Nội Dung Chính
- Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm bảy kệ ngôn, Phẩm 1 – 2
- ▪ 1. PHẨM KUKKU
- 1. Kukkujātakaṃ – Bổn sanh Kukku
- 2. Manojajātakaṃ – Bổn sanh Sư Tử Manoja
- 3. Sutanujātakaṃ – Bổn sanh Thanh Niên Sutanu
- 4. Gijjhajātakaṃ – Bổn sanh Chim Kên Kên
- 5. Dabbhapupphajātakaṃ – Bổn sanh Bông Hoa Cỏ
- 6. Dasaṇṇakajātakaṃ – Bổn sanh Cây Gươm Xứ Dasaṇṇa
- 7. Sattubhastajātakaṃ – Bổn sanh Túi Da Đựng Bánh
- 8. Aṭṭhisenajātakaṃ – Bổn sanh Ẩn sĩ Aṭṭhisena
- 9. Kapijātakaṃ – Bổn sanh Con Khỉ
- 10. Bakabrahmajātakaṃ – Bổn sanh Phạm Thiên Baka
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 2. PHẨM GANDHĀRA
- 1. Gandhārajātakaṃ – Bổn sanh Gandhāra
- 2. Mahākapijātakaṃ – Bổn sanh Con Khỉ Chúa
- 3. Kumbhakārajātakaṃ – Bổn sanh Người Làm Đồ Gốm
- 4. Daḷhadhammajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Daḷhadhamma.
- 5. Somadattajātakaṃ – Bổn sanh Con Voi Somadatta
- 7. Koṭisimbalijātakaṃ – Bổn sanh Thần Cây Bông Vải
- 8. Dhūmakārijātakaṃ – Bổn sanh Gã Chăn Dê Dhūmakārī.
- 9. Jāgarajātakaṃ – Bổn sanh Người Tỉnh Thức.
- 10. Kummāsapiṇḍajātakaṃ – Bổn sanh Phần Cháo Đặc
- 10. .
- 11. Parantapajātakaṃ – Bổn sanh Nô Tỳ Parantapa.
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm bảy kệ ngôn, Phẩm 1 – 2
▪ 1. KUKKUVAGGO
▪ 1. PHẨM KUKKU
988. Diyaḍḍhakukku udayena kaṇṇikā vidatthiyo aṭṭha parikkhipanti naṃ, sasiṃsapā sāramayā apheggukā kuhiṃ ṭhitā uparito na dhaṃsati.
988. “Cái nóc nhà cao một kukku rưỡi.[1] chu vi của nó là tám gang tay, là gỗ cây siṃsapa, toàn bằng lõi, cứng rắn, nó được đặt đứng ở chỗ nào ở phía bên trên mà không sụp đổ?”
[1] Chú Giải giải thích 1 kukku = 1 ratana (JaA. iii, 318). Và 1 ratana = 0.25 mét.
1. Cái nóc nhà này cao thước rưỡi,
Tám cây kèo lớn đỡ quây quần
Gỗ sim-sa với sà-ra thẳng,
Bởi vậy nóc nhà đứng vững chăng?
989. Yā tiṃsati sāramayā anujjukā parikiriya gopāṇasiyo samaṭṭhitā, tā saṅgahītā balasā ca piḷitā samaṭṭhitā uparito na dhaṃsati.
989. “Ba mươi thanh rui làm bằng gỗ lõi được đặt nghiêng, xếp vòng quanh, đứng cách khoảng bằng nhau. Chúng được kết chung lại với nhau và cùng nhau chịu lực nén. Được kết hợp với nhau ở phía bên trên, nên nó không sụp đổ.”
2. Ba mươi rui nhỏ gỗ sa-ra
Ðược xếp đều quanh dưới mái nhà,
Áp sát vào nhau nâng thật vững,
Cho nên nóc đứng thẳng ngay mà.
990. Evaṃ mittehi daḷhehi paṇḍito abhejjarūpehi sucīhi mantihi, susaṅgahīto siriyā na dhaṃsati gopāṇasī bhāravahāva kaṇṇikā.
990. Tương tự như vậy, bậc sáng suốt với những người bạn bền vững, có hình thức không thể tách rời, được trong sạch, có sự thông thái, khéo được kết hợp với nhau bằng sự vinh quanh, nên vị ấy không sụp đổ, tựa như nóc nhà có sự chịu đựng sức nặng của các thanh rui.
3. Vậy người có trí được quây quần
Với quốc sư hiền, bạn tận trung,
Sẽ chẳng sa cơ lúc mạt vận,
Như rui đỡ nóc mái thăng bằng.
991. Kharattacaṃ mellaṃ yathāpi satthavā anāmasantopi karoti tittakaṃ, samāharaṃ sāduṃ karoti patthivā asādu kayirā tanuvaṭṭamuddharaṃ.
991. “Cũng giống như người có cây dao, trong khi không bóc vỏ cứng thì làm cho trái bưởi trở nên đắng, tâu đức vua, trong khi bóc sạch vỏ ngoài thì làm cho trái bưởi trở nên ngon ngọt, trong khi lấy ra lớp vỏ mỏng thì có thể làm cho trái bưởi trở nên không ngon ngọt nếu còn để sót.
4. Ăn bưởi luôn phần vỏ đắng cay,
Nếu không gọt vỏ với dao này,
Chỉ ăn phần ruột là thơm ngọt,
Nếu thêm vỏ thì hết ngọt ngay.
992. Evampi gāmanigamesu paṇḍito asāhasaṃ rājadhanāni saṃharaṃ, dhammānuvatti paṭipajjamāno saphāti kayirā aviheṭhayaṃ paraṃ.
992. Cũng tương tự như vậy, trong khi thu gom các tài sản cho đức vua ở các làng và các thị trấn mà không dùng đến bạo lực, là người có sự chấp hành công lý, trong khi hành động không gây khó khăn cho người khác, bậc sáng suốt có thể tạo nên sự thịnh vượng cho xứ sở.”
5. Vậy người có trí chẳng hung tàn
Thâu góp thuế trong các xóm làng,
Tăng sản nghiệp nhưng không phạm tội.
Bước đường chân chánh tạo danh vang.
993. Odātamūlaṃ sucivārisambhavaṃ jātaṃ yathā pokkharaṇīsu ambujaṃ, padumaṃ yathā agginikāsiphālimaṃ na kaddamo na rajo na vāri limpati.
993. “Giống như loài sen mọc ở những hồ nước, có rễ màu trắng, đang sanh trưởng ở nước trong sạch, giống như đóa hoa sen trắng đang lấp lánh ánh nắng mặt trời, không bị bùn đất, không bị bụi bặm, không bị nước làm vấy bẩn.
6. Như hoa sen nở ở trong hồ
Rễ trắng, nước trong bảo dưỡng cho,
Dưới ánh mặt trời hoa nở đẹp
Không hề bụi bặm chẳng bùn nhơ.
1. Kukkujātakaṃ – Bổn sanh Kukku
994. Evampi vohārasuciṃ asāhasaṃ visuddhakammantamapetapāpakaṃ, na limpati kammakilesatādiso jātaṃ yathā pokkharaṇīsu ambujan ”ti.
994. Cũng tương tự như vậy, đối với vị được trong sạch theo luật định, không hung bạo, có các nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, đã lánh xa việc ác, sự ô nhiễm trong hành động không làm vấy bẩn vị như thế ấy, giống như loài sen mọc ở những hồ nước vậy.”
7. Vậy người có đức hạnh đưa đường,
Khéo luyện ôn nhu, đủ thiện lương,
Như đóa sen trong hồ nước ấy,
Bùn nhơ chẳng cấu uế tâm can.
995. Yathā cāpo ninnamati jiyā cāpi nikūjati, haññate nūna manojo migarājā sakhā mama.
995. “Theo như cách cây cung nghiêng xuống và dây cung vang lên nữa, thì vua của loài thú tên Manoja, người bạn của ta, bị giết chết thật rồi.
l. Cung nọ đã giương cao vút lên,
Dây cung phát tiếng sấm vang rền,
Ma-no-ja, chúa sơn lâm ấy,
Thân hữu của ta, bị giết liền.
996. Handadāni vanaṃ tāṇaṃ pakkamāmi yathāsukhaṃ, netādisā sakhā honti labbhā me jīvato sakhā.
996. Nào, bây giờ tôi rời khỏi khu rừng trú ẩn một cách thoải mái. Những kẻ đã chết như thế này không phải là bạn bẻ, không thể là bạn bè của người đang còn sống như tôi.”
2. Than ôi, ta phải kiếm khu rừng,
Cố sức hết lòng, thật gắng công,
Ta phải tìm về nơi trú ẩn,
Bỗng dưng tình bạn hóa thành không.
997. Na pāpajanasaṃsevī accantaṃ sukham edhati, manojaṃ passa semānaṃ giriyassānusāsanī.
997. “Người có sự thân cận với kẻ ác không đạt được sự an lạc tột đỉnh. Hãy nhìn xem sư tử Manoja nằm chết vì lời khuyên của chó rừng Giriya.”
3. Số phận con ta chẳng thịnh hưng,
Say mê, kết hợp ác thân bằng,
Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
Do bởi lời khuyên của chó rừng.
998. Na pāpasampavaṅkena mātā puttena nandati, manojaṃ passa semānaṃ acchannaṃ samhi lohite.
998. “Người mẹ không vui mừng vì đứa con trai kết giao với bạn bè xấu xa. Hãy nhìn xem sư tử Manoja nằm chết bị bao phủ bởi máu của chính nó.”
4. Lòng mẹ chẳng vui khi thấy con
Kết giao với bọn ác thân bằng
Nhìn Ma-no ấy đang nằm đó
Máu chảy nhuộm đầy cả tấm thân.
999. Evamāpajjati poso pāpiyañca nigacchati, yo ve hitānaṃ vacanaṃ na karoti atthadassinaṃ.
999. “Người nào tìm đến sự xấu xa thì sẽ gánh lấy hậu quả như vậy, chính là kẻ không làm theo lời nói của những người tốt có sự nhìn thấy điều lợi ích (ở tương lai).”
5. Cũng vậy bước đi kẻ thấp hèn
Trong đời tăm tối phải nằm yên,
Không hề nghe được lời khuyên nhủ
Của bạn thật chân, bậc trí hiền.
1000. Evañca so hoti tato ca pāpiyo yo uttamo adhamanujapasevī, passuttamaṃ adhamajanūpasevitaṃ migādhipaṃ saravaravedhanibbutaṃ.
1000. “Và tương tự như vậy, có người còn xấu xa hơn thế nữa, là người cao thượng có sự thân cận với kẻ thấp kém. Hãy nhìn xem người cao thượng, lãnh tụ của loài thú, đã thân cận với kẻ thấp kém, rồi bị tán mạng do sự xuyên thủng cực mạnh của mũi tên.”
6. Phần số tệ tàn hơn biết bao
Khi người ở địa vị trên cao
Lại tin tưởng bọn người hèn kém,
Nhìn chúa sơn lâm đã ngã nhào!
2. Manojajātakaṃ – Bổn sanh Sư Tử Manoja
1001. Nihīyati puriso nihīnasevī na ca hāyetha kadāci tulyasevī, seṭṭhamupanamaṃ udeti khippaṃ tasmā attano uttariṃ bhajethā ”ti.
1001. “Người có sự giao hảo với kẻ hạ liệt thì bị tiêu hoại, có sự giao hảo với người tương đương thì không bao giờ bị ruồng bỏ, có sự hạ mình với vị cao thượng thì sẽ tiến bộ nhanh chóng; vì thế, nên quan hệ với người trội hơn bản thân mình.”
7. Ai theo bọn hạ tầng
Chính nó bị bỏ ruồng;
Ai thân người đồng đẳng
Chẳng hề bị phụ phàng;
Ai phục người tối thượng
Sẽ mau chóng thịnh hưng.
Vậy tìm người ưu việt
Ðể có chốn nương thân.
1002. Rājā te bhattaṃ pāhesi sucimaṃsūpasecanaṃ, makhādevasmiṃ adhivatthe ehi nikkhama bhuñjassu.
1002. “Đức vua đã bảo đưa đến cho ngài bữa ăn có trộn lẫn thịt tinh khiết. Nếu Makhādeva ở nơi đây, xin ngài hãy đến, hãy đi ra, và thọ thực.”
1. Vua đã gửi ngài một bát cơm,
Lại thêm thịt nấu thật ngon thơm,
Ma-kha có ở nhà không đấy,
Xin hãy bước ra nhận để ăn!
1003. Ehi māṇava orena bhikkhamādāya sūpitaṃ, tvañca māṇava bhikkhā ca ubho bhakkhā bhavissatha.
1003. “Này người thanh niên, hãy cầm lấy thức ăn có canh đi qua bên này. Này người thanh niên, ngươi và thức ăn, cả hai đều sẽ là bữa ăn (của ta).”
2. Hãy bước vào trong, hỡi cậu trai,
Với cao lương mỹ vị trên tay,
Cả cơm cùng với thân người nữa,
Này cậu, ta xơi tuyệt lắm thay!
1004. Appakena tuvaṃ yakkha thullamatthaṃ jahissasi, bhikkhaṃ te nāharissanti janā maraṇasaññino.
1004. “Này Dạ-xoa, vì cái nhỏ mà ngài sẽ từ bỏ lợi ích lớn. Những người nghĩ đến cái chết sẽ không mang thức ăn đến cho ngài.
3. Dạ-xoa sẽ mất vật to hơn
Ðổi lấy vật này bé con con.
Tất cả mọi người đều sợ chết,
Chẳng còn ai đến biếu cao lương!
1005. Laddhāyaṃ yakkha tava niccabhikkhaṃ suciṃ paṇītaṃ rasasā upetaṃ, bhikkhañca te āhariyo naro idha sudullabho hohiti khādite mayi.
1005. Này Dạ-xoa, vật đã nhận được này là thức ăn thường kỳ, tinh khiết, hảo hạng, đầy đủ hương vị của ngài. Và nếu tôi bị ăn thịt, thì người mang thức ăn đến đây cho ngài sẽ khó kiếm vô cùng.”
4. Vậy ngài sẽ được cấp lương cao
Tinh sạch nêm gia vị ngọt ngon.
Song nếu ăn ta, thì khó kiếm
Một người nào khác đến đem cơm.
1006. Mamesaṃ sutano attho yathā bhāsasi māṇava, mayā tvaṃ samanuññāto sotthiṃ passasi mātaraṃ.
1006. “Này Sutana, điều ấy là lợi ích của ta giống như ngươi nói. Này người thanh niên, ngươi được ta cho phép, ngươi sẽ gặp lại mẹ một cách an toàn.
5. Su-ta-na, quả thật đúng thay
Mối lợi ta như cậu tỏ bày,
Hãy trở lại thăm hiền mẫu nhé,
Ta cho phép cậu bước đi ngay.
1007. Khaggaṃ chattañca pātiñca gacchevādāya māṇava, sotthiṃ passatu te mātā tvañca passāhi mātaraṃ.
1007. Này người thanh niên, ngươi hãy cầm lấy gươm, lọng, và cái đĩa, rồi đi ngay. Mẹ của ngươi hãy gặp lại ngươi, và ngươi hãy gặp lại người mẹ một cách an toàn.”
6. Lấy gươm, lọng, bát, cậu thanh niên,
Hãy nhắm đường đi, cất bước liền,
Thăm mẹ hiền trong niềm phấn khởi,
Cho bà sống hạnh phúc bình yên.
1008. Evaṃ yakkha sukhī hohi saha sabbehi ñātihi, dhanañca me adhigataṃ rañño ca vacanaṃ katan ”ti.
3. Sutanujātakaṃ – Bổn sanh Thanh Niên Sutanu
1008. “Tương tự như vậy, này Dạ-xoa, mong ngài được hạnh phúc cùng với tất cả thân quyến. Tôi đã đạt được tài sản và đã thực hiện lời nói của đức vua.”
7. Dạ-xoa cùng với mọi thân nhân,
Mong ước toàn gia được phước ân,
Lệnh vua đã thực hành viên mãn,
Tài sản ta nay được hưởng phần.
1009. Te kathannu karissanti vuddhā giridarīsayā, ahaṃ baddhosmi pāsena nīliyassa vasaṃ gato.
1009. “Cha mẹ già ngụ ở hang núi, họ sẽ làm thế nào? Ta đã bị vướng vào bẫy, đã sa vào quyền lực của thợ săn Nīliya.”
1. Làm sao thân lão biết tìm mồi
Trong chốn hang sâu của núi đồi?
Ta bị buộc chân vào chiếc bẫy,
Làm nô lệ của Ni-la thôi.
1010. Kiṃ gijjha paridevasi kā nu te paridevanā, na me suto vā diṭṭho vā bhāsanto mānusiṃ dijo.
1010. “Này chim kên kên, ngươi than khóc về việc gì? Việc than khóc của người là sao? Ta chưa từng được nghe hoặc nhìn thấy con chim nói tiếng người.”
2. Chim Thứu, sao chim khóc ỉ ôi,
Tiếng chim đưa đến tận bên tai,
Ta chưa từng thấy hay nghe được
Chim biết thốt ra tiếng giống người.
1011. Bharāmi mātāpitaro vuddhe giridarīsaye, te kathannu karissanti ahaṃ vasaṃ gato tava.
1011. “Tôi phụng dưỡng mẹ và cha đã già ngụ ở hang núi. Họ sẽ làm thế nào khi tôi đã sa vào quyền lực của ông?”
3. Ta nuôi phụ mẫu đã già rồi
Ở trong hang nọ dưới chân đồi,
Làm sao thân lão tìm mồi được
Khi thứu trở thành nô lệ người?
1012. Yannu gijjho yojanasataṃ kuṇapāni avekkhati, kasmā jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhasi.
1012. “Có lời đồn rằng loài chim kên kên nhìn thấy các xác chết cách xa một trăm do-tuần, tại sao ngươi đến gần mà cũng không nhận ra lưới giăng và bẫy sập?”
4. Kên kên nhìn xác chết đằng xa
Hơn cả một trăm dặm vượt qua,
Vì cớ sao chim không thấy rõ
Lưới kia bẫy nọ thật gần mà?
1013. Yadā parābhavo hoti poso jīvitasaṅkhaye, atha jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhati.
1013. “Khi con người có sự rủi ro vào lúc tiêu hoại mạng sống, thì dầu cho đến gần cũng không nhận ra lưới giăng và bẫy sập.”
5. Khi đời sắp đến vận suy tàn,
Thần chết đang đòi hỏi số phần,
Dù có đứng gần bên chiếc bẫy,
Cũng không thấy bẫy đặt dây giăng!
1014. Bharassu mātāpitaro vuddhe giridarīsaye, mayā tvaṃ samanuññāto sotthiṃ passāhi ñātake.
1014. “Ngươi hãy phụng dưỡng mẹ và cha đã già ngụ ở hang núi. Ngươi được ta cho phép, ngươi hãy gặp lại các thân quyến một cách an toàn.
6. Thôi hãy về đi với lão thân
Ở trong hang núi, hãy chăm nom,
Về thăm cha mẹ trong an lạc,
Chim được ta cho thỏa ước mong.
4. Gijjhajātakaṃ – Bổn sanh Chim Kên Kên
1015. Evaṃ luddaka nandassu saha sabbehi ñātihi, bharissaṃ mātāpitaro vuddhe giridarīsaye ”ti.
1015. “Tương tự như vậy, này người thợ săn, mong ông được hạnh phúc cùng với tất cả thân quyến. Tôi sẽ phụng dưỡng mẹ và cha đã già ngụ ở hang núi.”
7. Hỡi thợ săn cùng cả họ hàng,
Cầu mong hạnh phúc đến nhà chàng!
Ta về với mẹ cha già yếu,
Chăm sóc hai thân ở dưới hang.
1016. Anutīracāri bhaddante sahāyamanudhāva maṃ, mahā me gahito maccho so maṃ harati vegasā.
1016. “Này bạn Anutīracārī đáng kính, bạn hãy chạy đến chỗ tôi. Tôi đã bắt được con cá lớn, nó lôi tôi đi bằng sức mạnh.”
1. Này bạn A-nu, chạy tới ngay,
Ta cầu khẩn bạn giúp ta đây,
Ta vừa bắt cá này to lớn,
Song nó kéo ta mạnh thế này!
1017. Gambhīracāri bhaddante daḷhaṃ gaṇhāhi thāmasā, ahaṃ taṃ uddharissāmi supaṇṇo uragammiva.
1017. “Này bạn Gambhīracārī đáng kính, bạn hãy nắm chặt bằng sức lực. Tôi sẽ kéo nó lên tựa như con linh điểu chộp lấy con rắn.”
2. Gam-bhi, bạn tốt số dường nào!
Móng vuốt bạn cầm vững mạnh sao!
Chẳng khác đại bàng câu rắn nước,
Ta câu cá nọ nhấc lên cao!
1018. Vivādo no samuppanno dabbhapuppha suṇohi me, samehi medhagaṃ samma vivādo vūpasammataṃ.
1018. “Sự tranh cãi đã sanh khởi giữa chúng tôi, này ông bạn có bộ lông màu bông hoa cỏ, xin hãy lắng nghe tôi. Này bạn, xin bạn hãy làm lắng dịu sự gây gỗ. Mong rằng sự tranh cãi được lặng yên.”
3. Một cuộc tranh giành giữa chúng tôi
Tôn ông mang áo xám kia ôi!
Xin ông ổn định dùm tranh chấp
Cho thật công bằng giữa cả đôi.
1019. Dhammaṭṭhohaṃ pure āsiṃ bahu aṭṭaṃ me tīritaṃ, samemi medhagaṃ sammā vivādo upasammatu.
1019. “Trước đây, ta đã là người duy trì công lý, nhiều vụ kiện đã được ta phân xử. Ta sẽ làm lắng dịu sự gây gỗ. Sự tranh cãi hãy được lặng yên.
4. Ta đã giải phân lắm cạnh tranh
Làm xong sứ mạng thật hòa bình,
Chư Tôn hãy để điều tranh chấp
Tại hạ công bình ổn định nhanh.
1020. Anutīracārī naṅguṭṭhaṃ sīsaṃ gambhīracārino, athāyaṃ majjhimo khaṇḍo dhammaṭṭhassa bhavissati.
1020. Anutīracārī là cái đuôi, cái đầu thuộc về Gambhīracārī, còn phần thân ở giữa này thì sẽ thuộc về người duy trì công lý.”
5. A-nu, hãy lãnh phần đuôi,
Còn chú Gam-bhì, thủ cấp rồi,
Phần giữa dành cho ta xử kiện,
Trả công xứng đáng thế này thôi!
1021. Cirampi bhakkho abhavissa sace na vivademase, asīsakaṃ anaṅguṭṭhaṃ sigālo harati rohitaṃ.
1021. “Nếu chúng ta không tranh cãi thì có thể có thức ăn cũng được lâu. Con chó rừng tha đi phần thân cá hồi, bỏ lại đầu, bỏ lại đuôi.”
6. Nếu không tranh cãi chuyện vừa rồi,
Chắc chắn là vừa đủ cá thôi,
Nay bị chó rừng mang hết thịt,
Chỉ còn để lại khúc đầu đuôi!
1022. Yathāpi rājā nandeyya rajjaṃ laddhāna khattiyo, evāhamajja nandāmi disvā puṇṇamukhaṃ patiṃ.
1022. “Cũng giống như vị vua dòng Sát-đế-lỵ có thể vui mừng sau khi tiếp thu vương quốc, tương tự như vậy, thiếp hôm nay vui mừng sau khi nhìn thấy chồng với miệng ngậm đầy ắp (cá tươi).
7. Như vua mãn nguyện được cầm quyền
Thâu gọn giang sơn trị nước yên,
Mãn nguyện ta nhìn chàng trở lại,
Ngậm đầy trong mỏ cá tươi nguyên!
1023. Kathannu thalajo santo udake macchaṃ parāmasi, puṭṭho me samma akkhāhi kathaṃ adhigataṃ tayā.
1023. Trong khi là loài sanh ra ở đất liền, làm thế nào chàng đã bắt được cá ở trong nước? Chàng ơi, được thiếp hỏi, xin chàng hãy giải thích, làm thế nào chàng đã đạt được cá?”
8. Chàng vốn sinh ra ở đất bằng,
Làm sao bắt cá giữa dòng sông?
Phu quân, chàng lập kỳ công ấy,
Cho biết vì sao, thiếp ước mong.
1024. Vivādena kisā honti vivādena dhanakkhayā, jīnā uddā vivādena bhuñja māyāvi rohitaṃ.
1024. “Chúng trở nên gầy ốm vì tranh cãi, chúng có tài sản bị cạn kiệt vì tranh cãi, hai con rái cái bị thua thiệt vì tranh cãi. Này nàng Māyāvī, nàng hãy ăn con cá hồi.”
9. Vì cạnh tranh nên chúng yếu dần,
Cạnh tranh làm chúng phải suy tàn,
Cạnh tranh, rái cá mất phần hưởng,
Vì vậy Mà-yà được miếng ngon.
5. Dabbhapupphajātakaṃ – Bổn sanh Bông Hoa Cỏ
1025. Evamevaṃ manussesu vivādo yattha jāyati, dhammaṭṭhaṃ paṭidhāvanti so hi nesaṃ vināyako, dhanāpi tattha jīyanti rājakoso pavaḍḍhatī ”ti.
1025. “Tương tự như vậy, nơi nào nảy sanh sự tranh cãi giữa những người dân, họ liền chạy đến người duy trì công lý, chính vị ấy là người hướng dẫn cho họ, các tài sản ở nơi ấy bị thất thoát, còn công khố của nhà vua tăng thêm.”
10. Cũng vậy, tranh giành giữa thế nhân,
Tìm người xử kiện: nó chia phần,
Gia tài của chúng suy tàn hết,
Công khố nhà vua được thịnh hưng.
1026. Dasaṇṇakaṃ tikhiṇadhāraṃ asiṃ sampannapāyinaṃ, parisāyaṃ puriso gilati kiṃ dukkarataraṃ tato, yadaññaṃ dukkaraṃ ṭhānaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
1026. “Người đàn ông ở nơi đám đông nuốt thanh gươm của xứ Dasaṇṇa, sắc cạnh, đã được nhuốm máu; có việc gì là khó làm hơn việc ấy? Trẫm hỏi là có việc nào khác là khó làm (hơn việc nuốt thanh gươm), khanh hãy nói về việc ấy cho trẫm.”
1. Bảo kiếm Da-san thích máu hồng,
Cạnh đều sắc nhọn thật hoàn toàn,
Giữa đông người, nó ăn thanh kiếm,
Chẳng có việc nào khó nữa chăng?
Ta hỏi có gì đem sánh được
Nhờ khanh giải đáp, hởi hiền nhân.
1027. Gileyya puriso lobhā asiṃ sampannapāyinaṃ, yo ca vajjā dadāmīti taṃ dukkarataraṃ tato, sabbaññaṃ sukaraṃ ṭhānaṃ evaṃ jānāhi māgadha.
1027. “Người đàn ông nuốt thanh gươm đã được nhuốm máu do tham lam. Và người nào nói rằng: ‘Tôi bố thí,’ việc ấy là khó làm hơn việc kia. Tâu Māgadha, mọi việc khác là dễ làm, xin bệ hạ nhận biết như vậy.”
2. Lòng tham dụ kẻ nuốt thanh gươm,
Cho dẫu lưỡi gươm bén thập toàn,
Song nói: “Ta cho, lòng tự nguyện”
Là điều khó thực hiện vô cùng,
Mọi điều gì khác đều không khó,
Ðại đế Kiệt-đà, tôi giải phân.
1028. Vyākāsi āyuro pañhaṃ atthadhammassa kovido, pukkusaṃ dāni pucchāmi kiṃ dukkarataraṃ tato, yadaññaṃ dukkaraṃ ṭhānaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
1028. “Āyura, vị rành rẽ về ý nghĩa của sự việc, đã trả lời câu hỏi. Bây giờ, trẫm hỏi Pukkusa, có việc gì là khó làm hơn việc kia? Trẫm hỏi là có việc nào khác là khó làm (hơn việc nói ấy), khanh hãy nói về việc ấy cho trẫm.”
3. Ày-ra đã giải đáp lời ta,
Trí tuệ cao siêu quả thật là,
Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
Còn gì khó nữa hỡi, Pusk-sa,
Nếu đem so sánh điều trên ấy,
Hiền giả, xin mời giải đáp ta.
1029. Na vācamupajīvanti aphalaṃ giramudīritaṃ, yo ca datvā avākayirā taṃ dukkarataraṃ tato, sabbaññaṃ sukaraṃ ṭhānaṃ evaṃ jānāhi māgadha.
1029. “Người ta không sống nhờ vào lời nói, lời nói được thốt ra không có kết quả. Và người nào, sau khi bố thí, có thể dứt khoát, việc ấy là khó làm hơn việc kia. Tâu Māgadha, mọi việc khác là dễ làm, xin bệ hạ nhận biết như vậy.”
4. Người ta không sống được bằng lời,
Lời nói thốt ra uổng phí thôi,
Song nếu đem cho không tiếc nuối,
Việc này còn khó bội hơn rồi.
Mọi điều gì khác đều không khó,
Ðại đế, đây lời đáp của tôi.
1030. Vyākāsi pukkuso pañhaṃ atthaṃ dhammassa kovido, senakandāni pucchāmi kiṃ dukkarataraṃ tato, yadaññaṃ dukkaraṃ ṭhānaṃ taṃ me akkhāhi pucchito.
1030. “Pukkusa, vị rành rẽ về ý nghĩa của sự việc, đã trả lời câu hỏi. Bây giờ, trẫm hỏi Senaka, có việc gì là khó làm hơn việc kia? Trẫm hỏi là có việc nào khác là khó làm (hơn việc bố thí một cách dứt khoát), khanh hãy nói về việc ấy cho trẫm.”
5. Puk-sa đã giải đáp lời ta,
Trí tuệ cao siêu quả thật là.
Ta hỏi giờ đây câu nữa nhé:
Còn gì khó nữa, hỡi Sen-ka,
Nếu đem so sánh điều trên ấy,
Hiền giả xin mời giải đáp ta.
1031. Dadeyya puriso dānaṃ appaṃ vā yadi vā bahuṃ, yo ca datvā nānutape taṃ dukkarataraṃ tato, sabbaññaṃ sukaraṃ ṭhānaṃ evaṃ jānāhi māgadha.
1031. “Một người có thể bố thí vật thí, dầu ít hay là nhiều. Và người nào, sau khi bố thí, có thể không tiếc nuối, việc ấy là khó làm hơn việc kia. Tâu Māgadha, mọi việc khác là dễ làm, xin bệ hạ nhận biết như vậy.”
6. Nếu người có của đã đem cho
Bất luận là gì, dẫu nhỏ to,
Ðừng tiếc nuối sau khi bố thí,
Việc này quả thật khó hơn mà,
Mọi điều gì khác đều không khó,
Xin đáp Ðại vương Ma-kiệt-đà.
1032. Vyākāsi āyuro pañhaṃ atho pukkusaporiso, sabbe pañhe abhibhoti yathā bhāsati senako ”ti.
6. Dasaṇṇakajātakaṃ – Bổn sanh Cây Gươm Xứ Dasaṇṇa
1032. “Āyura đã trả lời câu hỏi, rồi đến nhân vật Pukkusa, theo như cách Senaka đáp thì vượt qua tất cả các câu hỏi.”
7. Ày-ra giải đáp lời ta,
Thế rồi Hiền giả Puk-sa cũng vầy,
Lời Sen-ka quả thật hay,
Trong ba lời giải lời này tối ưu.
1033. Vibbhantacitto kupitindriyosi nettehi te vārigaṇā savanti, kiṃ te naṭṭhaṃ kiṃ pana patthayāno idhāgamā brahmaṇa iṅgha brūhi.
1033. “Này Bà-la-môn, ông có tâm bị tán loạn, có giác quan bị xáo trộn, các giọt nước mắt chảy ra từ hai con mắt của ông. Cái gì của ông đã bị mất mát? Giờ ông đang ước nguyện điều gì? Ông hãy đi đến đây. Nào, ông hãy nói.
1. Tâm tư lão rối loạn, ưu phiền,
Nước mắt chảy là cớ hiển nhiên,
Lão mất gì, vào đây muốn kiếm
Thứ gì? Hãy nói rõ ngay liền.
1034. Mīyetha bhariyā vajato mamajja agacchato maraṇaṃ āha yakkho, etena dukkhena pavedhitosmi akkhāhi me senaka etamatthaṃ.
1034. “Người vợ của tôi sẽ chết nếu tôi về đến nhà hôm nay, nếu tôi không về thì cái chết sẽ có cho tôi, vị Dạ-xoa đã nói. Vì thế, tôi bị run sợ bởi nỗi khổ đau. Thưa ngài Senaka, xin ngài hãy giải thích cho tôi về sự việc này.”
2. Vợ chết, nếu tôi trở lại nhà,
Còn không, tôi sẽ hóa ra ma,
Ðiều này làm trái tim đau nhói,
Xin giải vấn đề, hỡi Sen-ka.
1035. Bahūni ṭhānāni vicintayitvā yamettha vakkhāmi tadeva saccaṃ, maññāmi te brāhmaṇa sattubhastaṃ ajānato kaṇhasappo paviṭṭho.
1035. “Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng về nhiều khía cạnh, ta sẽ nói chính xác bản thể thật của sự việc này. Này Bà-la-môn, ta nghĩ rằng cái túi da đựng bánh của ông, có con rắn độc màu đen đã bò vào mà ông không biết.3
. Suy xét mọi nghi hoặc trước tiên,
Nay ta tuyên bố sự đương nhiên:
La-môn, trong túi đồ ăn ấy
Ðã lẻn chui vào rắn hổ đen!
1036. Ādāya daṇḍaṃ parisumbha bhastaṃ passeḷamūgaṃ uragaṃ dvijivhaṃ, chindajja kaṅkhaṃ vicikicchitāni bhujaṅgamaṃ passa pamuñca bhastaṃ.
1036. Ông hãy cầm lấy cây gậy, rồi hãy đánh vào cái túi da. Ông hãy nhìn xem con rắn, loài có hai lưỡi, với miệng chảy nước dãi. Hôm nay, ông hãy cắt đứt nỗi phân vân và các sự hoài nghi. Ông hãy nhìn thấy con rắn, và ông hãy cởi bỏ cái túi da.”
4. Cầm gậy đập lên chiếc túi dày,
Im hơi, hai lưỡi chính con này,
Trí ông hết rối vì nghi hoặc,
Mở túi, rồi ông thấy rắn ngay!
1037. Saṃviggarūpo parisāya majjhe so brāhmaṇo sattubhastaṃ pamuñci, atha nikkhami urago uggatejo āsīviso sappo phaṇaṃ karitvā, suladdhalābhā janakassa rañño yo passati senakaṃ sādhupaññaṃ.
1037. “Ở giữa đám đông, với dáng vẻ bị chấn động, vị Bà-la-môn đã cởi bỏ cái túi da đựng bánh. Rồi con rắn đã bò ra, có uy lực hung bạo, con rắn có nọc độc đã ngóc đầu lên.
Sự lợi ích khéo đạt được đã có cho đức vua Janaka, đức vua là người nhìn thấy vị Senaka có trí tuệ hoàn hảo!”
5. Kinh hãi, lão ra giữa đám đông,
Mở dây chiếc túi đựng đồ ăn,
Một con rắn hổ bò hung dữ,
Kiêu hãnh giương cao cả chiếc mồng!
7. Chúa thượng Jan-ka, lợi lạc thay, Ðại vương có bậc trí nhân này.
1038. Vivattacchaddo nusi sabbadassī ñāṇaṃ nu te brahmaṇa bhiṃsarūpaṃ, imāni me sattasatāni atthi gaṇhāhi sabbāni dadāmi tuyhaṃ, tayā hi me jīvitamajja laddhaṃ athopi bhariyāyamakāsi sotthiṃ.
1038. “Có phải ngài có màn che được khép lại và có cái nhìn toàn diện? Thưa ngài Bà-la-môn, phải chăng trí tuệ của ngài có vẻ kinh khiếp? Có bảy trăm đồng tiền này là của tôi,
xin ngài hãy nhận lấy, tôi biếu ngài tất cả. Bởi vì mạng sống của tôi đạt được ngày hôm nay là do ngài, và ngài cũng đã tạo sự an toàn cho vợ tôi nữa.”
Trí ngài đáng sợ, hồ nghi biến,
Trước mắt ngài nhìn thấu suốt ngay.
8. Này đây có cả bảy trăm đồng,
Xin nhận lấy ngay vật hiến dâng,
Vì chính nhờ ngài, tôi được sống
Cùng nguồn an lạc của thân nhân.
7. Sattubhastajātakaṃ – Bổn sanh Túi Da Đựng Bánh
1039. Na paṇḍitā vettanam ādiyanti citrāhi gāthāhi subhāsitāhi, itopi te brahme dadantu vittaṃ ādāya taṃ gaccha sakaṃ niketan ”ti.
1039. “Các bậc sáng suốt không nhận lấy tiền thưởng công do các kệ ngôn hoa mỹ đã được khéo nói. Này Bà-la-môn, hãy để các ngài cho ông phần của cải này. Ông hãy cầm lấy phần ấy rồi đi về nhà của mình.”
9. Bậc trí không dùng vật cúng dâng
Chỉ vì các khúc kệ ca ngâm,
Tốt hơn, ta tặng luôn tiền ấy
Trước lúc lão về lại cố hương.
1040. Yeme ahaṃ na jānāmi aṭṭhisena vaṇibbake, te maṃ saṅgamma yācanti kasmā maṃ tvaṃ na yācasi.
1040. “Thưa ngài Aṭṭhisena, có những người ăn mày mà trẫm không biết, những người ấy cầu xin sau khi gặp trẫm, tại sao ngài không cầu xin trẫm?”
1. At-thi, lắm kẻ đến mong cầu,
Cho dẫu họ xa lạ biết bao,
Lũ lượt xin ta ban thỉnh nguyện,
Còn ngài, không ước vọng, vì sao?
1041. Yācako appiyo hoti yācaṃ adadamappiyo, tasmāhantaṃ na yācāmi mā me viddesanā ahu.
1041. “Kẻ cầu xin không được yêu mến, kẻ không cho vật được cầu xin cũng không được yêu mến; chính vì lý do ấy, ta không cầu xin bệ hạ, chớ có ghét bỏ ta.”
2. Hai kẻ cầu ân, hoặc chối từ,
Thảy đều không đẹp ý bao giờ,
Ðấy là duyên cớ, xin đừng giận,
Khiến tiểu thần không thỉnh nguyện vua.
1042. Yo ce yācanajīvāno kāle yācaṃ na yācati, parañca puññā dhaṃseti attanāpi na jīvati.
1042. “Người nào, nếu đang sinh sống bằng việc cầu xin, mà không cầu xin vật cần xin vào lúc hợp thời, người ấy khiến người khác tổn hại phước báu và cũng không tự mình nuôi sống.
3. Người nào kiếm sống khẩn cầu hoài,
Chẳng đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác suy tàn đức độ,
Chính mình chẳng có kế sinh nhai.
1043. Yo ce yācanajīvāno kāle yācaṃ hi yācati, parañca puññaṃ labbheti attanāpi ca jīvati.
1043. Người nào, nếu đang sinh sống bằng việc cầu xin, và cầu xin vật cần xin vào lúc hợp thời, người ấy khiến người khác đạt được phước báu và còn tự mình nuôi sống nữa.
4. Người nào kiếm sống, khẩn cầu hoài,
Thường đến cầu ân lúc hợp thời,
Làm kẻ khác tăng dần đức độ,
Chính mình cũng được kế sinh nhai.
1044. Na ve dissanti sappaññā disvā yācakamāgate, brahmacāri piyo mesi varataṃ bhaññamicchasi.
1044. Quả thật, các bậc thiện trí không ghét bỏ sau khi nhìn thấy người ăn xin đã đi đến. Bậc thực hành Phạm hạnh được trẫm yêu mến. Ngài hãy nói lên điều ân huệ mà ngài ước muốn.
5. Bậc có trí không thấy hận sân,
Khi người lũ lượt đến cầu ân,
Nói đi, Thánh giả là thân hữu,
Ðiều ước ngài không thể lỗi lầm.
1045. Na ve yācanti sappaññā dhīro veditumarahati, uddissa ariyā tiṭṭhanti esā ariyānayācanā.
1045. “Quả thật, các bậc thiện trí không cầu xin, người sáng trí có khả năng hiểu được. Các bậc Thánh đứng im lặng; đó là cách cầu xin của các bậc Thánh nhân.”
6. Bậc trí không hề thỉnh nguyện đâu,
Thế nhân phải biết rõ như sau:
Trí nhân thỉnh nguyện ngồi im lặng,
Như thế là người trí thỉnh cầu.
8. Aṭṭhisenajātakaṃ – Bổn sanh Ẩn sĩ Aṭṭhisena
1046. Dadāmi te brāhmaṇa rohiṇīnaṃ gavaṃ sahassaṃ saha puṅgavena, ariyo hi ariyassa kathaṃ na dajjā sutvāna gāthā tava dhammayuttā ”ti.
1046. “Này Bà-la-môn, trẫm ban cho khanh một ngàn bò cái màu hung đỏ với một con bò mộng. Bởi vì là người thánh thiện, tại sao trẫm lại không ban tặng cho người thánh thiện, sau khi đã lắng nghe các kệ ngôn gắn liền với lý lẽ của khanh?”
7. Ngàn bò trẫm tặng Bà-la-môn,
Bó đỏ, thêm người hướng dẫn đường,
Nghe các nghiệp ngài đầy thánh thiện,
Trẫm nay phát khởi nghiệp hiền lương.
1047. Yattha verī nivasati na vase tattha paṇḍito, ekarattaṃ dirattaṃ vā dukkhaṃ vasati verisu.
1047. “Kẻ thù cư ngụ ở nơi nào, người sáng suốt không nên sống ở nơi ấy, dầu là một đêm hoặc hai đêm sống một cách khổ sở giữa những kẻ thù.
1. Người trí không nên ở chốn nào
Cừu nhân cư trú, dẫu dài lâu,
Hay chỉ một, hai đêm cũng vậy,
Ðến gần sẽ gặp nỗi sầu đau.
1048. Diso ce lahucittassa posassa anuvidhiyyato, ekassa kapino hetu yūthassa anayo kato.
1048. Thật vậy, kẻ thù là có tâm khinh suất đối với người hành xử đúng theo nó. Vì nguyên nhân của một con khỉ, sự bất hạnh đã xảy ra cho cả bầy.
2. Kẻ ngu là địch thủ cho ai
Vẫn trót tin lời nó nói sai:
Con khỉ ngu si đem đại họa
Cho bầy của nó thế mà thôi.
1049. Bālo ca paṇḍitamānī yūthassa parihārako, sacittassa vasaṃ gantvā sayethāyaṃ yathā kapi.
1049. Và kẻ ngu, có sự tự mãn là sáng suốt, kẻ cai quản cả bầy, sau khi rơi vào quyền lực của tâm mình, kẻ này nằm dài (chết) giống như con khỉ.
3. Một kẻ ngu si đứng trưởng đoàn,
Vì kiêu căng muốn tỏ khôn ngoan,
Sẽ không khác khỉ này gây họa,
Mãi mãi đưa đường đến bại vong.
1050. Na sādhu balavā bālo yūthassa parihārako, ahito bhavati ñātīnaṃ sakuṇānaṃva cetako.
1050. Kẻ ngu có sức mạnh làm kẻ cai quản cả bầy là không tốt, là không có lợi ích cho các thân quyến, tựa như con chim mồi đối với bầy chim.
4. Kẻ mạnh ngu si chẳng tốt lành,
Lãnh phần bảo vệ cả đàn mình,
Nó là tai họa cho đồng loại,
Chẳng khác chim mồi đáng hãi kinh.
1051. Dhīro ca balavā sādhu yūthassa parihārako, hito bhavati ñātīnaṃ tidasānaṃ va vāsavo.
1051. Và người sáng trí có sức mạnh làm người cai quản cả bầy là tốt lành, là có lợi ích cho các thân quyến, tựa như vị Đế Thích đối với chư Thiên cõi Tam Thập.
5. Trưởng đoàn hùng dũng trí khôn ngoan
Làm tốt để canh giữ cả đoàn,
Chẳng khác Ind-ra bên Hội chúng,
Là phần thưởng của các thân bằng.
1052. Yo ca sīlañca paññañca sutañcattani passati, ubhinnamatthaṃ carati attano ca parassa ca.
1052. Và người nào nhìn thấy giới, tuệ, và kiến thức ở bản thân, (người ấy) thực hành sự tấn hóa cho cả hai, cho bản thân và cho người khác.
6. Người nào đủ giới hạnh hoàn toàn,
Trí tuệ tinh thông, học tập luôn,
Hành động người này đem phước lạc
Cho mình cùng với các tha nhân.
9. Kapijātakaṃ – Bổn sanh Con Khỉ
1053. Tasmā tuleyya-m-attānaṃ sīlapaññāsutāmiva, gaṇaṃ vā parihare dhīro ekovāpi paribbaje ”ti.
1053. Vì thế, sau khi cân nhắc bản thân về giới, tuệ, và kiến thức, bậc sáng trí hoặc là nên cai quản hội chúng, hoặc là nên xuất gia, chỉ một mình.”
7. Vậy thì giới hạnh lẫn đa văn,
Tri kiến học hành, luyện bản thân,
Như thể vị hiền nhân độc trú,
Hoặc lo bảo vệ đám thân bằng.
1054. Dvāsattati gotama puññakammā vasavattino jātijaraṃ atītā, ayamantimā vedagū brahmapatti asmābhijappanti janā anekā.
1054. “Thưa ngài Gotama, chúng tôi là bảy mươi hai người có nghiệp phước thiện, có khả năng vận dụng quyền lực, đã vượt khỏi sanh và già. Đây là trạng thái đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc, là sự đạt đến bản thể cao thượng tối hậu. Những người cầu khẩn chúng tôi không phải là ít.”
1. Chúng tôi tất cả bảy mươi hai,
Chân chánh và cao cả tuyệt vời,
Sanh, lão chúng tôi đà giải thoát,
Cõi này là trí tuệ nhà trời,
Không Thiên giới khác cao hơn nữa,
Nhiều kẻ tán đồng quan điểm tôi.
1055. Appaṃ hi etaṃ na hi dīghamāyu yaṃ tvaṃ baka maññasi dīghamāyu, sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ āyuṃ pajānāmi tavāhaṃ brahme.
1055. “Tuổi thọ này thật ngắn ngủi, chẳng có dài lâu, này Baka, còn ngươi lại nghĩ rằng tuổi thọ này là dài lâu. Này Phạm Thiên, Ta biết rõ (số năm) tuổi thọ của ngươi là một trăm ngàn nirabbudā.”[1]
[1] 1 nirabbudā là một con số lớn bằng 10 triệu lũy thừa 9, tức là con số 1 đi liền với 63 con số không (ND).
2. Ðời ngài ngắn ngủi ở thiên đàng,
Tưởng đời trường thọ quả sai lầm,
Một trăm ngàn kiếp trôi qua mất,
Ta biết đời ngài quá rõ ràng.
1056. Anantadassī bhagavāhamasmi jātijaraṃ sokamupātivatto, kimme purāṇaṃ vatasīlavattaṃ ācikkha me taṃ yamahaṃ vijaññaṃ.
1056. “Thưa đức Thế Tôn, Ngài nói là Ngài có tầm nhìn không giới hạn, và đã vượt thoát khỏi sanh, già, và sầu muộn. Vậy thì việc thực hành về giới và phận sự của tôi trong quá khứ là gì? Xin ngài hãy giải thích cho tôi để tôi có thể hiểu được điều ấy.”
3. Thế Tôn, trí tuệ tử vô cùng,
Sanh, lão, sầu nằm ở dưới chân:
Xưa đã tạo nên bao thiện nghiệp,
Thế Tôn cho đệ tử hay chăng?
1057. Yaṃ tvaṃ apāyesi bahū manusse pipāsite ghammani samparete, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.
1057. “Việc ngươi đã cho nước uống đến nhiều người bị khát, bị vật vã bởi sức nóng. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.
4. Xưa lấy nước ban phát những người
Lúc đang cơn khát sắp tàn hơi,
Dưới trời hạn hán như thiêu đốt,
Thiện nghiệp ngài qua đã mấy đời,
Ta biết là ta đều nhớ rõ,
Như vừa tỉnh giấc mộng mà thôi.
1058. Yaṃ eṇikūlasmiṃ janaṃ gahītaṃ amocayī gayhakanīyamānaṃ, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.
1058. Việc ở bờ sông Eṇī, ngươi đã giải thoát dân chúng bị bắt giữ, trong khi những người bị cầm tù đang được dẫn đi. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.
5. Sông E-ni, thuở nọ bên bờ,
Ngài thả nhiều người được tự do,
Trong lúc bị giam cầm chặt chẽ,
Việc lành ngài tạo dẫu xa xưa,
Song ta biết rõ ta còn nhớ
Như thể mới vừa tỉnh giấc mơ.
1059. Gaṅgāya sotasmiṃ gahītanāvaṃ luddena nāgena manussakappā, amocayi tvaṃ balasā pasayha taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.
1059. Ở dòng sông Gaṅgā, ngươi đã giải thoát chiếc thuyền bị bắt giữ bởi con rồng dữ tợn, có ý định giết hại loài người, sau khi đã chế ngự nó bằng sức mạnh. Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.
6. Ngày xưa trên bến nước sông Hằng,
Ngài cứu thuyền người nọ thoát thân,
Khi bị ác xà kia chụp lấy
Vì thèm thịt sống, khỏi tai ương,
Việc lành ngài tạo dầu xa lắc,
Ta nhớ rõ như tỉnh giấc nồng.
1060. Kappo ca te baddhacaro ahosiṃ sambuddhimantaṃ vatinaṃ amaññaṃ, taṃ te purāṇaṃ vatasīlavattaṃ suttappabuddhova anussarāmi.
1060. Và ta đã là Kappa, người học trò hầu cận của ngươi. Ngươi đã nghĩ về ta rằng: ‘Người này có đầy đủ về sự hiểu biết và chu toàn về phận sự.’ Ta nhớ lại việc thực hành về giới và phận sự ấy của ngươi trong quá khứ, tựa như vừa mới thức dậy sau giấc ngủ.”
7. Ta chính Kap-pa, đệ tử ngài,
Trí đức ngài, ta biết rõ mười,
Thiện nghiệp ngài làm, ta nhớ kỹ.
Như là mới tỉnh giấc mơ thôi.
10. Bakabrahmajātakaṃ – Bổn sanh Phạm Thiên Baka
1061. Addhā pajānāsi mametamāyuṃ aññampi jānāsi tathāhi buddho, tathāhi tāyaṃ jalitānubhāvo obhāsayaṃ tiṭṭhati brahmalokan ”ti.
1061. “Đương nhiên, Ngài biết rõ về tuổi thọ này của tôi, Ngài cũng biết về điều khác nữa, bởi vì, như thế là đức Phật, bởi vì, như thế là năng lực chói sáng này của Ngài, nó đang chiếu sáng và tồn tại ở thế giới Phạm Thiên.”
8. Thế Tôn biết mọi kiếp xưa xa,
Tuệ giác toàn tri quả Phật-đà,
Uy lực hào quang vinh hiển thực,
Sáng ngời khắp cõi Phạm thiên ta.
Kukkuvaggo paṭhamo.
*****
Phẩm Kukku là thứ nhất.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Varakaṇṇika cāpavaro sutano athagijjha sarohita macchavaro, puna paṇṇakasenakayācanako athaverī sabrahma bakena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Cái nóc nhà cao quý, câu chuyện cây cung, này thanh niên Sutanu, rồi chim kên kên, với chuyện con cá hồi, thêm nữa thanh gươm xứ Dasaṇṇa, vị Senaka, kẻ cầu xin, rồi kẻ thù, với Phạm Thiên Baka, là mười.
–ooOoo–
▪ 2. GANDHĀRAVAGGO
▪ 2. PHẨM GANDHĀRA
1062. Hitvā gāmasahassāni paripuṇṇāni soḷasa, koṭṭhāgārāni phītāni sannidhiṃdāni kubbasi.
1062. “Sau khi từ bỏ mười sáu ngàn ngôi làng hoàn chỉnh và các nhà kho tràn đầy, giờ đây ông lại thực hiện việc tích trữ.”
1. Phố xá, thôn trang mười sáu ngàn,
Ông từ bỏ hết mọi giàu sang,
Kho tàng của cải nhiều vô tận,
Nay tích trữ gì đấy phải chăng?
1063. Hitvā gandhāravisayaṃ pahūtadhanadhāniyaṃ, pasāsanito nikkhanto idhadāni pasāsasi.
1063. “Sau khi từ bỏ khu vực Gandhāra giàu có với tài sản dồi dào, trong khi lìa khỏi sự giáo huấn, tại sao ở đây, lúc này, ngài lại giáo huấn?”
2. Ngài bỏ Gan-dha, mọi phố phường,
Biết bao châu báu ở kho tàng,
Không còn ban lệnh cho ai nữa,
Nay lại truyền tôi lệnh ấy chăng?
1064. Dhammaṃ bhaṇāmi vedeha adhammo me na ruccati, dhammaṃ me bhaṇamānassa na pāpamupalippati.
1064. “Này Vedeha, ta nói đúng pháp, không đúng pháp không được ta thích thú. Trong khi ta nói đúng pháp, tội lỗi không vấy bẩn đến ta.”
3. Chính vì chân chánh, ta khuyên răn,
Vì ghét những gì chẳng chánh chân,
Khi nói cho ông điều chánh hạnh,
Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.
1065. Ye kenaci vaṇṇeṇa paro labhati ruppanaṃ, mahatthiyampi ce vācaṃ na taṃ bhāseyya paṇḍito.
1065. “Với bất cứ lời nói nào khiến người khác nhận lãnh sự thương tổn, bậc sáng suốt không nên nói lời ấy, dầu cho nó có lợi ích lớn.”
4. Bất cứ lời nào, nếu nói ra,
Sẽ gây thương tổn đến người ta,
Trí nhân không nói ra lời ấy,
Cho dẫu tạo nên quá lớn mà!
1066. Kāmaṃ ruppatu vā mā vā bhusaṃ vā vikirīyatu, dhamma me bhaṇamānassa na pāpamupalippati.
1066. “Rất có thể người nghe bị bực bội hoặc không bị bực bội, tựa như vỏ trấu được bắn ra tung tóe. Trong khi ta nói đúng pháp, tội lỗi không vấy bẩn đến ta.”
5. Người nghe ta rắc trấu hay không,
Hay dẫu người kia bị tổn thương,
Khi nói ra điều gì chánh hạnh,
Lỗi lầm ta chẳng phạm vào thân.
1067. No ce assa sakā buddhi vinayo vā susikkhito, vane andhamahisova careyya bahuko jano.
1067. “Nếu không có sự hiểu biết của bản thân, hoặc luật lệ không được học tập kỹ lưỡng, nhiều người sẽ thực hành tựa như con trâu bị mù mò mẫm ở trong khu rừng.
6. Nếu trí đức không được luyện rèn
Trong đời sống để mãi tăng thêm,
Nhiều người phiêu bạt chân buông thả,
Như thể trâu mù cứ bước lên.
1. Gandhārajātakaṃ – Bổn sanh Gandhāra
1068. Yasmā ca panidhekacce ācāramhi susikkhitā, tasmā vinītavinayā caranti susamāhitā ”ti.
1068. Và ngược lại, bởi vì một số người ở đây được học tập kỹ lưỡng về hạnh kiểm, vì thế, với luật lệ đã được huấn luyện, họ thực hành, có tâm khéo được định tĩnh.”
7. Song các trí nhân khéo luyện rèn
Ðể cho thiện hạnh mãi tăng thêm,
Chính nhờ đạo hạnh này thuần thục
Nên các tha nhân bước tiếp liền.
1069. Attānaṃ saṅkamaṃ katvā yo sotthiṃ samatārayi, kiṃ tvaṃ tesaṃ kimo tuyhaṃ honti ete mahākapi.
1069. “Này khỉ chúa, ngài đã lấy bản thân làm thành cầu nối và giúp cho các con khỉ đến được sự an toàn. Ngài là gì của chúng? Chúng là gì của ngài?”
1. Chính thân ngài đã bắt ngang cầu khỉ
Cho cả đàn trốn thoát được bình an,
Này khỉ kia, ngài với chúng họ hàng,
Hay bọn chúng là gì ngài đó vậy?
1070. Rājāhaṃ issaro tesaṃ yūthassa parihārako, tesaṃ sokaparetānaṃ bhītānaṃ te arindama.
1070. “Thưa đấng thuần hóa kẻ thù, thần là vua, là chúa tể của chúng, là người bảo vệ bầy khỉ, khi bầy khỉ bị ưu phiền vì sầu muộn và khiếp sợ đối với bệ hạ.
2. Tâu Ðại vương, tôi trông nom bọn ấy,
Là Hầu vương, tôi làm chủ cả đàn,
Khi bọn kia đầy rẫy nỗi kinh hoàng
Vì các vị, lòng lo buồn đau đớn.
1071. Ullaṅghayitvā attānaṃ vissaṭṭhadhanuno sataṃ, tato aparapādesu daḷhaṃ baddhaṃ latāguṇaṃ.
1071. Khi bản thân đã buộc chặt sợi dây leo, rồi từ đó, ở những bước chân cuối cùng, thần đã nhảy xa tầm một trăm cây cung được duỗi thẳng.
3. Tôi nhảy qua một trăm tầm cung lớn
Ðược trải dài trên vị trí nằm ngang,
Rồi khi tôi đã buộc khúc tre non
Thật vững chắc ở quanh sườn tôi đó,
1072. Chinnabbhamiva vātena nunno rukkhaṃ upāgamiṃ, sohaṃ appabhavaṃ tassa sākhaṃ hatthehi aggahiṃ.
1072. Lao ra tựa như làn gió xé rách bầu không trung, thần đã tiến đến gần cây xoài. Trong lúc không với tới được cây xoài, thần đây đã dùng những bàn tay nắm lấy cành của cây ấy.
4. Muốn đến cây như vầng mây bão tố
Ðược cuồng phong thổi bạt cực kỳ nhanh,
Song mất đà, tôi chỉ đến đầu cành,
Cầm lấy nó, bàn tay tôi thật vững.
1073. Taṃ maṃ viyāyataṃ santaṃ sākhāya ca latāya ca, samanukkamantā pādehi sotthiṃ sākhāmigā gatā.
1073. Trong khi thần đây được kéo thẳng ra ở giữa cành cây và sợi dây leo, các con khỉ đã đặt các bàn chân lên rồi lần lượt bước qua, và đã đi đến sự an toàn.
5. Khi tôi nằm trên cây treo lơ lửng
Buộc chặt vào cành với khúc tre non,
Bầy khỉ kia đã bước cả lưng còm,
Giờ đây chúng được an toàn thoát nạn.
1074. Taṃ maṃ na tapate baddho vadho me na tapessati, sukhamāharitaṃ tesaṃ yesaṃ rajjamakārayiṃ.
1074. Việc bị trói buộc không làm cho thần đây bực bội, sự chết sẽ không làm thần nóng nảy, bởi vì thần đã thể hiện quyền cai trị đến những ai thì đã đem lại sự an lạc đến cho họ.
6. Tôi không sợ nỗi đau vì thiệt mạng,
Dẫu giam cầm tôi cũng chẳng đau buồn.
Khi bình an hạnh phúc với cả đàn,
Xưa bọn chúng, tôi đã từng cai trị.
2. Mahākapijātakaṃ – Bổn sanh Con Khỉ Chúa
1075. Esā te upamā rāja atthasandassanī katā, raññā raṭṭhassa yoggassa balassa nigamassa ca, sabbesaṃ sukhametthabbaṃ khattiyena pajānatā ”ti.
1075. Tâu bệ hạ, tâu bậc nhìn thấy sự lợi ích, các việc ấy là tương tự các việc đã được làm bởi bệ hạ, bởi một vị vua đối với vương quốc, đối với trách nhiệm, đối với quân đội, và đối với phố thị. Vị Sát-đế -lỵ đầy đủ trí tuệ nên tìm tòi sự hạnh phúc cho tất cả (thần dân của mình).”
7. Một ví dụ dành cho ngài, Ðại đế,
Nếu ngài mong học Ðạo lý Chánh chân:
Niềm an vui hạnh phúc của toàn dân,
Cùng quân đội, và kinh thành, chiến mã,
Ðối với ngài đều thiết thân tất cả,
Nếu ngài mong trị nước thật an bình.
1076. Ambāhamaddaṃ vanamantarasmiṃ nīlobhāsaṃ phalinaṃ saṃvirūḷhaṃ, samaddasaṃ phalahetū vibhaggaṃ taṃ disvā bhikkhācariyaṃ carāmi.
1076. “Tôi đã nhìn thấy ở giữa khu rừng một cây xoài đã hoàn toàn phát triển, trĩu quả, có ánh sáng màu lục sẫm. Tôi đã nhìn thấy cây xoài bị tan tành vì nguyên nhân trổ quả. Sau khi nhìn thấy việc ấy, tôi thực hành hạnh khất thực.”
1. Cây xoài ta thấy ở rừng xanh,
Ðen rậm, cao to, trái trĩu cành,
Vì trái, con người đà phá gãy,
Lòng ta chính thế muốn cầm bình.
1077. Selaṃ sumaṭṭaṃ naravīraniṭṭhitaṃ nārī yugandhārayi appasaddaṃ, dutiyañca āgamma ahosi saddo taṃ disvā bhikkhācariyaṃ carāmi.
1077. “Chiếc vòng ngọc khéo mài giũa đã được hoàn thành bởi nghệ nhân. Người phụ nữ đã đeo vào một cặp (mỗi tay một chiếc) không gây tiếng động. Và sau khi mang vào cặp thứ hai, đã có tiếng động. Sau khi nhìn thấy việc ấy, tôi thực hành hạnh khất thực.”
2. Vòng sáng nhờ tay thợ nổi danh,
Người đeo một chiếc chẳng âm thanh,
Chiếc kia va chạm gây huyên náo,
Vì thế lòng ta muốn chiếc bình.
1078. Dijā dijaṃ kuṇapamāharantaṃ ekaṃ samānaṃ bahukā samecca, āhārahetu paripātayiṃsu taṃ disvā bhikkhācariyaṃ carāmi.
1078. “Trong khi con chim đang tha đi miếng thịt, nhiều con chim đã tụ tập lại và tấn công vì nguyên nhân vật thực. Sau khi nhìn thấy việc ấy, tôi thực hành hạnh khất thực.”
3. Ðàn chim xâu xé vật cô thân,
Ðơn độc mang theo miếng thịt ăn,
Chim bị đánh đau vì miếng thịt,
Lòng ta chính thế muốn ly trần.
1079. Usabhāhamaddaṃ yūthassa majjhe calakkakuṃ vaṇṇabalūpapannaṃ, tamaddasaṃ kāmahetū vitunnaṃ taṃ disvā bhikkhācariyaṃ carāmi.
1079. “Tôi đã nhìn thấy ở giữa bầy bò một con bò mộng có bướu lắc lư, được thành tựu về vóc dáng và sức mạnh. Tôi đã nhìn thấy nó bị húc ngã vì nguyên nhân dục vọng. Sau khi nhìn thấy việc ấy, tôi thực hành hạnh khất thực.”
4. Bò đực kiêu căng giữa đám bò
Vươn lưng, khỏe đẹp, bước chân ra,
Chết vì lòng dục: sườn đâm mạnh,
Do vậy lòng ta muốn xuất gia.
1080. Karaṇḍu nāma kaliṅgānaṃ gandhārānañca naggaji, nimirājā videhānaṃ pañcālānañca dummukho, ete raṭṭhāni hitvāna pabbajiṃsu akiñcanā.
1080. “Vị tên Karaṇḍu ở xứ sở Kaliṅga, vị Naggaji ở xứ sở Gandhāra, vua Nimi ở xứ sở Videha, và vị Dummukha ở xứ sở Pañcāla, các vị này sau khi từ bỏ các vương quốc đã xuất gia, không có sở hữu gì.
5. Vua Ka-ran-du xứ Ka-lin-ga,
Vua Nag-gà-ji xứ Gan-dhà-ra,
Vua Dum-mu-kha xứ Pan-cà-la,
Ðại đế Ni-mi xứ Vi-de-ha,
Tất cả các ngài rời bảo tọa,
Sống không lầm lỗi, giã từ nhà.
1081. Sabbeva me devasamā samāgatā aggi yathā pajjalito tathevime, ahampi ekova carissāmi bhaggavi hitvāna kāmāni yathodhikāni.
1081. Toàn bộ tất cả các vị này, được sánh bằng chư Thiên, đã tụ hội lại. Ngọn lửa chiếu sáng như thế nào thì các vị này là tương tự y như thế ấy. Này nàng Bhaggavī, ta cũng sẽ sống chỉ một mình, sau khi từ bỏ các dục tùy theo mức giới hạn (của chúng).
6. Các ngài trông dáng tựa Thiên thần,
Chẳng khác nào vầng lửa sáng bừng,
Ta cũng muốn ra đi tiến bước
Xa lìa mọi vật thế nhân mong.
1082. Ayameva kālo na hi añño atthi anusāsitā me na bhaveyya pacchā, ahampi ekāva carissāmi bhaggava sakuṇīva muttā purisassa hatthā.
1082. “Chính là thời điểm này, bởi vì không có thời điểm nào khác. Người chỉ dạy cho thiếp không có thể có được về sau này. Này chàng Bhaggava, thiếp cũng sẽ sống chỉ một mình, tựa như con chim được thoát khỏi bàn tay của loài người.
7. Thời cơ thiếp biết chính là đây,
Chẳng có Ðạo Sư hơn các ngài,
Chàng hỡi, thiếp mong xuất thế nữa,
Như con chim được thoát bàn tay.
3. Kumbhakārajātakaṃ – Bổn sanh Người Làm Đồ Gốm
1083. Āmaṃ pakkañca jānanti atho loṇaṃ aloṇikaṃ, tamahaṃ disvā pabbajiṃ careva tvaṃ carāmahan ”ti.
1083. “Các con biết được cơm còn sống và đã chín, rồi mặn hoặc thiếu muối. Sau khi nhìn thấy điều ấy, ta đã xuất gia. Nàng hãy thực hành hạnh khất thực, ta cũng sẽ thực hành.”
8. Thấy con biết mặn, nhạt khi ăn,
Cơm sống, chín, ta đã bước chân,
Nay để yên ta, người một nẻo,
Ta cùng theo Giáo pháp chân nhân.
1084. Ahañce daḷhadhammāya vahanti nābhirādhayiṃ, nudanti urasi sallaṃ yuddhe vikkantacārinī.
1084. “Nếu tôi, với hành vi năng nổ ở chiến trường, trong lúc vận chuyển, trong lúc gạt đi mũi tên ở lồng ngực, đã không làm hài lòng đức vua Daḷhadhamma (thì không còn ai khác có thể làm được điều ấy).
1. Chính con khuân vác tự ngày xanh,
Như vậy đức vua đã thỏa tình?
Vũ khí con mang đầy trước ngực
Xông pha chiến trận, bước hùng anh.
1085. Naha nūna rājā jānāti mama vikkamaporisaṃ, saṅgāme sukataṃ tāni dūtavippahitāni ca.
1085. Phải chăng đức vua không nhận biết sự nỗ lực không kém loài người đã được tôi thực hiện tốt đẹp, và những lần được phái đi đưa tin ấy của tôi ở chiến trường?
2. Con đã lập nên lắm chiến công,
Ðức vua giờ hẳn có quên chăng
Bao lần phục vụ nhiều công trạng
Như đã định cho các sứ thần?
1086. Sā nūnāhaṃ marissāmi abandhu aparāyinī, tadāhi kumbhakārassa dinnā chakaṇahārikā.
1086. Phải chăng tôi đây sẽ phải chết không thân quyến, không nơi nương tựa? Bởi vì, giờ đây tôi đã được giao cho người thợ gốm để làm thú vận chuyển phân.”
3. Nay con cô độc, quá bơ vơ,
Chắc chắn mạng chung đã đến giờ,
Phục vụ cho nhà người thợ gốm,
Con đành làm vật kéo phân dơ!
1087. Yāvatāsiṃsati poso tāvadeva pavīṇati, atthāpāye jahanti naṃ oṭṭhivyādhiṃva khattiyo.
1087. “Chừng nào con người còn mong mỏi thì chừng ấy họ còn thân cận. Con người ruồng bỏ kẻ ấy khi không còn lợi ích, tựa như vị Sát-đế-lỵ bỏ lại con lạc đà bị bệnh.
4. Do ích kỷ tham vọng cá nhân,
Người ta ban phát mọi vinh quang,
Như ngài đối với con voi nọ,
Ném bỏ như nô lệ yếu tàn.
1088. Yo pubbe katakalyāṇo katattho nāvabujjhati, atthā tassa palujjanti ye honti abhipatthitā.
1088. Người nào trước đây có điều tốt đẹp đã được người khác làm cho mình, có việc lợi ích đã được người khác tạo cho mình, mà không ghi nhớ, thì các điều lợi ích mà người ấy mong cầu sẽ bị tiêu hoại đối với người ấy.
5. Khi người quên hết các huân công.
Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
Mọi việc mà lòng đang dự tính
Ngày sau chắc hẳn phải suy vong.
1089. Yo pubbe katakalyāṇo katattho manubujjhati, atthā tassa pavaḍḍhanti ye honti abhipatthitā.
1089. Người nào trước đây có điều tốt đẹp đã được người khác làm cho mình, có việc lợi ích đã được người khác tạo cho mình, mà luôn ghi nhớ, thì các điều lợi ích đã được người ấy mong cầu sẽ tăng trưởng cho người ấy.
6. Khi người ghi nhớ các công ơn
Thiện sự ngày xưa hưởng trọn phần,
Mọi việc mà lòng đang dự tính
Ngày sau chắc hẳn sẽ thành công.
4. Daḷhadhammajātakaṃ – Bổn sanh Đức Vua Daḷhadhamma.
1090. Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo yāvantettha samāgatā, sabbe kataññuno hotha ciraṃ saggamhi ṭhassathā ”ti.
1090. Thưa các vị đã đến tụ hội ở nơi này, tôi nói với các vị điều ấy. Tất cả các vị hãy là những người biết tri ân, các vị sẽ an trú ở cõi trời thời gian dài.”
7. Ta nói điều chân lý trọn lành,
Cho thần dân tụ tập chung quanh:
Phải luôn ghi nhớ công ơn cũ,
Thiên giới dành phần sống hiển vinh.
1091. Yo maṃ pure paccudeti araññe dūramāyati, so na dissati mātaṅgo somadatto kuhiṃ gato.
1091. “Con voi Somadatta trước đây thường đi sâu vào trong rừng và tiếp đón ta, giờ nó không được nhìn thấy. Somadatta đã đi đâu?
1. Bước sâu vào tận trong rừng,
Nó thường vẫn đến đón mừng ta ngay,
Nhưng sao chẳng thấy hôm nay,
Voi con đi lạc chẳng hay lối về?
1092. Ayaṃ vā so mato seti allapiṅkaṃva chijjito, bhūmyā nipatito seti amarā vata kuñjaro.
1092. Nó đây đã bị chết, nằm dài, tựa như chồi non bị bẻ gãy. Nó gục ngã nằm dài ở trên mặt đất. Con voi quả thật đã chết rồi!”
2. Chính voi vừa chết nằm kia
Như búp măng bị cắt lìa nát thân,
Voi nằm dưới đất ngã lăn,
Con voi ta đã lìa trần, than ôi!
1093. Anagāriyupetassa vippamuttassa cetaso, samaṇassa na taṃ sādhu yaṃ petamanusocasi.
1093. “Việc ông sầu muộn về kẻ đã chết là không tốt đẹp đối với vị Sa-môn đã đạt đến cuộc sống không nhà, có tâm tư đã được giải thoát.”
3. Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư,
Thoát dây tục lụy, xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!
1094. Saṃvāsena have sakka manussassa migassa vā, hadaye jāyatī pemaṃ taṃ na sakkā asocituṃ.
1094. “Thưa Thiên Chủ Sakka, đương nhiên do việc sống chung, con người hay loài thú có sự yêu thương sanh khởi ở trái tim; không thể không sầu muộn về vật đã được yêu thương ấy.”
4. Nếu người bầu bạn thú hiền,
Thưa ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu!
1095. Mataṃ marissaṃ rodanti ye rudanti lapanti ca, tasmā tvaṃ isi mā rodi roditaṃ moghamāhu santo.
1095. “Những ai thường khóc lóc và than vãn, chúng khóc lóc kẻ đã chết, rồi khóc lóc kẻ sẽ chết; vì thế, này ẩn sĩ, ông chớ khóc lóc. Các bậc thiện nhân đã nói khóc lóc là vô ích.
5. Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương,
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
1096. Kanditena have brahme mato peto samuṭṭhahe, sabbe saṅgamma rodāma aññamaññassa ñātake.
1096. Thật vậy, này Bà-la-môn, nếu người đã chết, đã ra đi, có thể sống lại nhờ vào sự than khóc, thì tất cả chúng ta hãy tụ tập lại và khóc lóc cho các thân quyến, người này cho người kia qua lại lẫn nhau.”
6. Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất đời!
1097. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
1097. “Quả thật, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ngài có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
7. Ví như ngọn lửa sáng ngời
Ðổ thêm bỏ sữa cháy hoài thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
1098. Abbahī vata me sallaṃ sokaṃ hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.
1098. Khi ta bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về con trai của ta, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của ta.
8. Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng,
Ngài đà chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
5. Somadattajātakaṃ – Bổn sanh Con Voi Somadatta
1099. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna vāsavā ”ti.
1099. Ta đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Thưa Thiên Chủ, sau khi lắng nghe ngài, ta không sầu muộn, không khóc lóc.”
9. Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi
Lắng nghe Thiên chủ nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.
1100. Kāḷāni kesāni pure ahesuṃ jātāni sīsamhi yathāpadese, tānajja setāni susīma disvā dhammaṃ cara brahmacariyassa kālo.
1100. “Các sợi tóc trước kia đã là màu đen, chúng mọc lên tại vị trí phù hợp ở trên đầu. Giờ đây, sau khi nhìn thấy chúng bạc trắng, này Susīma, nay là thời điểm của Phạm hạnh, ngươi hãy thực hành giáo pháp.”
1. Tóc ta đen nhánh tự ngày xưa
Vẫn mọc quanh vần trán của ta,
Bạc trắng giờ đây, lưu ý nhé:
Ðến thời tu tập giã từ nhà.
1101. Mameva deva palitaṃ na tuyhaṃ mameva sīsaṃ mama uttamaṅgaṃ, ‘atthaṃ karissan ’ti musā abhāṇiṃ ekāparādhaṃ khama rājaseṭṭha.
1101. “Tâu bệ hạ, sợi tóc bạc là của thiếp đây, không phải của ngài, từ đầu của thiếp đây, từ phần đỉnh đầu của thiếp. Thiếp đã nói lời dối trá (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ làm điều lợi ích.’
Tâu chúa thượng, xin bệ hạ hãy tha thứ lỗi lầm cho thiếp một lần này.
2. Tóc bạc thiếp đây, chẳng phải chàng,
Từ trên đầu thiếp mới đưa sang,
Vì chàng, thiếp nói điều hư vọng,
Xin lượng thứ cho lỗi thiếp làm.
1102. Daharo tuvaṃ dassanīyosi rāja paṭhamuggato hohi yathā kaḷīro, rajjañca kārehi mamaṃ ca passa mā kālikaṃ anudhāvī janinda.
1102. Tâu bệ hạ, ngài trẻ tuổi, (đẹp dáng) đáng nhìn, ngài trỗi dậy ở lứa tuổi thanh niên, giống như chồi non, ngài hãy cai quản vương quốc và hãy ngắm nhìn thiếp. Tâu vị chúa của loài người, ngài chớ đeo đuổi việc viễn vông.”
3. Trông chàng tươi đẹp, dáng thanh tân
Như một cây non trẻ giữa xuân,
Hãy trị nước nhà, cười với thiếp,
Ðừng tìm việc của tuổi thu đông!
1103. Passāmi vohaṃ dahariṃ kumāriṃ sāmaṭṭhapassaṃ sutanuṃ sumajjhaṃ, kāḷāpavāḷāva pavellamānā palobhayantīva naresu gacchati.
1103. “Trẫm nhìn ngắm người thiếu nữ tuổi thanh xuân, có vóc dáng hài hòa, với thân hình đẹp, với vòng eo xinh. Tựa như mầm dây leo đang chuyển động, nàng bước đi, tựa như đang làm say đắm các nam nhân.
4. Ta thường trông thiếu nữ xuân thì,
Uyển chuyển như cành lả lướt kia,
Kiêu mạn vì hình dung diễm lệ,
Mọi người say ngắm bước chân đi.
1104. Tamena passāmi parena nāriṃ āsītikaṃ nāvutikaṃva jaccā, daṇḍaṃ gahetvāna pavedhamānaṃ gopāṇasībhoggasamaṃ carantiṃ.
1104. Trẫm nhìn ngắm nàng ấy vào thời điểm khác, vào độ tuổi tám mươi, hoặc chín mươi, nàng cầm lấy cây gậy, run lẩy bẩy, lưng còng xuống giống như sừng bò, đang bước đi.
5. Cũng chính nàng kia, ta ngắm trông
(Trải qua đã tám, chín mươi năm)
Run run chân bước, tay cầm gậy,
Thân thể còng như ngọn liễu rung.
1105. Sohaṃ tamevānuvicintayanto eko sayāmi sayanassa majjhe, ahampi evaṃ iti pekkhamāno na gehe rame brahmacariyassa kālo.
1105. Trẫm đây, trong lúc suy gẫm về chính điều ấy, một mình, trẫm nằm ở giữa chiếc giường, cũng như vậy, trong lúc trẫm xem xét như thếtrẫm không thích thú ở gia đình; nay là thời điểm của Phạm hạnh.
6. Những ý tưởng này ta xét luôn,
Tư duy vẫn đến giữa đêm đơn,
Ðời người thế tục ta không chuộng,
Ðúng lúc tu hành phải bước chân.
6. Susīmajātakaṃ – Bổn sanh Vua Susīma
1106. Rajjuvālambanī cesā yā gehe vasato rati, etampi chetvāna vajanti dhīrā, anapekkhino kāmasukhaṃ pahāyā ”ti.
1106. Sự vui thích của người sống ở gia đình có sự lòng thòng tựa như sợi dây thừng. Sau khi cắt đứt luôn cả việc này, các bậc sáng trí ra đi, không có mong cầu, sau khi đã dứt bỏ khoái lạc của các dục.”
7. Dục lạc trong đời sống thế nhân
Là nơi hèn yếu để nương thân,
Trí nhân cắt đứt, theo đường khác,
Bỏ dục lạc đầy đủ lực hùng.
1107. Ahaṃ dasasataṃ vyāmaṃ uragamādāya māgato, tañca mañca mahākāyaṃ dhārayaṃ nappavedhasi.
1107. “Ta đã đi đến mang theo con rắn dài một ngàn sải tay. Trong khi nâng đỡ con rắn ấy và ta có thân hình to lớn, ông không run rẩy.
1. Ta mang thân xác của xà vương
Cùng với thân ta lớn dị thường,
Thân rắn kia dài ngàn trượng chẵn,
Song cây không chuyển động kinh hoàng.
1108. Atha imaṃ khuddakaṃ pakkhiṃ appamaṃsataraṃ mayā, dhārayaṃ vyādhase bhīto kamatthaṃ koṭisimbali.
1108. Giờ đây, trong khi nâng đỡ con chim nhỏ có ít thịt hơn cùng với ta, ông lại rung động, khiếp sợ, này thần cây bông vải, vì lý do gì?”
2. Nay mang chim nhỏ bé ti ti
So với ta đây chẳng sá chi,
Cây lại run hoài vì sợ hãi,
Hỡi cây bông vải, lý do gì?
1109. Maṃsabhakkho tuvaṃ rāja balabhakkho ayaṃ dijo, ayaṃ nigrodhabījāni pilakkhadumbarāni ca, assatthāni ca bhakkhetvā khandhe me odahissati.
1109. “Thưa điểu vương, ngài là loài ăn thịt, con chim này là loài ăn trái cây. Con chim này, sau khi ăn các hạt giống của cây đa, các chùm trái sung, và các hạt của cây vả, nó sẽ đại tiện xuống thân xác của tôi.
3. Thịt mỡ ngài xơi, hỡi Ðiểu vương,
Trái cây là thức của chim muông,
Hạt đa, sung, với bồ-đề nữa,
Nếu mọc, toàn thân ta chết luôn!
1110. Te rukkhā saṃvirūhanti mama passe nivātajā, te pariyonandhissanti arukkhaṃ maṃ karissare.
1110. Những cây ấy tự nảy mầm, được sanh lên an toàn ở bên sườn của tôi. Chúng sẽ bao trùm lên và sẽ làm cho tôi không còn là cây nữa.
4. Hạt ấy về sau sẽ mọc cây,
Rồi che phủ cả hết thân này,
Ta không còn có cây nào nữa
Vì bị chúng che kín phủ đầy.
1111. Santi aññepi rukkhāse mūlino khandhino dumā, iminā sakuṇajātena bījamāharitvā hatā.
1111. Cũng có những cây cối khác là những loài thảo mộc có rễ và thân gỗ bị hủy hoại bởi loài cây đã được sanh lên do con chim mang lại hạt giống.
5. Một khi cây đã lớn lên nhanh,
Rễ mạnh quanh thân, rậm rạp cành,
Chứng tỏ hạt do chim tích trữ
Mang mầm hủy hoại đến cho mình.
1112. Ajjhārūḷhābhivaḍḍhanti brahantampi vanaspatiṃ, tasmā rāja pavedhāmi sampassaṃ nāgataṃ bhayaṃ.
1112. Những cây ấy vươn lên nhanh, phát triển vượt trội luôn cả cây rừng to lớn; vì thế, thưa điểu vương, tôi run rẩy trong khi nhìn thấy nỗi nguy hiểm ở tương lai.”
6. Loại cây mọc bám sẽ chôn thây
Ngay cả cây rừng vĩ đại này,
Vì vậy, Ðiểu vương, ta rúng động
Khi ta lo sợ thấy như vầy.
7. Koṭisimbalijātakaṃ – Bổn sanh Thần Cây Bông Vải
1113. Saṅkayye saṅkitabbāni rakkheyyānāgataṃ bhayaṃ, anāgatabhayā dhīro ubho loke avekkhatī ”ti.
1113. “Nên lo ngại về những điều đáng lo ngại, nên phòng ngừa nỗi nguy hiểm ở tương lai. Vì sự nguy hiểm trong tương lai, bậc sáng trí xem xét cả hai đời (đời này và đời sau).”
7. Phải kinh hãi việc đáng kinh hoàng,
Hiểm họa đến thân phải hộ phòng,
Bậc trí lặng nhìn hai thế giới,
Nếu gây kinh hãi, phải rời chân.
1114. Rājā apucchi vidhuraṃ dhammakāmo yudhiṭṭhilo, api brāhmaṇa jānāsi ko eko bahu socati.
1114. “Vua Yudhiṭṭhila, với sự yêu mến công lý, đã hỏi Vidhura rằng: ‘Này Bà-la-môn, ông có biết người nào một mình mà sầu muộn về nhiều việc?’”
1. Một hôm minh đế Yu-dhi-la,
Hỏi bậc Trí nhân Vi-dhù-ra:
“Hiền hữu Bà-la-môn có biết
Tim ai sầu thống thiết hơn ta?”
1115. Brāhmaṇo ajayūthena bahūtedho vane vasaṃ, dhūmaṃ akāsi vāseṭṭho rattindivamatandito.
1115. “Vị Bà-la-môn Vāseṭṭha có nhiều củi gỗ, trong khi sống ở trong rừng với bầy dê, đã thực hiện việc xông khói đêm ngày, không biếng nhác.
2. Bà-la-môn có một bầy dê,
Dòng họ Va-si sang trọng kia,
Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
Sống đời an lạc chốn sơn khê.
1116. Tassa taṃ dhūmagandhena sarabhā makasadditā, vassāvāsaṃ upagañchuṃ dhūmakārissa santike.
1116. Do mùi hương khói ấy của vị Bà-la-môn, những con nai rừng, bị quấy rầy bởi lũ muỗi, đã đi đến cư trú mùa mưa kề cận khu trại của Bà-la-môn Dhūmakārī.
3. Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
Gần nhà mục tử Dhu-ma-kai.
1117. Sarabhesu manaṃ katvā ajāyo nāvabujjhatha, āgacchantī vajantī vā tassa tā vinassuṃ ajā.
1117. Sau khi quan tâm đến các con nai rừng, Dhūmakārī đã không biết đến các con dê đến hay đi; những con dê ấy của Dhūmakārī đã bị mất mát.
4. Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
Ði lại tự do không bảo hộ,
Cho nên chúng phải bị suy tàn.
1118. Sarabhā ca sarade kāle pahīnamakase vane, pāvisuṃ giriduggāni nadīnaṃ pabhavāni ca.
1118. Và vào mùa thu, khi muỗi ở trong rừng được giảm thiểu, các con nai rừng đã đi vào các khe núi hiểm trở và các suối đầu nguồn của các dòng sông.
5. Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
Nai phải đi tìm bao đỉnh núi,
Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
1119. Sarabhe ca gate disvā ajā ca vibhavaṃ gatā, kiso ca vivaṇṇo āsi paṇḍurogī ca brāhmaṇo.
1119. Sau khi nhìn thấy các con nai đã ra đi và các con dê đã đi đến sự tiêu diệt, vị Bà-la-môn đã trở nên gầy ốm, xuống sắc, và bị bệnh vàng da.
6. Mục tử thấy nai đã bỏ đi,
Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
Da dẻ ngày thêm một tái tê.
8. Dhūmakārijātakaṃ – Bổn sanh Gã Chăn Dê Dhūmakārī.
1120. Evaṃ yo saṃniraṃkatvā āgantuṃ kurute piyaṃ, so eko bahu socati dhūmakārīva brāhmaṇo ”ti.
1120. Như vậy, kẻ nào lơ là đối với người của mình và tỏ ra quý mến khách mới đến, kẻ ấy một mình sầu muộn về nhiều việc, tựa như vị Bà-la-môn Dhūmakārī.”
7. Vậy người nào bỏ mặc thân bằng,
Lại gọi người xa lạ thân thiết
Như lão Dhu-ma-kai mục tử,
Một mình, dòng lệ đắng cay tuôn.
1121. Kodha jāgarataṃ sutto kodha suttesu jāgaro, ko mametaṃ vijānāti ko taṃ paṭibhaṇāti me.
1121. “Ở đây, người nào ngủ giữa những người đang thức? Ở đây, người nào thức giữa những người ngủ? Người nào hiểu câu hỏi ấy của ta? Người nào giải thích câu hỏi ấy cho ta?”
1. Ai thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ?
Ai ngủ khi bao người khác dậy rồi?
Ai là người hiểu câu đố của tôi?
Ai có thể giải đáp tôi điều đó?
1122. Ahaṃ jāgarataṃ sutto ahaṃ suttesu jāgaro, ahametaṃ vijānāmi ahaṃ paṭibhaṇāmi te.
1122. “Tôi ngủ giữa những người đang thức. Tôi thức giữa những người ngủ. Tôi hiểu câu hỏi ấy. Tôi giải thích cho ngài.”
2. Ta thức tỉnh khi nhiều người đang ngủ,
Ta ngủ khi bao người khác dậy rồi,
Ta là người hiểu câu đố của ngài,
Ta có thể giải đáp ngài điều đó.
1123. Kathaṃ jāgarataṃ sutto kathaṃ suttesu jāgaro, kathaṃ etaṃ vijānāsi kathaṃ paṭibhaṇāsi me.
1123. “Làm thế nào ông ngủ giữa những người đang thức? Làm thế nào ông thức giữa những người ngủ? Làm thế nào ông hiểu câu hỏi ấy? Làm thế nào ông giải thích cho ta?”
3. Sao ngài thức khi nhiều người đang ngủ?
Và ngủ khi bao kẻ khác dậy rồi?
Làm sao ngài hiểu câu đố của tôi?
Và giải đáp điều này ngay lập tức?
1124. Ye dhammaṃ nappajānanti saṃyamoti damoti ca, tesu suppamānesu ahaṃ jaggāmi devate.
1124. “Những người nào không nhận biết về giáo pháp, về ‘sự chế ngự’ và ‘sự rèn luyện,’ thưa Thiên nhân, tôi thức khi những người ấy đang ngủ.
4. Có nhiều kẻ vẫn quên rằng giới đức
Nằm ở trong sự tiết dục điều thân,
Vậy bao người đang ngủ giấc mơ màng,
Còn ta thức, hỡi Thần cây cổ thụ.
1125. Yesaṃ rāgo ca doso ca avijjā ca virājitā, tesu jāgaramānesu ahaṃ suttosmi devate.
1125. Đối với những vị nào có sự luyến ái, sân hận, và vô minh đã được dứt trừ, thưa Thiên nhân, tôi là ngủ khi những người ấy đang thức.
5. Tham, sân, si của số người nào đó
Ðã không còn hiện hữu ở trong lòng,
Vậy các người kia đã tỉnh giấc nồng,
Ta còn ngủ, hỡi Thần cây cổ thụ!
1126. Evaṃ jāgarataṃ sutto evaṃ suttesu jāgaro, evametaṃ vijānāmi evaṃ paṭibhaṇāmi te.
1126. Tôi ngủ giữa những người đang thức là như vậy. Tôi thức giữa những người ngủ là như vậy. Tôi hiểu câu hỏi ấy là như vậy. Tôi giải thích cho ngài như vậy.”
6. Vậy ta thức khi nhiều người đang ngủ,
Và ngủ khi bao kẻ khác tỉnh rồi,
Vậy là ta hiểu câu đố của ngài,
Và giải đáp lại lời ngài rồi đó.
9. Jāgarajātakaṃ – Bổn sanh Người Tỉnh Thức.
1127. Sādhu jāgarataṃ sutto sādhu suttesu jāgaro, sādhu metaṃ vijānāsi sādhu paṭibhaṇāsi me ”ti.
1127. “Tốt đẹp thay ông ngủ giữa những người đang thức! Tốt đẹp thay ông thức giữa những người ngủ! Tốt đẹp thay ông hiểu câu hỏi ấy của ta! Tốt đẹp thay ông giải thích cho ta!”
7. Lành thay ngài tỉnh thức khi người ngủ,
Và ngủ khi bao người khác tỉnh rồi!
Lành thay ngài hiểu câu đố của tôi,
Lời giải đáp của ngài bao tốt đẹp!
1128. Na kiratthi anomadassisu pāricariyā buddhesu appikā, sukkhāya aloṇikāya ca passa phalaṃ kummāsapiṇḍiyā.
1128. “Thật vậy, sự phục vụ đến các vị Phật Độc Giác Anomadassī không phải là nhỏ nhoi. Hãy nhìn xem quả báu của phần cháo đặc khô khan không dầu và không muối gia vị.
1. Cúng dường chư Phật quý cao thay,
Người bảo đừng xem rẻ việc này,
Ðem tặng cháo dù không có muối
Cho ta phước báo lớn như vầy.
1129. Hatthigavāssā ca me bahū dhanadhaññaṃ paṭhavī ca kevalā, nāriyo cimā accharūpamā passa phalaṃ kummāsapiṇḍiyā.
1129. Và tôi có được nhiều voi, bò, ngựa, tài sản, lúa gạo, toàn thể trái đất, và những nữ nhân giống như tiên nữ này. Hãy nhìn xem quả báu của phần cháo đặc.”
2. Ngựa, voi cùng với đám trâu bò,
Vàng, bạc, thóc ngô, cả nước nhà,
Ðám mỹ nữ hình dung yểu điệu,
Cúng dường đem quả đến tay ta.
1130. Abhikkhaṇaṃ rājakuñjara gāthā bhāsasi kosalādhipa, pucchāmi taṃ raṭṭhavaḍḍhana bāḷhaṃ pītimano pabhāsasi.
1130. “Tâu đại vương, bậc thầy tổ về thiện pháp, ngài thường xuyên thốt ra các câu thơ. Tâu bậc có sự phát triển về quốc độ, thiếp xin hỏi bệ hạ: Bệ hạ có tâm ý hoan hỷ một cách mãnh liệt, xin bệ hạ hãy giải thích.”
3. Hoàng thượng đầy vinh hiển, chánh chân,
Khúc ca ngài hát đã bao lần,
Trong niềm hoan lạc đầy tâm trí,
Cho thiếp đặc ân biết ngọn nguồn.
1131. Imasmiṃ yeva nagare kule aññatare ahuṃ, parakammakaro āsiṃ bhatako sīlasaṃvuto.
1131. “Trẫm đã được sanh ra trong một gia đình ở ngay tại thành phố này. Trẫm đã là người làm công cho người khác, người làm thuê, và là người gìn giữ giới.
4. Chính tại thành này, kiếp trước đây,
Ở trong hoàn cảnh khác ngày nay,
Ta là tôi tớ cho người khác,
Làm mướn, song đức hạnh thẳng ngay.
1132. Kammāya nikkhamantāhaṃ caturo samaṇe addasaṃ, ācārasīlasampanne sītibhūte anāsave.
1132. Trong khi rời khỏi thành vì công việc, trẫm đã nhìn thấy bốn vị Sa-môn đầy đủ hạnh kiểm và giới luật, có bản thể mát mẻ, không còn lậu hoặc.
5. Một hôm rời tỉnh để làm công,
Bốn Ðạo Sư kia, ta chợt trông
Dáng điệu ly tham và tĩnh lặng,
Thiện toàn trong Giới luật tu thân.
1133. Tesu cittaṃ pasādetvā nisīdetvā paṇṇasanthate, adāsiṃ buddhānaṃ kummāsaṃ pasanno sehi pāṇihi.
1133. Sau khi khởi tâm tịnh tín đối với các vị ấy, trẫm đã thỉnh các vị ngồi xuống ở tấm thảm lá cây. Được tịnh tín, trẫm đã tận tay dâng cháo đặc đến các vị Phật.
6. Tư tưởng ta quy ngưỡng Phật-đà,
Khi chư vị nghỉ dưới cây già,
Chấp tay đảnh lễ, ta đem đến
Thành kính cúng dường món cháo hoa.
1134. Tassa kammassa kusalassa idaṃ me edisaṃ phalaṃ, anubhomi idaṃ rajjaṃ phītaṃ dharaṇimuttamaṃ.
1134. Quả báu của nghiệp thiện ấy đã thành tựu đến trẫm là như thế này. Trẫm đã thọ hưởng vương quốc này, vùng đất hạng nhất, giàu có.”
7. Thiện nghiệp tạo nên phước đức dày,
Quả thành ta gặt được giờ đây:
Vinh hoa phú quý đời vương giả,
Quốc độ do ta cai trị này.
1135. Dada bhuñja ca mā ca pamādo cakkaṃ vattaya kosalādhipa, mā rāja adhammiko ahū dhammaṃ pālaya kosalādhipa.
1135. “Xin bệ hạ hãy bố thí rồi mới ăn, và chớ có xao lãng. Tâu bậc thầy tổ về thiện pháp, xin bệ hạ hãy xoay chuyển bánh xe (công lý). Tâu đức vua, bệ hạ chớ là vị vua bất công. Tâu bậc thầy tổ về thiện pháp, xin bệ hạ hãy hộ trì công lý.”
8. Hãy ăn, khi nhớ cúng dường rồi,
Chuyển bánh xe chân chánh khắp nơi:
Hoàng thượng tránh xa điều bất chánh,
Cầm quyền chân chánh nước non ngài.
1136. Sohaṃ tadeva punappunaṃ vaṭumaṃ ācarissāmi sobhane, ariyācaritaṃ sukosale arahanto me manāpā passituṃ.
1136. “Này ái hậu, trẫm đây sẽ thực hành lập đi lập lại chính con đường ấy, con đường đã được các bậc Thánh nhân thực hành. Này ái nữ xinh đẹp của đức vua xứ Kosala, trẫm có sự hoan hỷ khi nhìn thấy các bậc A-la-hán.”
9. Ta vẫn tạo riêng một lối đường,
Bước theo đạo lộ chánh chân luôn,
Nơi người hiền thiện thường đi đến,
Ðẹp mắt ta nhìn các Thánh nhân.
1137. Devī viyaccharūpamā majjhe nārigaṇassa sobhasi, kiṃ kammamakāsi bhaddakaṃ tenāsi vaṇṇavatī sukosale.
1137. “Hoàng hậu giống như cô tiên nữ, nàng rực rỡ ở giữa đám phụ nữ. Này ái nữ xinh đẹp của đức vua xứ Kosala, nàng đã làm nghiệp gì tốt đẹp, nhờ vậy, nàng có sắc đẹp?”
10. Ái hậu như tiên nữ cõi trời,
Trông nàng rực rỡ vượt bao người,
Vậy nhờ thiện nghiệp nào đưa đến
Phước báo dung quang quá tuyệt vời?
1138. Ambaṭṭhakulassa khattiya dāsyāhaṃ parapessiyā ahuṃ, saññatā dhammajīvinī sīlavatī ca apāpadassanā.
1138. “Tâu vị Sát-đế-lỵ, thiếp đã là nữ nô lệ của gia tộc Ambaṭṭha, là nữ tỳ hầu hạ người khác. Thiếp đã tự kiềm chế (thân khẩu), có sự nuôi mạng đúng pháp, là người nữ có giới hạnh, và có dáng vẻ tốt đẹp.
11. Thiếp vốn nô tỳ một quý nương
Ở hoàng cung của Am-ba-vương,
Thiếp chuyên tâm thực hành khiêm tốn,
Ðức hạnh và tu tập thiện ngôn.
10. Kummāsapiṇḍajātakaṃ – Bổn sanh Phần Cháo Đặc
1139. Uddhaṭabhattaṃ ahaṃ tadā caramānassa adāsiṃ bhikkhuno, vittā sumanā sayaṃ ahaṃ tassa kammassa phalaṃ mamedisan ”ti.
1139. Khi ấy, thiếp đã dâng cúng phần ăn được nhận lãnh đến vị tỳ khưu đang đi khất thực. Thiếp đã vui mừng, có tâm ý hoan hỷ tự bản thân. Quả báu của nghiệp ấy đã có cho thiếp là như thế này.”
10. .
12. Rồi một ngày kia thiếp cúng dường
Phần cơm vào bát một Sa-môn,
Tâm tư thiếp ngập tràn từ ái,
Nghiệp ấy quả này, tâu Ðại vương!
1140. Āgamissati me pāpaṃ āgamissati me bhayaṃ, tadā hi calitā sākhā manussena migena vā.
1140. “Điều xấu xa sẽ đến cho ta, sự sợ hãi sẽ đến cho ta, bởi vì vào lúc ấy, cành cây đã bị lay động bởi loài người hoặc con thú.”
1. Lo sợ, kinh hoàng trong trí ta
Phát sinh ngay cả chính bây giờ
Ðều do thuở ấy người hay vật
Lay động bụi cây ở chốn kia.
1141. Bhīruyā nūna me kāme avidūre vasantiyā, karissati kisaṃ paṇḍuṃ sāva sākhā parantapaṃ.
1141. “Thật vậy, lòng ham muốn của ta đối với người vợ tên Bhīrū sống ở chỗ không xa sẽ làm cho ta gầy ốm, vàng vọt, tựa như cành cây ấy sẽ làm cho Parantapa.
2. Nhà vợ thân yêu ở cạnh đây,
Nhớ thương làm dạ tái tê thay,
Như Pa-ran hiện đang gầy ốm
Vì sợ lá cành rung động cây.
1142. Socayissati maṃ kantā gāme vasamaninditā, karissati kisaṃ paṇḍuṃ sāva sākhā parantapaṃ.
1142. Người vợ yêu dấu không bị chê trách đang sống ở trong làng sẽ khiến ta sầu muộn, sẽ làm cho ta gầy ốm, vàng vọt, tựa như cành cây ấy sẽ làm cho Parantapa.
3. Nhà vợ ở Ba-la-nại thành,
Thiếu nàng, ta héo hắt thân mình,
Như Pa-ran hiện đang xanh tái
Vì sợ bụi cây rúng rẩy cành.
1143. Tayā maṃ hasitāpaṅgi mihitāni bhaṇitāni ca, kisaṃ paṇḍuṃ karissanti sāva sākhā parantapaṃ.
1143. Khóe mắt đùa giỡn, các nụ cười duyên và các câu nói của nàng sẽ làm cho ta gầy ốm, vàng vọt, tựa như cành cây ấy sẽ làm cho Parantapa.”
4. Mắt nàng đen nhánh sáng long lanh,
Giọng nói, nụ cười mỉm tuyệt xinh,
Hồi tưởng làm ta tê tái dạ
Như Pa-ran sợ động cây cành.
1144. Āgamā nūna so saddo asaṃsi nūna so tava, akkhātaṃ nūna taṃ tena yotaṃ sākhamakampayī.
1144. “Thật vậy, tiếng động ấy đã đi đến. Thật vậy, nó đã tiết lộ cho hoàng tử. Thật vậy, kẻ nào đã làm lay động cành cây ấy, kẻ ấy đã kế lại cho hoàng tử.
5. Chắc tiếng động kia đến với ngươi
Kể cho ngươi những chuyện xưa rồi:
Chắc người thuở nọ rung cành lá
Ðã đến kể ngươi chuyện thiếu thời.
1145. Idaṃ kho tvaṃ samāgamma mama bālassa cintitaṃ, tadā hi calitā sākhā manussena migena vā.
1145. ‘Việc này đã sáng tỏ cho hoàng tử’ là điều suy nghĩ của kẻ ngu dốt như ta, bởi vì vào lúc ấy, cành cây đã bị lay động bởi loài người hoặc con thú.”
6. Ý tưởng điên rồ đến với ta
Ðã cho ngươi biết chuyện bây giờ:
Ngày xưa làm chứng, người hay vật,
Ở đó và rung cổ thụ mà.
11. Parantapajātakaṃ – Bổn sanh Nô Tỳ Parantapa.
1146. Tatheva tvaṃ avedesi avañci pitaraṃ mama, hantvā sākhāhi chādento āgamissati me bhayan ”ti.
1146. “Ngươi đã biết rõ y như thế ấy. Ngươi đã lừa gạt cha của ta. Sau khi giết chết cha ta và che phủ với những cành cây, (ngươi đã nghĩ rằng): ‘Sự sợ hãi sẽ đến cho ta.’”
7. Chính ngươi đã giết phụ vương thân
Cùng với lời lừa phản dối gian,
Ngươi dấu thây ngài trong bụi ấy,
Giờ đây ngươi phải chịu kinh hoàng.
Gandhāravaggo dutiyo.
*****
Phẩm Gandhāra là thứ nhì.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Varagāma mahākapi bhaggava ca daḷhadhamma sakuñjara kesavaro, urago vidhuro puna jāgaratā atha kosalādhipa parantapena ca.
Sattakanipāto niṭṭhito.
*****
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Các ngôi làng cao quý, con khỉ chúa, và đạo sĩ Bhaggava, đức vua Daḷhadhamma, với con voi, chuyện các sợi tóc bạc, con rắn, Bà-la-môn Vidhura, người tỉnh thức lần nữa,
rồi bậc thầy tổ về thiện pháp, và nô tì Parantapa.
Nhóm Bảy Kệ Ngôn được chấm dứt.
*****
TATRA VAGGUDDĀNAṂ
Atha satta nipātamhi vaggaṃ me bhaṇato suṇa, kukku ca puna gandhāro dve va vuttā mahesinā.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY
Giờ hãy lằng nghe tôi đang nói về hai phẩm ở nhóm bảy: phẩm Kukku và thêm phẩm Gandhāra đã được bậc Đại Ẩn Sĩ thuyết.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda