiền nhân,
Trong sạch vẹn toàn khẩu, ý, thân,
Ðầy đủ từ tâm, an tịnh quý,
Vượt qua hai thế giới phàm trần.
1178. Rājāhamasmi narapamadānam issaro sacepi kujjhāmi ṭhapemi attanaṃ,nisedhayanto janataṃ tathāvidhaṃ paṇemi daṇḍaṃ anukampa yoniso.
1178. Trẫm là vua, là vị chúa tể của những người nam nữ. Thậm chí, nếu trẫm bị nổi giận, trẫm sẽ trấn tĩnh bản thân. Trong khi răn đe dân chúng theo cách thức phù hợp, trẫm sử dụng hành phạt đúng đắn thuận theo lòng thương xót.”
6. Trẫm là vua chúa của thần dân,
Sân hận không ngăn cản ý tâm,
Khi trẫm cầm gương đi trị tội,
Từ tâm thúc đẩy phạt công bằng.
1179. Sirī ca lakkhī ca tameva khattiya janādhipa mā vijahi kudācanaṃ,akkodhano niccapasannacitto anīgho tuvaṃ vassasatāni pālaya.
1179. “Tâu vị Sát-đế -lỵ, vinh quang và hưng thịnh là thuộc về bệ hạ. Tâu quân vương, xin bệ hạ chớ lìa bỏ đạo lý bất cứ lúc nào.Xin bệ hạ hãy trị vì một trăm năm, không phiền muộn, không có giận dữ, với tâm luôn tin tưởng.
7. Uy lực vinh quang của Ðại vương,
Ðừng bao giờ bỏ đạo luân thường,
Thoát ly sân hận và kinh hãi,
Trị nước trăm năm mãi lạc an.
1180. Guṇehi etehi upeta khattiya ṭhitamariyavatti suvaco akodhano, sukhī anuppīḷa pasāsa mediniṃ ito vimuttopi ca yāhi suggatiṃ.
1180. Tâu vị Sát-đế -lỵ, cầu mong bệ hạ thành tựu những đức tánh ấy, có lối cai trị cao thượng được thiết lập, dễ khuyên can, không giận dữ, có hạnh phúc. Cầu mong bệ hạ cai quản trái đất, không áp bức. Lúc lìa khỏi chốn này, cầu mong bệ hạ đi đến chốn an vui.
8. Vương tử có đầy đức tính trên
Nhân từ, song đạo hạnh trung kiên,
Trị toàn dân với lòng công chánh,
Khi bỏ cõi đời, đến cõi thiên.
4. Sumaṅgalajātakaṃ – Bổn sanh Gã Giữ Vườn Sumaṅgala.
1181. Evaṃ sunītena subhāsitena dhammena ñāyena upāyaso nayaṃ,nibbāpaye saṃkhubhitaṃ mahājanaṃ mahāva megho salilena medinin ”ti.
1181. Trong khi cai trị đúng đắn bằng sự hướng dẫn khôn khéo, bằng lời nói tốt đẹp, bằng đạo đức, bằng phương châm đúng đắn như vậy, bệ hạ có thể xoa dịu đám đông dân chúng bị rối loạn, tựa như cơn mưa lớn làm mát mẻ trái đất có nước bao quanh.”
9. Lời nói thật chân với thiện hành,
Dùng phương tiện tốt đạt công thành,
Trấn an quần chúng còn dao động,
Như đám mây mưa thật mát lành.
1182. Aṅgārajātā paṭhavī kukkulānugatā mahī, atha gāyasi vattāni na taṃ tapati ātapo.
1182. “Trái đất đã sanh khởi than hừng, mặt đất đã trở thành cát nóng. Vậy mà ngươi ca hát về các phận sự. Sức nóng không đốt cháy ngươi.
1. Ðịa cầu nóng rực như than,
Ðất đai như đống tro than nóng bừng,
Song ngươi ca hát vang lừng,
Khí trời gay gắt chẳng nung ngươi nào!
1183. Uddhaṃ tapati ādicco adho tapati vālukā, atha gāyasi vattāni na taṃ tapati ātapo.
1183. Mặt trời thiêu đốt ở bên trên, cát nóng đốt cháy ở bên dưới. Vậy mà ngươi ca hát về các phận sự. Sức nóng không đốt cháy ngươi.
2. Mặt trời kia ở trên cao,
Dưới này cát nóng khác nào lò than,
Song ngươi ca hát lừng vang,
Khí trời nắng gắt chẳng làm cháy ngươi.
1184. Na maṃ tapati ātapo ātappā tapayanti maṃ, atthā hi vividhā rāja te tapanti na ātapo.
1184. “Sức nóng không đốt cháy thần, các dục khiến thần bị đốt cháy. Tâu bệ hạ, bởi vì các hành động do dục vọng có nhiều loại, chúng đốt cháy, chứ không phải sức nóng.
3. Chính vì tham dục đốt tôi,
Chứ không phải ánh mặt trời nấu nung,
Chính vì phận sự trong lòng
Thúc tôi vội vã làm xong mọi phần.
1185. Addasaṃ kāma te mūlaṃ saṅkappā kāma jāyasi, na taṃ saṅkappayissāmi evaṃ kāma na hohisi.
1185. “Này dục vọng, trẫm đã nhìn thấy gốc rễ của ngươi. Này dục vọng, ngươi sản sanh ra các sự suy tầm. Trẫm sẽ không suy tầm về ngươi nữa, này dục vọng, như vậy ngươi sẽ không hình thành.
4. Nhận ra tham dục, nguồn căn
Ở trong ước vọng tiềm tàng khắp nơi,
Ta không muốn nữa vì ngươi,
Vậy ngươi, Tham dục, phải rời xa đi!
1186. Appāpi kāmā na alaṃ bahūhipi na tappati, ahahā bālalapanā paṭivijjhetha jaggato.
1186. Các dục nếu ít thì không đủ, nhưng với nhiều dục cũng không bị đốt nóng. Chao ôi, những lời lảm nhảm của kẻ ngu! Những người tỉnh thức, xin hãy tránh xa.
5. Dục tham ít ỏi chẳng vừa,
Dục tham nhiều chỉ mang ta khổ buồn.
Này, luôn thiếu, ngu nhân,
Nếu ngươi muốn đắc trí thông, bạn hiền!
1187. Appassa kammassa phalaṃ mama yidaṃ udayo ajjhagamā mahattapattaṃ,suladdhalābhā vata māṇavassa yo pabbaji kāmarāgaṃ pahāya.
1187. Hành động ít ỏi (về dục) có kết quả này đến ta, Udaya ta đã đạt đến sự chứng đạt về bản thể vĩ đại. Thật vậy, lợi ích khéo được nhận lãnh thuộc về chàng trai trẻ, là người đã dứt bỏ sự luyến ái trong các dục và đã xuất gia.
6. Thiểu dục đem ta mọi quả thành,
U-da-ya đạt đại quang vinh,
Người tinh cần được nhiều an lạc,
Làm ẩn sĩ, buông bỏ dục tình.
1188. Tapasā pajahanti pāpakammaṃ tapasā nahāpitakumbhakārabhāvaṃ, tapasā abhibhuyya gaṅgamāla nāmenālapasajja brahmadattaṃ.
1188. “Nhờ vào khổ hạnh, chúng sinh dứt bỏ các nghiệp ác. Phải chăng những người này nhờ vào khổ hạnh cũng dứt bỏ trạng thái người thợ cạo, người thợ gốm? Này Gaṅgamāla, sau khi chiến thắng nhờ vào khổ hạnh, hôm nay, ngươi xưng hô với vua Brahmadatta bằng tên gọi.
7. Khổ hạnh xả ly hết lỗi lầm,
Thợ ghè, hớt tóc, mọi phàm nhân,
Gan-ga nhờ đó thành vinh hiển,
Liền gọi “Brah-ma” đấng quốc vương!
1189. Sandiṭṭhikameva passatha khanti soraccassa ayaṃ vipāko, yo sabbajanassa vandito taṃ vandāma sarājikā samaccā.
1189. “Hãy nhìn vào chính sự việc hiện bày, việc này là quả thành tựu của sự nhẫn nại và hiền hòa.Người nào được tất cả dân chúng kính lễ, chúng ta cùng với hoàng thân và các quan viên hãy kính lễ người ấy.
8. Nhìn xem! Vào lúc phải vong thân,
Khổ hạnh cho ta hưởng phước phần,
Người lễ bái ta trong kiếp trước,
Giờ đây vua chúa phải chào mừng.
5. Gaṅgamālajātakaṃ – Bổn sanh Thợ Cạo Gaṅgamāla
1190. Mā kiñci avacuttha gaṅgamālaṃ muniṃ monapathesu sikkhamānaṃ, eso hi atari aṇṇavaṃ yaṃ taritvā vicaranti vītasokā ”ti.
1190. Chớ có nói bất cứ điều gì về Gaṅgamāla, bậc hiền trí đang học tập về các đạo lộ trí tuệ. Bởi vì vị ấy đã vượt qua biển cả luân hồi, sau khi vượt qua nơi ấy, các vị du hành, xa lìa sầu muộn.”
9. Chớ trách Gan-ga nói thế này
Bước đường đạo hạnh thiện toàn thay!
Ngài đà vượt đại dương phiền não,
Giải thoát khổ sầu chính tại đây.
1191. Dhammo have hato hanti nāhato hanti kiñcanaṃ, tasmā hi dhammaṃ na hane mā taṃ dhammo hato hani.
1191. “Thật vậy, pháp tôn kính bị hủy hoại sẽ gây họa, không bị hủy hoại sẽ không gây họa bất cứ điều gì. Chính vì thế, không nên hủy hoại pháp tôn kính, chớ để pháp tôn kính bị hủy hoại gây họa cho bệ hạ.
1. Công lý tổn thương gây hiểm họa,
Sẽ đền bù với giá tai ương,
Vậy đừng làm tổn thương công lý,
Sợ hiểm nguy ào đến Ðại vương.
1192. Alikaṃ bhāsamānassa apakkamanti devatā, pūtikañca mukhaṃ vāti sakaṭṭhānā ca dhaṃsati, yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
1192. Đối với kẻ nói lời dối trá, chư Thiên bỏ đi, miệng tỏa ra mùi hôi thối, và kẻ ấy đánh mất vị thế của bản thân (ở không trung), là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
2. Thần lực xa lìa kẻ vọng ngôn,
Miệng mồm hôi thối đáng kinh hồn,
Bước chân không vững trong trời đất,
Bất cứ kẻ nào đáp dối gian.
1193. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhūmiyaṃ tiṭṭha cetiya.
1193. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún vào mặt đất, tâu Cetiya.
3. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối giam ngài mãi
Tại đất Ce-ti, đến tận cùng.
1194. Akāle vassatī tassa kāle tassa na vassati, yo jānaṃ pucchito pañcaṃ aññathā naṃ viyākare.
1194. Trời đổ mưa cho kẻ ấy lúc sái thời, trời không đổ mưa cho kẻ ấy lúc đúng thời, là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
4. Hạn hán vào thời phải đổ mưa,
Và mưa trút xuống lúc mùa khô,
Khi người nào cố tình gian dối,
Ðối đáp vọng ngôn để hại ta.
1195. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhūmiyaṃ pavisa cetiya.
1195. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu vào mặt đất, tâu Cetiya.
5. Lời thật cùng bao Pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi tới cùng.
1196. Jivhā tassa dvidhā hoti uragasseva disampati, yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
1196. Tâu vị chúa tể một phương, lưỡi của kẻ ấy có hai phần, tựa như lưỡi của con rắn, là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
6. Người lưỡng thiệt này, hỡi Ðại vương,
Cũng như con rắn lắm mưu gian,
Người nào vẫn cố tình lừa dối
Ðối đáp những lời chẳng thật chân.
1197. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
1197. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya.
7. Lời thật cũng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục đươc toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
1198. Jivhā tassa na bhavati macchasseva disampati, yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
1198. Tâu vị chúa tể một phương, lưỡi của kẻ ấy là không có, tựa như của con cá, là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
8. Kẻ ấy như con cá, Ðại vương,
Sẽ không có lưỡi ở trong mồm,
Người nào vẫn cố tình gian dối,
Ðối đáp những lời lẽ vọng ngôn.
1199. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
1199. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya.
9. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
1200. Thiyova tassa jāyanti na pumā jāyare kule, yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
1200. Chỉ có các con gái được sanh ra cho kẻ ấy, còn các con trai không được sanh ra ở gia đình của kẻ ấy, là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
10. Kẻ ấy chỉ sinh được gái thôi,
Sẽ không sinh được một con trai,
Kẻ nào vẫn cố tình gian dối
Ðối đáp vọng ngôn ở giữa đời.
1201. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
1201. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya.
11. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
1202. Puttā tassa na bhavanti pakkamanti disodisaṃ, yo jānaṃ pucchito pañhaṃ aññathā naṃ viyākare.
1202. Những đứa con không ở với kẻ ấy, chúng ra đi khắp các phương, là kẻ khi được hỏi câu hỏi thì cố tình đáp lại điều ấy theo cách khác.
12. Bầy con không ở với người kia,
Ở khắp mọi nơi chúng chạy xa,
Người vẫn cố tình ưa nói dối,
Ðáp lời hỏi với dạ gian tà.
1203. Sace hi saccaṃ bhaṇasi hohi rāja yathā pure, musā ce bhāsase rāja bhiyyo pavisa cetiya.
1203. Tâu bệ hạ, bởi vì nếu bệ hạ nói sự thật, bệ hạ sẽ là như trước đây. Tâu bệ hạ, nếu bệ hạ nói lời dối trá, bệ hạ sẽ lún sâu thêm nữa vào trái đất, tâu Cetiya.”
13. Lời thật cùng bao pháp thuật thần,
Ðại vương hồi phục được toàn phần,
Còn lời nói dối chôn ngài xuống
Tại đất Ce-ti mãi chẳng ngừng.
1204. Sa rājā isinā satto antalikkhe caro pure, pāvekkhi paṭhaviṃ cecco hīnatto attapariyāyaṃ.
1204. “Đức vua Cetiya ấy, bị nguyền rủa bởi vị ẩn sĩ, trước kia có sự di chuyển ở không trung, rồi đã bị hút vào trái đất, có tình trạng tồi tệ trong cuộc hành trình của bản thân.
14. Chuyện kể bị truyền bởi trí nhân,
Vị vua từng bước giữa không trung,
Chìm thân, bị nuốt vào lòng đất
Ngay đúng ngày quy định số phần.
6. Cetiyajātakaṃ – Bổn sanh Vua Cetiya.
1205. Tasmāhi chandāgamanaṃ nappasaṃsanti paṇḍitā, aduṭṭhacitto bhāseyya giraṃ saccupasaṃhitan ”ti.
1205. Chính vì thế, các bậc sáng suốt không khen ngợi việc đi theo sự mong muốn. Người không có tâm xấu xa nên nói lời nói liên hệ đến sự thật.”
15. Vậy trí nhân không thể tán đồng
Dục tham xuất hiện ở trong lòng,
Người nào ly dục, tâm thanh tịnh,
Lời nói sẽ luôn giữ vững vàng.
1206. Yo indriyānaṃ kāmena vasā nārada gacchati, so pariccajjubho loke jīvantova visussati.
1206. “Này Nārada, kẻ nào đi theo quyền lực của các giác quan vì dục vọng, sau khi lìa bỏ hai thế giới người trời, kẻ ấy bị héo hon, và ngay cả trong khi đang sống.
1. Người nào tuân lệnh dục tham,
Mất hai thế giới, đời tàn về sau.
1207. Sukhassānantaraṃ dukkhaṃ dukkhassānantaraṃ sukhaṃ, sosi patto sukhā dukkhaṃ pāṭikaṅkha varaṃ sukhaṃ.
1207. Khổ đau tiếp theo sau hạnh phúc, hạnh phúc tiếp theo sau khổ đau. Ngươi đây đã đạt được khổ đau từ hạnh phúc, vậy ngươi hãy mong mỏi hạnh phúc cao quý.
2. Hân hoan cùng với khổ đau
Vẫn thường dẫm bước lên nhau chẳng ngừng,
Con từng thấy chúng chuyển luân,
Hãy tìm hạnh phúc thật chân nhiệm mầu.
1208. Kicchakāle kicchasaho yo kicchaṃ nānuvattati, sa kicchantaṃ sukhaṃ dhīro yogaṃ samadhigacchati.
1208. Vào thời điểm khó khăn, người nào có sự chịu đựng khó khăn, không buông xuôi theo sự khó khăn, vị sáng suốt ấy đạt đến sự rèn luyện, sự chấm dứt khó khăn, sự hạnh phúc.
3. Người nào kham nhẫn đối đầu
Gian lao nhiếp phục khổ sầu bao phen,
Là người vững mạnh tiến lên
Niết-bàn, cực lạc, dứt phiền não xưa.
1209. Na heva kāmāna kāmā nānatthā natthakāraṇā, na katañca niraṅkatvā dhammā cavitumarahasi.
1209. Không phải vì mong muốn các dục, không phải vì không có lợi ích, không phải có lợi ích là nguyên nhân, ngươi không thể nào buông lơi giáo pháp và lơ là việc đã thực hành (tham thiền).
4. Con đừng phá hủy tiêu ma
Quãng đời Thanh hạnh, sa đà công năng,
Chỉ vì dục vọng tham sân
Cầu mong lợi dưỡng, đau buồn nhỏ, to.
1210. Dukkhaṃ gahapatiṃ sādhu saṃvibhajjañca bhojanaṃ, ahāso atthalābhesu atthabyāpatti abyatho.
1210. “Đời gia chủ là khổ nhọc, và tốt lành thay sự sự thọ dụng được san sẻ, sự không đắc chí về các của cải và lợi lộc, và không có sầu não khi có sự tiêu hoại về của cải.
5. Biết đời phiền lụy lo âu,
Thức ăn uống phải phát cho nhiều người.
Chẳng ham tích trữ tiền tài,
Chẳng sầu khi chúng hết thời tiêu tan.
1211. Ettāva tesaṃ paṇḍiccaṃ asito devalo bravi, nayito kiñci pāpiyo indriyānaṃ vasaṃ vaje.
1211. “Vị Devala ngăm đen đã nói chỉ bấy nhiêu về sự sáng suốt của các vị ấy. Không có cái gì tệ hại hơn điều này, là việc người nào đó chiều theo quyền lực của các giác quan.
6. De-va Trí giả Hắc nhan
Giờ đây khuyên nhủ khôn ngoan nhất đời:
Ta không hề thấy có người
Kém hơn kẻ chịu vâng lời dục tham.
1212. Amittānaṃva hatthatthaṃ siva pappoti māmiva, kammaṃ vijjañca dakkheyyaṃ vivāhaṃ sīlamaddavaṃ.
1212. “Tâu đức vua Siva, bệ hạ gánh chịu sự mất mát của cải vào trong tay các kẻ thù, tương tự như trường hợp của tôi về nghề nghiệp, kiến thức, tài năng, hôn nhân, giới hạnh, và sự lễ độ.
7. Chính tôi đây, hỡi Quân vương,
Khác nào giữa chốn đấu trường địch quân,
Công lao, nghề nghiệp, tài năng,
Vợ con, nhà ở bình an một thời,
Ðã tiêu tan hết cả rồi,
Tôi mang nghiệp quả ngay đời thế gian.
1213. Ete ca yase hāpetvā nibbatto sehi kammehi, sohaṃ sahassa jīnova abandhu aparāyaṇo. ariyadhammā atikkanto yathā peto tathevahaṃ.
1213. Sau khi đánh mất những tiếng tăm này, tôi bị thay đổi bởi các hành động của chính mình. Tôi đây giống như người bị thất bại một ngàn lần, không còn thân quyến, không nơi nương tựa. Trong khi lệch ra khỏi đạo lý cao thượng, tôi giống y như người đã chết.
8. Giờ tôi tồi tệ muôn vàn
Không người quyến thuuộc, lang thang không nhà.
Từ đời chân chánh lạc xa,
Tôi như một cái bóng ma đọa đày.
7. Indriyajātakaṃ – Bổn sanh Các Giác Quan.
1214. Sukhakāme dukkhāpetvā āpannosmi padaṃ imaṃ, so sukhaṃ nādhigacchāmi cito bhānumatāmivā ”ti.
1214. Sau khi gây khổ não cho mình ở sự mong mỏi hạnh phúc, tôi đã bị rơi vào trạng thái này. Tựa như bị vây quay bởi ngọn lửa, tôi đây không đạt đến hạnh phúc.”
9. Nay tôi phải sống cảnh này
Vì tôi tạo khổ não thay vui mừng.
Quanh tôi như đám lửa bừng,
Tôi không cảm thấy trong lòng hân hoan.
1215. Ādittasmiṃ agārasmiṃ yaṃ nīharati bhājanaṃ, taṃ tassa hoti atthāya no ca yaṃ tattha ḍayhati.
1215. “Khi ngôi nhà bị cháy rực, gia chủ mang ra vật dụng nào bởi vì vật ấy là có lợi ích cho người ấy, và không phải là vật bị đốt cháy ở tại nơi ấy.
1. Thứ gì ta cứu thoát ra
Lửa đang đốt cháy nhà ta rụi dần,
Những gì sót lại sau cùng
Sẽ còn đó mãi riêng phần ta thôi.
1216. Evamādipito loko jarāya maraṇena ca, nīharetheva dānena dinnaṃ hoti sunīhataṃ.
1216. Tương tự như vậy, thế gian là bị đốt cháy bởi sự già và sự chết. Bệ hạ hãy nên mang ra (cứu vớt bản thân) nhờ vào sự bố thí; cái gì đã được bố thí là đã được mang ra tốt đẹp.”
2. Thế gian bừng cháy khắp nơi
Sanh, già, bệnh, chết làm mồi lửa nhanh,
Cứu mình bằng các thiện hành,
Cúng dường bố thí để dành thật chân.
1217. Yo dhammaladdhassa dadāti dānaṃ uṭṭhānaviriyādhigatassa jantuno, atikkamma so vetaraṇiṃ yamassa dibbāni ṭhānāni upeti macco.
1217. “Người nào dâng cúng vật thí đến bậc đã đạt được giáo pháp, đến con người đã đạt đến sự nỗ lực và tinh tấn, người ấy, sau khi vượt qua dòng sông Vetaraṇī của thần chết, là người đạt được các vị thế ở cõi Trời.”
3. Người nào bố thí chánh nhân
Kiên cường dõng lực, tinh cần tịnh tâm,
Vượt dòng nước lũ Ma vương,
Ðạt nơi an trú kim đường cõi thiên.
1218. Dānañca yuddhañca samānamāhu appāpi santā bahuke jinanti, appampi ce saddahāno dadāti teneva so hoti sukhī parattha.
1218. “Sự bố thí và chiến đấu là tương tự nhau, dầu là ít người cũng thắng được nhiều người, nếu người bố thí dầu là ít, nhưng có niềm tin, chính vì thế, người ấy có sự an lạc về sau này.”
4. Thiện hành nào khác trận tiền
Trước vài địch thủ, chạy liền ba quân.
Cúng dường với cả tín tâm
Ðời sau hưởng lạc là phần ngài thôi.
1219. Viceyyadānaṃ sugatappasatthaṃ ye dakkhiṇeyyā idha jīvaloke, etesu dinnāni mahapphalāni bījāni vuttāni yathā sukhette.
1219. “Sự bố thí có suy xét đã được bậc Thiện Thệ ca tụng, các vị nào là xứng đáng cúng dường ở đây, ở thế gian của sự sống, những vật được bố thí ở các vị này là có những quả báu lớn lao, giống như các hạt giống đã được gieo ở thửa ruộng phì nhiêu.”
5. Người cho làm đẹp ý trời,
Khôn ngoan xứng đáng làm vơi nhọc nhằn
Cúng dường mang quả hưng long,
Cũng như hạt giống gieo vùng phì nhiêu.
1220. Yo pāṇabhūtāni aheṭhayaṃ caraṃ parūpavādā na karoti pāpaṃ, bhīruṃ pasaṃsanti na hi tattha sūraṃ bhayā hi santo na karonti pāpaṃ.
1220. “Người nào sống không gây tổn hại các chúng sanh có mạng sống, người ấy do (sợ hãi) sự phỉ báng của người khác mà không làm điều ác. Trong trường hợp ấy, các bậc trí ca ngợi sự khiếp sợ, nhưng không ca ngợi sự anh hùng, bởi vì do sự sợ hãi mà những người tốt không làm điều ác.”
6. Ai không hề nói lắm điều,
Tránh làm ác nghiệp hại nhiều chúng sinh,
Người đời gọi yếu, chê khinh,
Chính vì sợ hãi giữ mình thanh lương.
1221. Hīnena brahmacariyena khattiyaṃ upapajjati, majjhimena ca devattaṃ uttamena visujjhati.
1221. “Với Phạm hạnh bậc thấp thì được sanh vào dòng dõi Sát- đế- lỵ, với bậc trung thì trạng thái chư Thiên, với bậc tối thượng thì được thanh tịnh.”
7. Tạo nên phước nghiệp thông thường
Tái sinh nhân thế, quân vương oai quyền.
Phước nhiều đạt đến cõi thiên,
Công năng tối thượng đắc miền Tịnh Cư.
8. Ādittajātakaṃ – Bổn sanh Bị Cháy Rực.
1222. Addhā hi dānaṃ bahudhā pasatthaṃ dānā ca kho dhammapadaṃ va seyyo, pubbeva hi pubbatare ca santo nibbānamevajjhagamuṃ sapaññā ”ti.
1222. “Đương nhiên, sự bố thí là được ca ngợi theo nhiều cách, và chỉ một câu Pháp vẫn là tốt hơn sự bố thí. Bởi vì, ngay trước đây và trước hơn thế nữa, những người tốt, có trí tuệ, đã chứng đạt luôn cả Niết Bàn.”
8. Phước là bố thí đem cho,
Tuy nhiên Giáo pháp lợi to muôn phần,
Xưa nay chứng tỏ bao lần,
Nhờ đây bậc trí đạt toàn Lạc an.
1223. Gaṅgā kumudinī santā saṅkhavaṇṇā ca kokilā, jambu tālaphalaṃ dajjā atha nūna tadā siyā.
1223. “(Khi nào) sông Gaṅgā yên tĩnh như hồ sen, các con chim cu có màu vỏ ốc, và cây mận đỏ có thể cho trái thốt nốt, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
1. Làm sao lặng sóng Hằng hà
Như hồ sen nọ, sơn ca trắng ngần,
Cây đào sinh trái cau vân,
Thì điều như thế họa chăng có là!
1224. Yadā kacchapalomānaṃ pāvāro tividho siyā, hemantikaṃ pāpuraṇaṃ atha nūna tadā siyā.
1224. Khi nào có thể có chiếc áo khoác ba lớp bằng các lông rùa làm tấm choàng mùa đông, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
2. Bao giờ có đủ lông rùa
Kết thành ba tấm áo đưa ta dùng
Vào thời đông giá lạnh lùng,
Thì điều như thế họa chăng có là!
1225. Yadā makasadāṭhānaṃ aṭṭālo sukato siyā, daḷho ca appakampi ca atha nūna tadā siyā.
1225. Khi nào có thể có tháp canh bằng các răng nanh của muỗi được khéo xây dựng, vững chải, và không bị lay động, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
3. Bao giờ răng muỗi nhô ra
Nàng xây cái tháp thật là khéo thay,
Tháp kia không thể chuyển lay,
Ðiều này chắc có cơ may, họa là!
1226. Yadā sasavisāṇānaṃ, nisseṇi sukatā siyā, saggassā rohaṇatthāya atha nūna tadā siyā.
1226. Khi nào có thể có cái thang bằng các sừng của loài thỏ được khéo xây dựng nhằm mục đích leo lên cõi trời, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
4. Bao giờ sừng thỏ mọc ra,
Nàng làm thang đứng thật là khéo thay,
Bậc thang trèo đến tận mây,
Thì điều này có cơ may, hỡi nàng!
1227. Yadā nisseṇimāruyha candaṃ khādeyyuṃ mūsikā, rāhuñca paripāteyyuṃ atha nūna tadā siyā.
1227. Khi nào các con chuột, sau khi leo lên cái thang, có thể gặm nhấm mặt trăng và làm cho thần Rāhu rơi xuống, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
5. Bao giờ chuột nhắt leo thang
Cùng nhau ăn hết mặt trăng sáng ngời.
Ðem La-hầu xuống mặt trời,
Thì điều này hẳn có thời xảy ra!
1228. Yadā surāghaṭaṃ pītvā makkhikā gaṇacārinī, aṅgāre vāsaṃ kappeyyuṃ atha nūna tadā siyā.
1228. Khi nào những con ruồi có sự di chuyển thành đoàn, có thể uống hết hũ rượu, rồi sắp xếp chỗ cư ngụ ở bãi than hừng, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
6. Khi đàn ruồi uống từng vò
Rượu nồng đầy đủ, tự do reo mừng
Ẩn mình trong đám than bừng,
Thì điều như thế họa hoằn xảy ra!
1229. Yadā bimboṭṭhasampanno gadrabho sumukho siyā, kusalo naccagītassa atha nūna tadā siyā.
1229. Khi nào con lừa có đôi môi đỏ mọng, có khuôn mặt đẹp, và thiện xảo trong việc múa hát, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
7. Khi bầy lừa khéo điểm tô
Môi hồng, mặt trắng làm trò khéo thay
Trổ tài múa hát thật hay,
Ðiều này hẳn có cơ may, hỡi nàng!
1230. Yadā kākā ulūkā ca mantayeyyuṃ rahogatā, aññamaññaṃ pihayeyyuṃ atha nūna tadā siyā.
1230. Khi nào các con quạ và các con cú đi đến nơi thanh vắng, có thể trò chuyện, và mong muốn lẫn nhau, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
8. Bao giờ quạ, cú từng đàn
Cùng nhau tụ họp luận bàn riêng tư,
Tỏ tình âu yếm chuyện trò,
Ðiều này có thể xảy ra, hỡi nàng!
1231. Yadā pulasa pattānaṃ chattaṃ thirataraṃ siyā, vassassa paṭighātāya atha nūna tadā siyā.
1231. Khi nào cây dù làm bằng củ và lá sen có thể bền vững hơn sự vùi dập của cơn mưa, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
9. Bao giờ nhặt lá trên ngàn
Từng cây rừng xuống kết làm dù che
Chống mưa ồ ạt tứ bề,
Có cơ xảy đến điều kia, hỡi nàng!
1232. Yadā kuthaṅko sakuṇo pabbataṃ gandhamādanaṃ, tuṇḍenādāya gaccheyya atha nūna tadā siyā.
1232. Khi nào con chim nhỏ có thể ngậm lấy ngọn núi Gandhamādana bằng cái mỏ và bay đi, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
10. Khi đàn chim sẻ cố mang
Tuyết Sơn đủ vẻ huy hoàng hùng anh,
Ngậm trong chiếc mỏ xinh xinh,
Họa may có thể sự tình xảy ra!
9. Aṭṭhānajātakaṃ – Bổn sanh Sự Việc Không Xảy Ra.
1233. Yadā sāmuddikaṃ nāvaṃ sayantaṃ savaṭākaraṃ, ceṭo ādāya gaccheyya atha nūna tadā siyā ”ti.
1233. Khi nào đứa trẻ trai có thể điều khiển chiếc tàu vượt biển có đủ máy móc và dây thừng, rồi khởi hành, có lẽ khi ấy ta sẽ ra đi cùng nàng.
11. Khi chàng trai nhẹ đẩy đưa
Chiếc thuyền buồm vượt biển xa ngàn trùng
Với lòng can đảm anh hùng,
Ðiều này chắc hẳn mới mong, hỡi nàng!
1234. Khamanīyaṃ yāpanīyaṃ kacci mātula te sukhaṃ, sukhaṃ te ammā avaca sukhakāmā hi te mayaṃ.
1234. “Thưa cậu Báo, cậu có khỏe không, có thoải mái không, có được an vui không? Mẹ đã hỏi về sự an vui của cậu, bởi vì chúng cháu có sự mong mỏi về sự an vui của cậu.”
1. Bác ơi, bác có được khang an,
Và bác lâu nay mạnh khỏe chăng?
Mẹ cháu nhắn đưa lời kính hỏi,
Cháu mong cùng bác kết thân bằng!
1235.Naṅguṭṭhaṃ me avakkamma heṭhayitvāna eḷike, sājja mātulavādena muñcitabbā nu maññasi.
1235. “Này cô dê, cô đã đạp lên cái đuôi của ta và gây thương tích. Hôm nay, với tiếng thưa cậu, cô đây nghĩ rằng cô có thể được tự do chăng?”
2. Cô dẫm đuôi ta đấy, bé Dê,
Và làm ta phải bị đau ghê,
Tưởng rằng nhờ gọi ta là “bác”
Cô được tự do để trở về!
1236. Puratthāmukho nisinnosi ahaṃ taṃ mukhamāgatā, pacchito tuyha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ khohaṃ avakkamiṃ.
1236. “Cậu ngồi với mặt nhìn về hướng đông, còn cháu đã đi đến trước mặt của cậu. làm sao cháu đã đạp lên cái đuôi của cậu ở phía sau?”
3. Tôi đi phía trước mặt, thưa ngài,
Ngài vẫn ngồi kia đối diện tôi,
Ðuôi của ngài nằm sau phía ấy,
Làm sao tôi lại dẫm lên đuôi?
1237. Yāvatā caturo dīpā sasamuddā sapabbatā, tāvatā mayha naṅguṭṭhaṃ kathaṃ kho tvaṃ vivajjayi.
1237. “Cái đuôi của ta bao trùm đến hết cả bốn hòn đảo với các biển cả, với các ngọn núi, làm sao cô đã tránh né cái đuôi của ta?”
4. Suốt cả trong toàn bốn đại châu,
Với sông hồ biển núi non cao,
Ðuôi ta trải rộng ra cùng khắp,
Sao cẳng Dê không dẫm nó nào?
1238. Pubbevametaṃ akkhaṃsu mātāpitā ca bhātaro, dīghaṃ duṭṭhassa naṅguṭṭhaṃ samhi vehāsayāgatā.
1238. “Mẹ, cha, và anh em trai đã nói điều ấy cho cháu ngay trước đây. Cái đuôi của kẻ xấu là dài, nên cháu đây đã đi đến từ không trung.”
5. Ta biết đuôi ông ác thật dài,
Vì ta đã được báo tin rồi,
Anh em cha mẹ đều khuyên bảo
Lúc trước ta bay bổng giữa trời!
1239. Tañca disvāna āyantiṃ antalikkhasmiṃ eḷike, migasaṅgho palāyittha bhakkho me nāsito tayā.
1239. “Này cô dê, sau khi nhìn thấy cô đang đi đến ở trên hư không, bầy nai đã chạy trốn; thức ăn của ta bị tiêu mất bởi vì cô.”
6. Bóng dáng cô Dê ở giữa trời
Bay qua không khí ấy mà thôi,
Ðã làm kinh sợ đàn nai nọ,
Vì thế mồi ta bị hỏng rồi!
1240. Icceva vilapantiyā eḷikiyā ruhaṃghaso, galakaṃ anvāvamaddi natthi duṭṭhe subhāsitaṃ.
1240. “Trong khi con dê cái đang than vãn như thế ấy, con báo đã cắn đứt cái cổ của nó; không có lời nói tốt ở kẻ xấu.
7. Chính Dê kêu lớn để cầu ân,
Song máu thịt kia mới thoả lòng,
Dã thú chụp Dê vào cổ họng;
Ác nhân không tỏ chút ân cần.
10. Dīpijātakaṃ – Bổn sanh Con Báo.
1241. Neva duṭṭhe nayo atthi na dhammo na subhāsitaṃ, nikkamaṃ duṭṭhe yujjetha so ca sabhi na rajjatī ”ti.
1241. Không có lý lẽ, không có bản chất, không có lời nói tốt ở kẻ xấu. Nên chứng tỏ sức mạnh với kẻ xấu, và kẻ xấu không có thiện cảm với người đức hạnh.”
8. Kẻ ác không sao biết tỏ ra
Ân cần, chánh hạnh, tránh đường tà,
Nó thù ghét những người lương thiện,
Thượng sách là nên xáp lá cà!
Kaccānivaggo.
*****
Phẩm Bà Kaccāni.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Parisuddhāmanāvilāvatthadharā bakarājassa kāyuraṃ daṇḍāvaro, atha aṅgāracetiyadevilina atha ādittagaṅgādaseḷakinā ”ti.
Aṭṭhakanipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Bà mẹ mặc vải trong sạch, không bị dơ bẩn, của hạc chúa, cái vòng kiềng, chuyện hình phạt, rồi than hừng, vua Cetiya, ẩn sĩ Devala, rồi bị cháy rực, sông Gaṅgā, với con dê cái là mười.
Nhóm Tám Kệ Ngôn được chấm dứt.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda