Chương 11

Mười Điều Thiện

Bố thí, Giới hạnh, với Xuất ly
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Tư bi,
Và Xả bỏ nữa là mười.

— (Lời Phật dạy, Buddhavamsa II, Kệ 76)

Muốn tu Thiền, hành giả cần có ba đức tính: độ lượng, đức hạnh và từ tâm. Nhưng cuộc sống tâm linh cao đẹp còn cần đến những đức hạnh khác nữa và chúng cũng cần được vun trồng.

Những đức hạnh nầy là Paramis (Parama) có nghĩa là tối thượng (ba la mật), là bản tánh chân thật đã có sẳn trong chúng ta. Nếu không, có khác nào ta vun trồng từ mãnh đất hoang. Vì chúng đã có sẳn trong ta, ta có thể bắt đầu từ đó. Tuy nhiên nếu ta không có ý muốn thực hành những điều thiện nầy, ta sẽ không có được tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tối cần để làm chủ nghiệp mình. Chúng ta luôn phải dựa vào tình cảm và lòng tốt của người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái của thân. Chừng nào chúng ta còn phải dựa vào một hay tất cả những thứ kể trên, là ta còn phải nô lệ chúng. Mà phải sống kiếp nô lệ thì chẳng thú vị gì. Phải luôn sống trong sự sợ hãi. Dĩ nhiên, ai cũng có những nỗisợ hãi, nhưng phải tùy thuộc vào người khác, hay hoàn cảnh, thì không thể có được sự tự do suy nghĩ hay hành động. Những thứ tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta muốn làm gì cũng được. Tự do tư tưởng có nghĩa là ta có những suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định hành động của mình.

  1. BỐ THÍ

Điều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu là bố thí, chìa khóa mở mọi cánh cửa. Không có nghĩa là những đức hạnh khác kém quan trọng, nhưng nếu lòng bố thí không được vun trồng, thì con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó thể khai thông. Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình và đó là bước đầu tiên, là đức hạnh đầu tiên ta cần phải có.

Đức Phật nói về ba loại bố thí: loại cho người ăn xin, loại cho bằng hữu và loại vương tước. Loại bố thí cho người ăn xin là khi ta bố thí những thứ ta không cần đến –những thứ khi dọn dẹp nhà cửa, ta cần vứt đi. Bố thí những thứ nầy, dầu có tốt hơn là không bố thí, nhưng không được rộng rãi lắm, vì ta không làm giảm bớt những tham muốn và bám víu của mình.

Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẽ những gì ta có với người quanh ta. Ta bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại phần khác.

Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta giữ lại. Rất hiếm thấy, có phải không? Phần đông chúng ta không làm thế.

Bố thí cần phải có động lực chính đáng. Nếu ta bố thí vì muốn đánh đổi lại một thứ gì đó –lợi lộc, lời khen tặng, lòng biết ơn– thì sẽ chẳng ích lợi gì. Điều nầy nghe có vẻ nghịch lý: Bố thí không phải để được nhận trả lại điều gì đó. Bố thí chỉ vì ta muốn bố thí. Nhưng nếu suy xét kỹ, ta sẽ thấy sự thật rất rõ ràng. Nếu ta bố thí chỉ vì muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh phúc, vui vẻ, tâm an bình và sung sướng. Người ta có thể bố thí vì cảm thấy mình dư dả. Hay vì muốn chia sẽ với người khác sự sung túc, giàu có của mình. Hoặc bố thí vì lòng từ bi đối với người khác. Đức Phật bố thì vì lòng từ bi đối với chúng sanh.

Bố thí không chỉ bằng tài vật. Không phải ai cũng có của cải vật chất để ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó. Thật ra phần đông chúng ta không nhớ mình có gì nữa, cho đến khi phải dọn nhà, lúc đó ta mới thấy mình có quá nhiều. Chúng ta có quá nhiều những đồ dùng trong nhà đến nổi ta có thể cho bớt đi mà vẫn không thấy thiếu thốn. Nhưng của cải không phải là thứ duy nhất ta có thể san sẻ. Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm, chăm sóc của mình cũng như chia sẻ tài năng, khả năng của mình. Đó là mặt quan trọng của bố thí, và sự bố thí nầy được chính phủ cũng như các cơ quan từ thiện thực hành rộng rãi. Chỉ có một điều là với những hình thức từ thiện nầy, đôi khi người trực tiếp làm các công tác nầy chỉ làm vì đồng lương chứ không vì lòng từ bi thật sự, nên công việc làm của họ có tính cách thương mại. Nhưng nếu ta bố thí khả năng, tài năng của mình mà không nghĩ gì đến việc được trả ơn thì ta bố thí vì lòng từ. Đức Phật đã bố thí Pháp với lòng thương xót chúng sanh.

Bố thí không chỉ có đi mà cũng có lại. Ta càng bố thí vì lòng từ bi, lòng từ bi trong ta càng tăng trưởng. Điều nầy cũng dễ hiểu thôi, nhưng ít ai nghĩ đến. Có người bố thí để được người khác tử tế lại với mình. Nhưng nếu ta bố thí thật sự vì lòng tốt phát ra từ trái tim, thì rõ ràng ta phải có nhiều lòng tốt hơn thế để ban phát cho người khác.

Tuy nhiên bố thí dù dưới hình thức nào cũng giúp ta bớt chấp ngã, và đó là lý do tại sao bố thí được kể đầu tiên trong mười điều thiện mà ta cần vun trồng, bảo vệ. Khi Đức Phật chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài hoàn thiện và có bao nhiêu câu chuyện về các đức tính nầy của Đức Phật trong quyển Jataka, chuyện từ các tiền kiếp của Đức Phật.

Lòng từ bi của bậc Bồ Tát còn đi xa hơn nữa, họ còn bố thí cả thân mình. Hy sinh tánh mạng mình cho ai là cách bố thí cao cả nhất. Người tầm thường như chúng ta khó mà làm nổi. Tuy nhiên có nhiều mức độ bố thí, mà một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm giảm bớt lòng chấp Ngã của ta. Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều hơn nữa lòng chấp Ngã, nếu đằng sau đó là những động lực chính đáng.

Làm giảm Ngã chấp là mục đích chính trên con đường thanh tịnh hóa, dần dẫn ta đến kinh nghiệm của sự vô ngã. Ta không thể chỉ hy vọng, cầu nguyện hay tưởng tượng mình sẽ được có kinh nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu làm gì đó để thay đổi sự bám víu vào tự Ngã. Bằng cách nào? Bố thí là một sự khởi đầu tuyệt vời.

  1. GIỚI HẠNH

Kế đến là giới hạnh, liên quan đến việc giữ gìn năm giới. Đức hạnh nầy nhằm làm giảm bớt và dần giúp ta chế ngự được lòng tham và sân. Làm giảm bớt lòng sân tham cũng là một cách để làm giảm Ngã chấp vì sân tham chỉ có thể phát sinh do có các ảo tưởng về Ngã.

Tất cả các Pháp của Đức Phật cũng là như thế. Đôi khi ta cảm thấy bối rối trước các giáo lý của Đức Phật về sự giải thoát tâm linh. Nhưng các giáo lý nầy giống như những mảnh rời của một bản hình xếp khổng lồ. Khi ta có thể đặt một vài mảnh vào đúng vị trí của chúng, thì các mảnh còn lại sẽ được an bài thôi. Tất cả Pháp đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm lòng chấp Ngã, rồi dần dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngã chấp, để đi đến Vô ngã.

Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng thể đó. Khi chúng ta không làm hại đến các sinh vật khác, thì lòng ta bớt sân hận. Ta chỉ có thể làm hại hay hủy hoại những gì ta không thích. Khi ta không lấy những gì không phải của mình, thì lòng tham được giảm xuống. Chỉ khi có lòng tham, ta mới lấy của cải của người. Cũng thế đối với những sai phạm trong tình dục. Ac ngữ là do lòng tham hay sân mà ra. Các thứ độc hại như rượu, ma túy là do lòng tham muốn thỏa mãn nhục dục mà những thứ nầy có thể dễ dàng mang đến cho ta.

  1. XUẤT LY

Xuất ly thường được nghĩ đến như một đức tính của riêng quý tăng ni, các thầy yoga hay những người sống ẩn dật trong các hang núi, nhưng đó không phải là một suy nghĩ hoàn toàn đúng. Xuất ly có nghĩa là buông xả những ảo tưởng về tự Ngã. Nếu trong khi tọa Thiền ta không cố gắng phần nào làm được như thế, thì ta khó mà đạt được Thiền định. Cái Ngã của ta thích được nuông chiều, chú ý đến luôn. Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm điều gì thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi tình trạng đó bằng những việc làm như trò chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ thứ gì vừa lòng nó. Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen nầy, việc tọa Thiền của ta khó thể thành công.

Cũng thế, tất cả các thiện tánh đều giúp cho sự tọa thiền của ta. Chúng nâng đỡ cột sống của ta. Thiền định cần có một cột sống vững mạnh, không phải chỉ do ngồi thẳng, mà còn phải có tâm chánh niệm.

Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải biết xuất ly. Điều đó có nghĩa là biết buông bỏ mọi ý niệm về cái tôi, mọi tham vọng, ước muốn của cái tôi. Tất cả những suy nghĩ đó chỉ củng cố thêm lòng chấp ngã, đưa ta đến chỗ sai lầm. Những gì ta nghĩ ta sở hữu -cái nhà ‘của tôi’, bàn ghế ‘của tôi’, chồng ‘của tôi’, vợ ‘của tôi’, con cái ‘của tôi’, thân quyến ‘của tôi’, xe ‘của tôi’, nghề nghiệp ‘của tôi’, văn phòng ‘của tôi’, bạn bè ‘của tôi’ -làm cho ‘cái tôi’ cảm thấy an toàn hơn vì tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ. Tạo cho tự Ngã những ảo tưởng về một sự vững bền. Nhưng không có người nào hay sở hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến đổi.

Nếu thật sự có sự bền vững đó, thì cái nhà, cái xe càng to, càng có nhiều bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều chồng, thì con người càng cảm thấy thêm an tâm. Thực tế thì càng có nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm phiền não, lo âu. Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà vợ thay vì một. Hãy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó! Đó chỉ là một trong những tà kiến về những gì có thể mang đến cho con người sự an tâm. Ta chỉ thích bao bọc mình với những gì tạo nên ‘cái tôi’, ‘cái của tôi’. Tư duy của ta khiến ta trở nên như thế, dầu rõ ràng ta không thể làm chủ ai khác được. Con người có thể ra đi không định trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu, hay bỏ rơi nhau không lời từ giả. Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ. Vậy mà ta vẫn gọi họ là ‘của tôi’, và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng ta. Một khi ta tin như thế, ta bám víu vào họ suốt đời. Họ phải lúc nào cũng là ‘của tôi’. Đó là quá trình tự xác định cái Ngã với gia đình của chúng ta, với công việc của chúng ta và với tất cả những sở hữu của chúng ta. Thay vì với chỉ một ‘cái tôi’, giờ chúng ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác nữa. Như thế chúng ta trở nên to lớn thêm.

Xuất ly sự xác định nầy là một bước quan trọng khởi đầu: chỉ khi nào ta có thể tự đứng một mình, ta mới có thể thực sự tu tập theo con đường đạo. Không có nghĩa là ta phải đuổi mọi người ra khỏi nhà. Nhưng khi ta còn tùy thuộc vào ý kiến, hành động của người khác, thì làm sao ta có thể thực tập cho sự tự do, giải thoát của chính mình? Không có sự dựa dẫm nầy, cái Tôi sẽ trở về kích thước bình thường, của chỉ cái tôi, không có gì hơn. Như thế dầu tự Ngã vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả năng chế ngự của ta. Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám víu vào bao nhiêu người, bao nhiêu thứ khác.

Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt được điều gì đó hay trở nên thế nầy, thế nọ, thì cũng chỉ là một cách củng cố thêm Ngã chấp. Thay vì có mặt trong giờ phút hiện tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở nên, là một cái gì thuộc về tương lai. Có thể nói gì về tương lai chứ? Không có gì. Tương lai thì hoàn toàn trống không. Nhưng có mặt, ngay trong hiện tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm.

Trở nên, trở thành một thứ gì hơn chính chúng ta -một thiền sư đạt đạo, một ông chủ có danh vọng, giàu có, được mến mộ -sẽ làm cho lòng chấp Ngã của ta thêm nặng. Trở nên, trở thành không ích lợi gì, là như thế nào thì ích lợi hơn. Lúc đó ta sẽ dễ đối trị ngã chấp hơn. Ta có thể chánh niệm về sự có mặt đích thực của mình. Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ trở thành. Nó không có thực. Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày. Nó chỉ là mơ ước và hy vọng. Nó là điều ta muốn xuất ly.

Trong quá trình xuất ly, ta có thể buông bỏ sở hữu, sự khẳng định của cái tôi và các vọng tưởng. Nếu trong đời thường, ta không biết buông xả, thì ta càng khó buông xả hơn trong Thiền. Khi Thiền định, ta phải buông xả tư duy, ước vọng, mọi phán đoán, lòng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc. Ta phải biết buông bỏ, nếu ta muốn hành Thiền, vì thế ta cần phải thực tập sự xả ly ở mọi lúc, mọi nơi. Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu hay xa lánh gia đình. Ta chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định mình qua những thứ đó.

Xuất ly có nhiều hình thái. Nó có thể là sự tự khắc kỷ như dậy sớm hơn thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn được hưởng thụ. Xuất ly cũng có nghĩa không phải lúc nào muốn ăn thì ăn, mà phải chờ đến lúc thật sự đói. Khi từ giả cuộc đời, ta phải buông bỏ mọi thứ. Ta không thể mang theo của cải hay người thân mà ta coi là của chúng ta, cũng như không thể mang theo thân của mình. Tốt hơn hết là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến. Đó là lý do tại sao người ta thường vật vã trước giờ ra đi. Một số ít người có thể ra đi một cách bình thản, nhưng phần đông không thế, vì họ chưa sẳn sàng để buông bỏ tất cả. Trước đó, họ chẳng bao giờ nghĩ đến giờ phút nầy.

Tất cả những gì ta bám víu vào là một trở ngại, một vật cản. Thí dụ như nếu tôi cứ ôm mãi chiếc gối nầy, không chịu bỏ ra, thì tôi sẽ gặp trở ngại khi bước ra cửa. Thực tế, ta thường bám víu vào người khác và điều đó cần phải buông bỏ. Không có nghĩa là ta phải xua đuổi người khác. Nhưng có nghĩa là ta phải đoạn diệt thái độ bám víu của ta với người khác, đó mới chính là trở ngại lớn nhất. Nếu ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của ta cũng bị trở ngại thôi, vì ta cũng sẽ bám víu vào tư tưởng, hy vọng, ước muốn của ta.

Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của mình, vẫn mặc quần áo đó, vẫn không có gì thay đổi về hình dáng bề ngoài, nhưng bên trong ta đã xuất ly được những dính mắc của mình. Không có nghĩa là ta không còn thương yêu gia đình của mình nữa. Ngược lại, tình thương mà không có sự bám víu, sở hữu là loại tình thương không có lòng sợ hãi, hoàn toàn thuần khiết. Trong khi tình thương với lòng bám víu, sở hữu là một cực hình. Nó bao gồm những làn sóng tình cảm và thường tạo nên những hàng rào kẻm gai vô hình. Tình yêu thật sự là tình yêu không có sự sở hữu, được cho mà không mong đợi một sự trả lại. Nó cho ta cảm giác có người đứng cận kề nhưng không dựa vào ta.

  1. TRÍ TUỆ

Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có nghiệp thiện kế tiếp là trí tuệ. Bổ sung cho trí tuệ là đức tin. Đức tin và trí tuệ là hai đức tính không thể tách rời.

Đức Phật đã so sánh Đức tin như một người khổng lồ mù với một gã nhỏ bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ. Đức tin đã nói với Trí tuệ rằng: ‘Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy đường đi tới. Còn anh yếu đuối, nhưng mắt anh thì tinh. Hãy đến ngồi lên vai tôi. Hai chúng ta hợp lại thì nơi nào mà ta không đến được’. Lòng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ không biết dời ngọn núi nào. Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường cho lòng tin. Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt.

Trí tuệ là một đức tính khá đặc biệt, vì ta không thể đạt được trí tuệ nếu không có tâm thanh tịnh.

Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn. Đầu tiên là sự học hỏi sẽ mang đến kiến thức. Ta có thể có được kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời nói của các bậc uyên thâm. Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đã học hỏi được để chúng trở thành một phần của nội tâm ta. Như khi thực phẩm vào cơ thể ta, những gì cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài. Những thứ khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực. Cũng thế với kiến thức. Ta có thể tiêu hóa kiến thức, thải bỏ những gì ta không cần đến và đưa những cái bổ ích vào máu. Chúng sẽ dần dần chuyển đổi để tạo nên trí tuệ, cũng như đồ ăn được tiêu hóa dần chuyển đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn. Đây là sự chuyển đổi nội tâm và không đòi hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa hàng tấn kiến thức. Nó không đòi hỏi số lượng, mà cần chất lượng, cũng như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy.

Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được trước khi tiêu hóa chúng. Điều nầy đòi hỏi phải có tâm hành, đó là một phần quan trọng trong sự trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất đúng chất lượng là yếu tố quan trọng cho cơ thể tăng trưởng. Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với những điều Phật dạy, thì những điều đó vẫn là lời của Phật, của Tăng. Chúng sẽ không bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi, lập lại biết bao nhiêu lần. Trừ khi ta nghiền ngẫm, hấp thụ, tiêu hóa được những điều ta đã học hỏi, ta mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm.

Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời sống bình an không có nhiều biến động lên xuống. Thiếu trí tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều hoàn cảnh. Đôi khi phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi. Nếu có trí tuệ ta đã không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi. Hơn nữa, nếu bên cạnh trí tuệ còn có thêm lòng tin thì nó càng thêm sức mạnh. Lòng tin rộng lớn đầy sức mạnh, không có gì có thể lay chuyển được. Cộng thêm đôi mắt sáng của trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng.

Chỉ có trí tuệ, không có lòng tin, đôi khi đưa ta đến cái nhìn hai chiều. Đối với vấn đề gì, thắc mắc gì ta cũng nhìn theo hai chiều. Nó không có sự gắn bó bên trong như đối với lòng tin. Lòng tin không cần dựa vào một thứ gì ở bên ngoài. Lòng tin mà dựa vào yếu tố bên ngoài nào đó, thì lòng tin đó không bền vững, vì nó cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh, không thể nghi ngờ gì. Không ai có quyền được nghi ngờ về những gì họ tin vào. Lòng tin hữu hiệu nhất là lòng tin vào chính khả năng thành công của mình. Thêm nữa, lòng tin có thể phát sinh khi ta đã chọn được con đường đi đúng. Đó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp, cộng với con mắt sáng của trí tuệ.

  1. TINH TẤN

Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy. Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho mình. Đó cũng là một trong bảy yếu tố của Giác Ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào.

Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng lòng tốt của ai. Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực.

Năng lực có thể khiến ta lăng xăng. Chạy từ việc nầy qua việc nọ, nghĩ thứ nầy, thứ kia. Nó có thể mang ta từ nơi nầy của thế giới đến nơi khác, cố tìm cho được cái gì có thể làm thỏa mãn nó. Nếu không sử dụng năng lực đúng chổ, nó sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực. Chính tự nó không toàn diện. Nó chỉ là nhiên liệu, còn bổn phận của ta là tìm cho nó một chiếc xe đúng loại.

Đức Phật đã nói về năm yếu tố tâm linh và so sánh chúng với một đoàn ngựa kéo một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau. Con ngựa dẫn đầu là chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó. Nó không cần phải cân xứng, chờ đợi ai. Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan trọng nhất. Không có nó, toa xe không thể đi tới. Nhưng hai cặp ngựa còn lại phải cân xứng nhau. Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng với chú tâm.

Sự chú tâm giúp ta ổn định. Nhưng nếu chỉ có chú tâm mà không có năng lực, sẽ khiến ta hôn trầm. Làm ta trở nên trơ đá, không xúc cảm. Loại chú tâm nầy không ích lợi gì. Nó cần có năng lực để giữ thăng bằng. Nhưng có năng lực mà không có chú tâm thì cũng vô ích vì nó có thể khiến ta quá lăng xăng đến nổi, lúc nào ta cũng phải làm cái gì đó.

Năng lực phải có định huớng. Không lợi ích gì nếu chỉ đổ nhiên liệu vào xe, nổ máy nhưng không biết phải đi đến đâu. Làm thế chỉ lãng phí nhiên liệu thôi phải không? Trên thế giới việc khủng hoảng năng lượng cứ liên tục xảy ra, vì thế thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lãng phí nhiên liệu, có phải không? Chúng ta cần phải biết rõ chiếc xe của ta cần đi về hướng nào. Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi. Thẳng tiến đến sự lớn mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.

Khi ta lớn lên cái nhìn của ta bao quát hơn. Khi đã đạt được sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể nhìn mọi thứ như một người đứng trên cao nhìn xuống, những gì xảy ra ở dưới đường không ảnh hưởng đến ta. Dầu có lụt lội, hạn hán, động đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên không trung, sự tỉnh thức của ta cũng không hề bị ảnh hưởng. Có cái nhìn của con chim ở trên tầng không, ta có thể nhìn mọi vật một cách tổng quát chứ không phải cá thể. Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những gì ta có thể thấy được là căn phòng nầy.

Cũng thế đối với cái nhìn bên trong. Cái nhìn hạn hẹp chỉ có thế thấy được cái gì ngay trước mắt nó: cái đau của thân, sự sợ hãi, lo lắng cho tương lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét người quanh ta. Ta chỉ có thể thấy những thứ như thế vì cái nhìn không được phát triển. Nhưng khi cái nhìn đã thay đổi, ta có thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không còn phải lo âu, sợ hãi nửa vì ta biết rằng tương lai và quá khứ là một. Chỉ có giây phút hiện tại.

Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm vào một việc mới mong có kết quả. Chúng ta phải hao hụt một phần lớn năng lực tinh thần trong Thiền định: năng lực duy nhất trong vũ trụ nầy. Tất cả mọi vật chất chỉ là kết quả của năng lực tinh thần. Khi ta đã tu Thiền một thời gian, sự tiêu tốn năng lực không còn làm ta mệt mỏi. Trái lại là khác. Ta cảm thấy như hấp thụ được nguồn năng lực mới qua Thiền định.

Để làm chủ các bản năng, đòi hỏi phải có năng lực. Sống theo bản năng là cuộc sống của loài thú. Con người hơn loài thú vì có khả năng tư duy, vậy mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có tính cách bản năng ở bản thân và ở người. Vì bản tính của con người là phản ứng theo bản năng, ta cần phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng. Những gì có vẻ tự nhiên đối với ta -đến với ta một cách dễ dàng- là những cái ta cần chế ngự. Chỉ sống buông trôi theo bản năng sẽ đem lại đau khổ cho ta. Chuyển đổi từ một người tầm thường thành một người cao quý (ariya) là những bước đến với sự giải thoát. Cần phải có nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng và phản ứng một cách tầm thường trần tục.

Tất cả những gì ta làm đều cần có năng lực. Sự quyết tâm là bước khỏi đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước. Và ta chỉ có thể tiến bước không chần chừ nếu ta biết rõ hướng đi của mình. Người có thể làm được như thế là những người có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được người khác ngưỡng mộ. Không có gì to tát cả. Họ chỉ là những người giỏi điều khiển năng lực của mình.

  1. KIÊN NHẪN

Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống hằng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm. Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả.

Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ ta có tâm chấp Ngã vì ta muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự tính. Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi. Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của mình. Ta quên là còn có nhiều yếu tố khác, nhiều nhân duyên liên hệ khác. Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỉ người trên quả đất nầy, và quả đất nầy chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và còn có hằng ha sa số các tinh cầu khác nữa. Vì tư lợi của mình, ta quên đi những điều ấy. Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ý mình ngay lập tức. Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ. Đó là một vòng tròn oái oăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận.

Lòng kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được. Đôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại nầy. Nếu ta không thể chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta càng thêm đau khổ. Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, thì sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội. Như khi ta đấm tay vào một vật cứng, tay ta sẽ bị đau. Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta sẽ không thấy đau. Phản kháng hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau.

Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ có thể nhìn thấy sự vật thay đổi, chuyển động và trôi theo dòng chảy. Có những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng cũng bình thường. Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay chúng không có ý nghĩa gì nữa với ta. Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra. Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một phần của dòng đời lên xuống.

Những đức tính nầy chỉ có thể vun trồng trên mãnh đất mầu mỡ của nội tâm. Nội tâm ẩn náo bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng, trong khi kiên nhẫn và xuất ly cần có để đối trị với ngã mạn, vì tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã.

‘Nội tâm’ trong ngôn ngữ Phật giáo có nghĩa là sự suy gẫm thậm sâu về ba đặc tính trên: vô thường, khổ và vô ngã. Chúng không ngừng xảy ra. Chỉ có sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại. Ta thường tìm cách trốn tránh chúng. Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản kháng lại chúng. Ta từ chối sự hiện hữu của chúng, và luôn nghĩ ra đủ mọi cách để trốn tránh chúng. Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu. Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu.

Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính mình. Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả. Nếu không có kiên nhẫn với chính mình, tức là ta không biết tự quí trọng mình. Ta phóng đại về khả năng của mình, sự quan trọng của mình, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức giận. Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không cần ngủ nghĩ. Đủ thứ ‘phải’. Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiều kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ.

Tuy nhiên cũng không nên đồng hóa tính kiên nhẫn với sự dễ dãi. Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng. Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm gì cũng vô ích, là một điều không đúng sự thật. Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh. Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính. Dầu biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn.

Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của mình và nói: ‘Dơ rồi. Nhưng ta có thể làm được gì chứ? Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ’. Đó là một thí dụ cực đoan. Giống như một người nhìn quanh phòng rồi nói: ‘Phòng dơ quá. Mà phòng nào rồi cũng dơ”. Hay có người quan sát nhà mình rồi nói: ‘Nước sơn đã bạc màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu’. Đó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm. Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: ‘Oi, còn làm gì được nữa? Ai không tham lam, sân hận’ và rồi để mọi việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.

Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người mình, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều nầy cũng chẳng ích lợi chi. Tất cả mọi thứ đều cần thời gian. Từ vô thủy ta đã lập đi lập lại những tánh xấu nầy. Ta cần phải có thời gian để thay đổi. Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì không.

  1. CHÂN THẬT

Tiếp theo là chân thật, và đức tính nầy có nhiều khía cạnh. Đầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật. Đó là giới luật thứ tư – không nói dối. Nhưng còn hơn thế nữa. Ta cần phải tự khám phá mình với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm. Đó là một việc khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết lỗi mình, không phải của người. Tìm lỗi của người không khó. Lỗi của người khá hiển nhiên. Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là điều khó làm, ta cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.

Điều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn mình. Khi câu hỏi đầu tiên được trã lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trã lời đó, ‘Tại sao tôi lại hành động như thế? Tại sao tôi lại có những cảm thọ đó? Tại sao tôi phản ứng như thế?’ Cuối cùng các câu trã lời đều đưa về một ‘cái ngã’, nếu ta đã tự phân tích mình đầy đủ.

Các phản ứng dễ dãi như ‘Ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm gì khác hơn’, hay ‘Đó là nghiệp của tôi rồi’, không ích lợi gì. Cả hai thái độ đều vô hiệu quả, vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gở sự bám víu vào cái ngã.

Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta. Ta phải đặt một tấm gương trước mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà là để theo dõi sự hình thành của tâm sinh lý của ta. Tấm gương đó gọi là chánh niệm. Đôi khi cách người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực vì có cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công việc chính của ta lả phải tự chất vấn mình thôi.

Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật tức là biết được bốn sự thật cao quý (tứ diệu đế) và đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao quý đó có nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn nội tâm: sự thật về khổ, sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân; sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế), nghĩa là sự giải thoát; và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế), đó là bát chánh đạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.

Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát. Người ta có thể đi tìm chân lý bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học. Có nhiều lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người nầy và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt lý thuyết của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng không thể nào đem lại sự thỏa mãn hoàn toàn.

Đi tìm chân lý là một điều nên làm, người trẻ nên đeo đuổi theo chân lý và người già không nên ngừng nghỉ. Đáng buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có bị gián đoạn. Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì mục đích sinh tồn, đến nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của họ. Họ không còn đủ năng lực hay ý chí. Thật đáng tiếc khi người trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, còn người già thì không còn đủ năng lực. Như Bernard Shaw đã nói: “Tuổi trẻ bị lãng phí bởi những người trẻ tuổi”.

Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc tìm kiếm chân lý, dù chỉ một phút. Nếu ta tiếp tục kiếm tìm, thì chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng chân lý không thể là một sản phẩm của loài người. Chân lý phải có tính cách toàn cầu. Phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một loại người nào, một tầng lớp xã hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia, tôn giáo nào. Chân lý phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người tuyệt đối, mãi mãi – không chỉ tạm thời, cho một nhóm người nào đó thôi.

Chân lý phải là sự thật tuyệt đối, chứ không phải tương đối. Chân lý tuyệt đối nằm trên những khổ đau và kiếm tìm của con người. Nó nằm trong những cuộc kiếm tìm của tâm linh và chân lý chỉ có thể tìm được trên các con đường tâm linh. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều. Nó có ngày mai và hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và tôi không muốn, tiềm ẩn trong đó. Trong đó có cá tính ‘của tôi’ và cá nhân ‘của tôi’ mà ‘tôi’ muốn khẳng định và ‘tôi’ muốn bành trướng. Điều đó chỉ có tính cách tương đối và không phải là chân lý tuyệt đối có thể làm thỏa mãn mọi người. Ai đó phải chịu thiệt thòi trong thế giới đó. Chân lý tuyệt đối bỏ qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá nhân, ta sẽ nhận ra rằng những gì được coi là ‘tôi’, ‘của tôi’ là một sai lầm và những gì là ‘anh’, ‘của anh’ cũng là một hiểu lầm đáng tiếc. Không có tha nhân để ta lo ngại, sợ hãi. Tất cả chỉ là một dòng chảy và thể chất chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Chân lý tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào. Nó có tính cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con đường bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính nầy tạo nên sức mạnh bên trong ta, và để phá vở sự thật tương đối, tìm ra chân lý tuyệt đối, ta cần phải có rất nhiều sức mạnh.

 

  1. QUYẾT TÂM

Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp là sự quyết tâm. Không có quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được gì. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy cũng cần có quyết tâm. Tuy nhiên có việc đòi hỏi nhiều quyết tâm hơn các việc khác, thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi Thiền không có gì hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không mang lại kết quả tức thời

Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết quả tức thời. Nhấn một cái nút, tức thì các số tiền mua sắm được tổng cộng ngay. Nhấn một cái nút khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ. Nhấn một nút nữa, đèn được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức. Xã hội chúng ta, hơn bao giờ hết, đòi hỏi các kết quả ngay tức thời. Đó là lý do tại sao các viên thuốc giảm đau được người ta ưa thích hơn các loại thuốc đông y thường cần thời gian lâu hơn mới có công hiệu.

Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm bảo. Muốn tu Thiền, ta cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên cường. Tâm yếu đuối không thể có quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ, định tĩnh thì trái lại. Mỗi khi ngồi xuống tọa Thiền, ta cần phải quyết tâm ngồi một chổ, không nhúc nhích, để giữ tâm ở yên một chổ, để chú tâm vào việc ta đang làm.

Trong đời sống hằng ngày, ta cũng cần có quyết tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ cơ hội, thì cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta cần phải làm một cái gì đó. Phải có quyết tâm bạn mới đến Thiền viện để học Thiền, vì ở nhà thì thoải mái hơn rồi.

Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện trong ta. Ai cũng biết điều tốt xấu. Nếu không, thế giới nầy càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta đều có tính quyết tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những đức tính nầy là những người bạn tốt của mình. Ta phải cố gắng gần gủi chúng, ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng là những nguyên liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, bình an và không thể thiếu trong sự phát triển tâm linh.

Đó là tất cả những gì cuộc đời có thể mang đến cho ta: sự phát triển tâm linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc giả tạm nguy hiểm vì chúng lôi kéo ta vào sự buông xuôi. Khi ta đã hiểu rõ ràng như thế, thì quyết tâm sẽ phát khởi để ta đem việc phát triển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Để làm được điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu. Ta có thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những gì xảy ra cho ta đều có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một căn bịnh, chết chóc, sự ác tâm của người, mất tài sản, thân thọ khổ, hay mất tình yêu, danh vọng. Sự bám víu vào người khác, lo lắng cho họ cũng cho ta một bài học. Không nên coi thường gì cả, mà hãy sử dụng mọi thứ để tu học, phát triển.

Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc đời nầy không có gì giá trị cho ta, trừ sự phát triển tâm linh và giải thoát cuối cùng. Không cần phải thay đổi cách sống của mình, nhưng cần phải thay đổi thái độ, hành động, nhận thức về những gì xảy ra quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang đến cho ta hạnh phúc vì trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường đạo. Như thế quyết tâm tự nạp năng lượng cho mình. Quyết tâm bình thường đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một quyết tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường tâm linh, nó không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn vì nó mang lại niềm vui cho người có quyết tâm.

9-10. TÂM TỪ & TÂM XẢ

Hai đức tính cuối cùng: từ bi và hỉ xả, bạn đã được nghe nói đến nhiều. Đã được nhắc đến ở những chương trước. Xả là tình cảm đáng được trân trọng nhất. Nó giúp ta đoạn diệt ảo tưởng về Ngã. Nếu ta không thực biết rằng chính Ngã chấp đã tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, thì ta không thể thực sự phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta không thể có tâm an bình. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.

Mười nghiệp thiện nầy cần được phát triển đời nầy qua đời khác, liên tục cho đến khi chúng đủ sức mạnh để đưa ta đến con đường cao quí, con đường giúp ta có cái nhìn nội tâm về Tứ Diệu Đế ở trọng tâm của bánh xe Phật pháp.

-ooOoo-

Chương 12

Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo

Khi Ðức Phật rời bỏ gia đình để đi tìm sự giải thoát cho chúng sanh khỏi những khổ đau, Ngài đã tìm đến tu học với hai vị Thiền sư nổi tiếng.

Ngài Alara Kalama, vị thầy đầu tiên, dạy Ðức Phật về Tứ Thiền, các tầng thiền trong sắc giới. Ðức Phật là người học trò rất thông minh, Ngài học rất nhanh. Chẳng lâu sau, vị thầy nhờ Ngài ở lại dạy vì sự hiểu biết của Ngài đã ngang bằng với thầy. Nhưng Ðức Phật, lúc đó hãy còn là Thái tử Siddhartha Gotama (Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm), từ chối và nói rằng Ngài chưa đạt được mục đích của mình, và từ giã vị thầy nầy để đến với vị thầy thứ hai, ngài Uddaka Ramaputta. Người thầy thứ hai dạy Ðức Phật về bốn tầng thiền vô sắc, là các tầng Thiền vi tế hơn, khó đạt được hơn các tầng Thiền trước đó. Lần nữa, Ðức Phật lại chứng tỏ mình là một người học trò xuất sắc, và vị thầy của Ngài lại yêu cầu Ngài hãy ở lại hướng dẫn các đệ tử khác. Lần nữa, Thái tử lại từ chối vì Ngài nhận thấy rằng dù Ngài đã đạt được tầng Thiền cao nhất, nhưng khi xả định, Ngài vẫn thấy khổ đau, phiền não như trước. Không có gì thay đổi nhiều. Vì thầy Uddaka Ramaputta nói không còn gì nữa để dạy, Thái tử biết rằng Ngài phải tự mình đi tìm chân lý. Ngài từ giã năm người bạn đồng tu với mình. Họ không muốn theo Ngài, mà chọn lựa ở lại, với sự an ổn, bảo đảm của một người thầy danh tiếng.

Khi Thái tử đi đến gốc cây Bồ đề ở ở một vùng ngày nay có tên là Bodhgaya (Bồ đề Ðạo tràng), bắc Ấn Ðộ, Ngài có quyết tâm lớn. Ngài thề nguyện sẽ ngồi đó không nhúc nhích, không đứng dậy cho đến khi tìm được sự giải thoát, dầu cho thịt xương của Ngài có vữa ra. Thế là Ngài ngồi và dùng các khả năng Thiền định đã học để đi sâu vào định, từ Sơ Thiền đến Bát Thiền và trở lại từ đầu. Trong lúc ngồi, Ma vương đến cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng nó. Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, an định, không mảy may lay động, Ngài đã đạt được sự Giác Ngộ sâu xa nhất. Khi xả định, Ngài nhận ra rằng Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo là một thực tại nội tâm thông suốt. Sau những việc đó, Ngài nhận ra mình đã chứng đắc, trở thành Ðức Phật, bậc Ðại Giác Ngộ.

Ðức Phật sau đó trong niềm hân hoan của sự giải thoát, cảm nhận ơn cây Bồ đề đã chở che cho Ngài. Ðức Phật ở đó một tháng, rồi theo lời khẩn cầu của Phạm Thiên (Brahma Sahampati), Ðức Phật quyết định đi truyền bá giáo lý của mình. Lúc đầu nghĩ rằng giáo lý của Ngài quá cao siêu, quá khó hiểu, sợ rằng khi truyền đạt lại cho chúng sanh, Ngài sẽ thất vọng vì sự không thông suốt của họ. Nhưng cuối cùng Ðức Phật xuôi lòng, và đồng ý dạy vì lợi ích của người và trời.

Trước hết Ðức Phật nghĩ đến những vị thầy của mình. Nhưng khi dùng nhãn thông để tìm kiếm họ, Ðức Phật khám phá ra họ đã qua đời. Sau đó Ðức Phật quyết định dạy cho năm người bạn đạo cũ của mình. Ðức Phật tìm ra họ đang ở gần Benares. Ðức Phật quyết định đi đến đó để gặp họ.

Ðức Phật đi bộ suốt cả chặng đường. Trong bốn mươi lăm năm truyền giáo, Ngài đi như thế đến khắp mọi nơi. Ðức Phật chẳng bao giờ dùng xe, vì trong những ngày ấy xe đều do súc vật kéo, và Ðức Phật không bao giờ muốn phải làm khổ con vật nào. Do đó, một trong những giới luật cho tăng ni là không được dùng xe do súc vật kéo. Ngày nay chúng ta may mắn hơn, có những loại xe khác. Ðức Phật lúc nào cũng đi bộ.

Hằng ngày, Ðức Phật đều thuyết giảng. Nhờ thế ngày nay ta có thể thừa hưởng được gia tài đồ sộ của Ngài. Trong các kinh điển có hơn 17.500 bài giảng.

Khi Ðức Phật đi đến gần Benares, năm nhà sư đạo hạnh trông thấy Ðức Phật đang đi đến gần. Họ nói với nhau, “Nhìn kìa, ông Gotama đang đi đến. Ông ấy đã từ bỏ cuộc sống đạo hạnh. Ông ấy không còn là một tu sĩ nữa. Trông ông ấy khỏe mạnh, sạch sẽ quá. Chúng ta nhất quyết không chào hỏi khi ông ấy đến gần”. Nhưng khi Ðức Phật đến gần hơn, họ không thực hiện được dự định vì dáng vẻ oai nghi và khuôn mặt rạng ngời của Phật. Họ chào hỏi Ðức Phật rất lễ phép.

Lúc đó Ðức Phật bảo với họ rằng, “Ta đã thành Phật và ta sẽ truyền dạy cho các người giáo lý của ta”. Ngạc nhiên, họ hỏi: “Nhưng làm sao chúng tôi biết đó là sự thật? Làm cách nào để chứng minh?” Ðức Phật nói: “Các người đã biết ta hơn sáu năm. Có bao giờ ta dối gạt các người điều gì không?” Họ nói: “Không”. Rồi Ðức Phật nói “Hãy nghe một thời pháp của ta”. Các vị đạo sĩ bằng lòng. Nói cách khác là họ đồng ý cho Ðức Phật một cơ hội. Họ sửa soạn chỗ ngồi cho Ðức Phật trong vườn nai Isipatanna, ngoại ô Benares và ở đó với Ðức Phật một tuần. Mỗi ngày họ thay nhau đi khất thực.

Lúc đó Ðức Phật bắt đầu thuyết giảng bài kinh đầu tiên sau khi Giác Ngộ – Kinh Chuyển Pháp Luân. Ðức Phật bắt đầu chuyển bánh xe Pháp với bài giảng đầu tiên và may mắn làm sao, cho tới ngày nay bánh xe Pháp vẫn còn luân chuyển. Cũng có nhiều thời mạt Pháp xảy ra, lúc đó thật là khó khăn. Thí dụ đã có những lúc ở Sri Lanka người ta không thấy bóng dáng một nhà tu. Phật Pháp thường bị đe dọa, chống đối vì nó đi ngược lại với bản năng con người. Ngược với dòng chảy, ngược triều lưu.

Khi Ðức Phật kết thúc bài Pháp, một trong năm vị đạo sĩ đã chứng đắc. Ðức Phật nói: “Anna Kondanno thấy, Anna Kondanno biết”. Thấy và biết. Biết thôi chưa đủ. Thấy là cái thấy của nội tâm, bản tánh của tâm, làm thay đổi hoàn toàn cái nhìn và quan điểm của con người. Anna Kondanno (A-nhã Kiều-trần-như) là vị A-la-hán đầu tiên và cũng là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên.

Ðức Phật cũng được gọi là một vị A-la-hán: “Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa”. Ngài là A-la-hán mà cũng là Phật. Ðiều khác biệt là Ðức Phật tự tìm ra Tứ Thánh đế và Bát chánh đạo, không có thầy dẫn dắt, trong khi một vị A-la-hán giác ngộ nhờ nương theo Ðức Phật. Khi Phật Pháp không còn hiện hữu, sau nhiều a tăng kỳ kiếp một Ðức Phật khác sẽ xuất hiện, để tìm ra được đúng những giáo lý về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Ðức Phật là người có khả năng thuyết Pháp. Ðó là một khả năng hiếm có. Có các Ðức Phật được gọi là Paccekabuddha (Ðộc Giác Phật, Bích Chi Phật, Duyên Giác Phật). Họ đạt Giác Ngộ nhưng họ không có tài giảng Pháp.

Khi chúng ta đọc tụng kinh pháp, ta thường ngỡ ngàng trước việc Ðức Phật nhiều lần lập lại cùng những từ ngữ. Dầu trong tiếng Pali ta nghe du dương, nhưng được lập đi, lập lại nhiều lần, ta không khỏi tự hỏi tại sao. Nhưng không có gì đáng ngạc nhiên cả. Khi nói, ai cũng thường lập đi, lập lại. Hơn nữa, Ðức Phật nhận ra rằng rất khó suy nghĩ sâu xa về một sự thật thậm sâu bằng thính giác, vì lẽ đó Ðức Phật đã nhấn mạnh bằng cách lập đi, lập lại.

Tứ Diệu Ðế

Tứ Diệu Ðế bắt đầu bằng sự thật của khổ đau. Năm người bạn mà Ðức Phật giảng bài Pháp đầu tiên là năm đạo sư đã tu khổ hạnh trong sáu năm. Ðức Phật cũng đã làm như thế, nhưng sau đó Ðức Phật nhận thấy rằng sự hành xác không đem lại Giác Ngộ. Trái lại, cách sống buông trôi hưởng lạc như Ðức Phật đã từng sống khi còn là Thái tử trong cung điện, cũng không mang lại hạnh phúc. Ðức Phật nhận ra rằng chỉ có con đường duy nhất – con đường Trung Ðạo. Không có sự cực đoan nào là tốt cả. Các vị đạo sư này đã tu ép xác. Họ hiểu về những đau khổ của thân. Ðức Phật không cần phải nhấn mạnh về điều đó. Họ có thể hiểu dễ dàng.

Nhưng đối với chúng ta không dễ. Dầu khi ngồi Thiền ta có kinh nghiệm về những đau đớn, khó chịu ở thân, nhưng sau khi xả Thiền, về nhà, đau đớn cũng không còn nữa. Như thế đó chỉ là những đau đớn tạm thời, ta có thể chịu đựng được. Ðiều chúng ta có thể không biết là thân không chỉ có những đau đớn, mà chính thân là một cái khổ. Nói một cách khác là có thân là có khổ. Phải lo cho thân là khổ. Ở đây không chỉ nói về cái khổ khi ta phải hứng chịu một tai họa nào đó. Tai họa là một chuyện, sự thật khổ đau là một chuyện khác nữa. Đức Phật nói: Sanh khổ, Tử khổ, Hoại diệt khổ, Không được cái mình muốn thì khổ.

Ðây là những nỗi khổ lớn của tất cả chúng sanh, còn bao nhiêu cái khổ nữa bên cạnh sinh, già, bệnh, chết. Rõ ràng là lúc vui vẻ an ổn, ta không biết đến cái khổ trong ta. Ta có thể thương hại ai đó, vui mừng vì mình không ở trong cùng cảnh khổ, quên rằng cái khổ luôn có mặt trong ta. Ngay chính trong lúc vui, ta cũng khổ vì không thể kéo dài niềm vui. Dục lạc biến mất khi ta muốn duy trì nó mãi. Mỗi khi ta muốn bám viú vào chúng, chúng lại qua đi, và ta lại phải bỏ công đi tìm.

Ngay chính thân ta cũng không thể duy trì được sự sống nếu như nó không luôn được bồi dưỡng, tắm rửa, vận động và chữa trị. Ðủ loại chữa trị: kính, răng, máy trợ thính, thuốc bổ, thuốc ho, dầu gội, v.v… Bao nhiêu tiền đã phải đổ ra để giữ thân thể tiếp tục hoạt động, chứ chưa nói đến việc làm cho nó tốt hơn. Ta không thể làm cho nó trẻ ra, dầu có bao nhiêu người đã cố gắng làm việc đó. Bao công sức, năng lực, tiền tài đã đổ ra chỉ để giữ cho thân thể hoạt động. Nếu không thân thể sẽ hoại diệt. Ta sẽ không thể sử dụng được nó nữa. Việc nó không nghe lời ta van cầu được trẻ mãi, có sức khỏe, đẹp đẽ, sống lâu, mà chỉ làm trái ngược, cũng có thể coi là một cái khổ.

Cái khổ nhất của thân là nó luôn đòi hỏi nọ kia, mà đôi khi ta phải bỏ hết cả đời chỉ mong thỏa mãn nó. Tất cả những tiền của người ta tạo ra, bao nhiêu công sức người ta phải tổn hao, là chỉ để giữ cho thân được an toàn sung sướng. Ta phải làm việc cực nhọc để có ăn, có nhà cửa, quần áo, thuốc men. Nếu không có thân ta đâu phải vất vả như thế. Vậy mà nhiều người còn bỏ ra bao nhiêu thì giờ, tiền bạc để làm cho thân thoải mái, sung sướng hơn thế nữa. Ðó có lẽ là nỗi khổ nhất – phải hoang phí cuộc đời cho những mục tiêu như thế.

Nhưng không chỉ có thân là khổ. Tâm cũng thế. Tâm đâu có nghe theo ta. Nó chỉ làm theo ý nó, thay vì ở yên theo ý ta. Nó luôn nghĩ về những điều làm ta thêm đau khổ. Nếu đó không gọi là đau khổ, thì gì mới là đau khổ? Nó còn u mê nữa. Và đó cũng là một cái khổ.

Tâm nhảy từ việc này qua việc khác. Chính quá trình tư duy cũng là một cái khổ, ngay cả những tư tưởng khôn ngoan, khéo léo cũng có mầm bất tịnh trong đó. Khi còn phải suy tư về bất cứ điều gì thì không thể thực sự có an tĩnh.

Cả thân và tâm đều là khổ. Ðức Phật nói chỉ có một lý do, một nguyên nhân chính khiến ta đau khổ đó là ái dục, lòng ham muốn. Có ba loại ái dục chính mà những ham muốn khác đều từ đó mà ra. Ðó là ham sống, ham muốn được thỏa mãn dục lạc và ham muốn bỏ thân này. Vì ba điều ham muốn đó, ta trầm luân trong khổ đau bởi chúng ở ngoài tầm tay ta. Khó thể đạt được, khó thể làm ta thoả mãn. Chúng ta ở trong một cuộc chiến không có hy vọng thắng, và đó là cái khổ.

Ta chiến đấu để được trường tồn, nhưng không có ai còn hiện hữu khi cuộc sống của người ấy đã chấm dứt. Muốn được có dục lạc, ta cũng phải tranh đấu vật vã không kém, nhưng điều đó cũng vô vọng vì dục lạc thế gian chỉ tạm thời, chóng qua. Chúng không thể kéo dài. Ðiều ham muốn thứ ba, muốn bỏ thân này, là cái đối nghịch với lòng ham muốn được sống. Lòng ham muốn này phát sinh khi trong mắt ta cuộc đời trở nên quá đen tối. Nhưng điều này cũng khó thể thực hiện vì trừ đấng Giác Ngộ, không ai có thể hiện hữu mà không có thân.

Hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế cho thấy ta đang sống một cuộc đời thiếu ý nghĩa. Không cần biết tư tưởng ta tốt đẹp thế nào, chúng đều sẽ bị hoại diệt. Nếu ta thấy rõ ràng rằng lòng ham muốn của ta khó thể được thỏa mãn, thì ta phải tìm phương cách để thoát ra những cảnh khổ mà ai cũng phải chịu. Không ngoại trừ một ai. Hiểu như thế, ta sẽ thấy thương cảm mọi người, dầu họ là người xấu xa, đáng ghét hay ngu si. Không có kẽ hở nào nhưng có con đường để thoát ra.

Con đường thoát ra hướng vào bên trong chúng ta. Nếu suy gẫm, ta sẽ thấy ta không thể tìm được gì ở bên ngoài ta. Số đông đi tìm giải pháp ở bên ngoài, qua những điều kiện tốt hơn, người tốt hơn, ít việc hơn, ít khổ hơn. Nếu ta có thể nhìn thấy được những điều ấy vô vọng làm sao, ta sẽ không còn đi tìm kiếm ở bên ngoài nữa. Thay vào đó, ta sẽ quay nhìn vào bên trong, để dần dần đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau, gọi là giải thoát.

Ðức Phật không thực sự giải thích Giải thoát là gì. Nhưng Ðức Phật đã nói những gì không phải là Giải thoát. Ðức Phật biết rằng có giải thích cũng vô ích vì khi người ta chưa kinh qua Giải thoát, người ta không thể hiểu được điều đó. Nhưng có thể nói được thế nào là không phải Giải thoát, như thế ít nhất con người cũng không tìm kiếm ở một chỗ khác.

Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho ý tưởng trên. Xưa có một con cá và một con rùa kết bạn với nhau. Chúng đã sống trong cùng một ao hồ một thời gian dài. Một ngày kia, rùa quyết định đi thăm quang cảnh quanh hồ. Rùa đã nhìn được bao nhiêu cảnh đẹp, lạ để về kể cho bạn mình là cá nghe. Cá rất thú vị và hỏi rùa về quang cảnh trên mặt đất thế nào. Rùa trả lời rằng rất đẹp. Cá muốn biết là mọi thứ trên mặt đất có trong suốt, mát, bóng bẩy, mịn màng, trơn láng, dễ tuột, ướt át không? Khi rùa trả lời rằng trên mặt đất không có những gì giống như thế cả, cá liền nói: “Vậy thì mặt đất có gì tốt đẹp đâu?”

 

Bát Chánh Đạo

Con đường dẫn đến sự đọan diệt khổ đau, để được tự do, giải thoát, là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Giống như các lời dạy khác của Ðức Phật, Bát chánh đạo cũng dựa vào ba phần: cư xử có đạo đức (Giới), sự chú tâm (Ðịnh) và trí tuệ (Tuệ).

Bát chánh đạo cần được xem như con đường có tám ngành, tám phần ngang nhau, mà ta cần thực hành tất cả tám phần đồng đều, chứ không phải như một cái thang mà ta cần phải tuần tự leo xong cấp bực này mới bước lên bậc thang khác. Bát chánh đạo cũng có thể được xem như là một chuyển động vòng tròn vì nó bắt đầu bằng Chánh kiến và cuối cùng kết thúc bằng Chánh kiến. Dầu Chánh kiến chỉ được nhắc ở lúc ban đầu, nhưng kết quả của việc đi qua Bát chánh đạo phải là Chánh kiến.

  1. Chánh Kiến

Chánh kiến là bước đầu tiên vì trước hết ta phải thấy rõ ràng chẳng có thể làm gì khác trong cuộc đời này hơn là đi tìm con đường giải thoát khổ đau qua những giới luật tâm linh. Như thế chắc chắn là ta phải tìm cho được những giới luật đúng để giúp ta biết được mình đã làm gì sai. Những chướng ngại của chúng ta là khổ đau, thất vọng, áy náy, cảm giác không trọn vẹn. Có một khoảng trống trong trái tim ta cần được phủ lấp bằng một hay nhiều người, bằng tư tưởng, bằng công việc, hay một niềm hy vọng. Rút cuộc không có gì lấp nó đầy.

Khi một điều luật có thể giải thích được tại sao ta phiền não và chỉ cho ta phương cách đoạn trừ phiền não, tiến tới sự an vui, thì các điều luật đó phải rất đáng tin cậy. Hơn nữa, các lời thuyết giảng cũng phải gần gũi với các kinh nghiệm của chúng sanh. Pháp của Ðức Phật có thể làm được những điều đó.

Chánh kiến bao gồm việc nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều có thể thực sự tu sửa để tiến tới giải thoát. Chánh kiến cũng có nghĩa là hiểu biết về nghiệp, biết rằng chỉ có ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra cho ta, không đổ thừa hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác hay bất cứ thứ gì ở bên ngoài ta. Có nghĩa là ta làm chủ nghiệp của ta. Rằng chỉ có ta có thể thay đổi được nghiệp của mình.

Biết rằng ta có thể thay đổi không chưa đủ, cần phải có quyết tâm thay đổi. Ðó là hai cách nhìn đúng: hiểu biết về nghiệp và ước muốn thay đổi để thoát ra khỏi những khổ đau. Không phải là thay đổi thế giới ta đang sống, hay người chung quanh ta mà là thay đổi chính bản thân. Ta không thể thay đổi được vấn đề, nhưng ta có thể thay đổi phản ứng của mình trước một vấn đề. Ngoài ra ta còn có thể dần dần đi hết con đường Bát chánh đạo để đạt được một chánh kiến về tự ngã, đó là vô ngã.

Ta cần có trí tuệ để thực hành các giới luật tâm linh. Không có trí tuệ để biết mình cần phải làm gì, ta sẽ không thể tu Thiền.

Vì có khổ đau con người mới có cơ hội để thực hành. Thay vì lúc nào cũng trốn tránh mọi phiền não, cố gạt chúng ra khỏi mắt ta hay than khóc, đau đớn vì chúng, ta nên mang ơn chúng. Ðó là người thầy tốt của ta. Vị Thầy duy nhất của ta, nhưng tiếc thay không phải ai cũng biết học hỏi từ thầy mình.

Có nhiều cách để đối phó với khổ đau. Cách đầu tiên và cũng là thông dụng nhất là đổ lỗi cho người khác. Ðiều đó thì dễ rồi. Mọi người không ít thì nhiều, đều hành động như thế, nhưng cách đó hơi trẻ con. Cách thứ hai để đối phó với khổ đau, thất vọng là trở nên chán nản, đắm chìm trong khổ đau. Cách thứ ba là tự thương hại mình, cảm thấy như mình là người đang mang những nỗi khổ đau của cả thế giới. Không có ai đau khổ bằng mình, việc đó rõ ràng không đúng sự thật. Khi ta tự thương thân trách phận, ta cũng muốn cho người khác phải khổ đau như ta. Nhưng hoài công. Hành động như thế ta chỉ làm cho người khác khó chịu, bực mình. Một cách đối phó nữa với đau khổ là nghiến răng, đè nén tình cảm và làm như nó không có mặt. Cách đó cũng không giải quyết được gì vì làm ngơ thì chẳng giải quyết được gì cả.

Cách thứ năm là nhìn thẳng vào khổ đau, và nói rằng: “Ồ, bạn cũ của tôi lại đến rồi. Lần này tôi sẽ học được gì đây?”. Ðó là chánh kiến. Lúc đó ta mới thật sự hiểu rằng cõi người là cõi tốt nhất cho sự Giác ngộ. Khổ đau là người thầy tốt nhất của ta vì nó sẽ nắm chặt lấy ta, nhấn chìm ta trong đau khổ, cho đến khi ta học được điều gì từ đó. Lúc ấy, sự đau khổ mới buông thả ta. Nếu ta không học được gì trong sự đau khổ đó, chắc chắn là lần sau nó lại đến với ta nữa, vì cuộc đời có gì khác hơn là một lớp học cho người lớn. Nếu ta không qua được một môn gì đó, chắc chắn ta phải ngồi lại đó mãi. Bài học nào ta vắng mặt, ta sẽ gặp lại nó. Ðó là lý do tại sao ta bắt gặp mình nhiều lần phản ứng cùng một cách trong những hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên rồi cũng có lúc ta nhận ra điều đó, và chánh kiến phát sinh: “Tôi phải làm cái gì đó để tự thay đổi. Tôi cứ gặp phải vấn đề này mãi “

Chánh kiến là nền móng căn bản ta phải có để bước vào con đường đạo. Chánh kiến lúc mới đầu chưa giúp ta có cái nhìn đúng về tự ngã. Phải đợi đến một lúc sau. Căn bản, chánh kiến liên quan đến hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế. Khi ta thấy đúng sự thật là ta đang ở trong một cuộc chiến vô vọng nếu ta cứ tiếp tục đòi hỏi dục lạc, và bảo vệ cho cái tôi của mình, đó là ta đang đi trên con đường đạo. Ðó là lúc ta bước vào đạo, và đó là giây phút tuyệt vời. Lúc đó ta cảm thấy chắc chắn rằng ta đã tìm ra con đường đạo, và chắc chắn là ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng. Chỉ còn vấn đề thời gian. Cảm giác vui mừng đó cần thiết cho việc tu Thiền, và tu Thiền là điều kiện tiên quyết để đi trọn con đường.

Mỗi chúng ta là một minh chứng cho lời Phật dạy. Chúng ta có đau khổ, có tham muốn, nhưng chúng ta cũng có chánh kiến và có thể nhận biết nghiệp quả của mình. Chúng ta có thể thay đổi và biết học hỏi từ những kinh nghiệm khổ đau trong quá khứ. Có rất nhiều cách để ta chứng minh lời Ðức Phật dạy, nếu chúng ta để ý quan sát đủ. Ðiều đó tạo cho chúng ta niềm tin rằng ta có thể đi đến cuối con đường của Bát chánh đạo. Lòng tự tin này rất cần thiết cho sự tu tập của ta. Tự tin không có nghĩa là cao ngạo, mà là độc lập. Mỗi người chúng ta phải tự tìm sự giải thoát cho chính mình.

Ðức Phật dạy rằng ta không nên nghe theo lời Phật dạy một cách mù quáng mà phải tự tìm hiểu và chứng nghiệm được những điều Phật dạy. Trong bài Kinh Kalama nổi tiếng, Ðức Phật đã nói về mười lý do ngăn trở ta đi theo con đường tâm linh. Những điều này cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay cũng như cho dân tộc Kalama trước đây. Chúng mang đầy ý nghĩa đối với ta bây giờ cũng như trước đó.

Người Kalama đã đến gặp Phật khi Ngài đến viếng thủ đô của Kesaputta và họ thưa với Ðức Phật: “Bạch Thế Tôn, đã có rất nhiều vị giáo chủ đến thành phố của chúng con, mỗi vị đều có những giáo lý làm chúng con tin tưởng được. Tuy nhiên các vị giáo chủ lại bác bỏ, thoá mạ lẫn nhau. Giờ thì chúng con hoàn toàn không biết tin vào ai nữa. Chúng con rất hoang mang”. Ðức Phật nói: “Hỡi người Kalama, các người có nghi ngờ, thắc mắc là đúng”. Rồi Ðức Phật giảng cho họ về năm giới luật, và hỏi họ rằng có phải họ sẽ được hạnh phúc nếu họ giữ theo năm giới luật này và đau khổ nếu họ phạm giới. Người Kalama đồng ý với Ðức Phật như thế. Lúc đó Ðức Phật thuyết, “Ðừng bao giờ tin vào kinh điển, chỉ vì chúng đã được đọc tụng; biên chép hay được các Thầy truyền trao xuống, hay vì mọi người chung quanh chúng ta đều tin; cũng không nên tin vì chúng có tính cách huyền bí hay chúng giống như những điều mình vẫn tin tưởng, hay vì chúng hợp lý. Cũng đừng tin vì đó là những quan điểm mình cần bênh vực; hay vì người nói là một vị thầy nổi tiếng hay chỉ bởi vì vị Thầy mình đã nói như thế”.

Sau khi nghe lời giảng của Phật, người Kalama trở nên đệ tử của Ðức Phật. Những lời hướng dẫn đó vẫn còn đúng cho đến ngày nay. Ðừng tin tưởng vào điều gì đó vì nó là truyền thống, hay vì mọi người quanh ta tin, hay vì chúng đã được viết trong sách vở, nhưng Ðức Phật nói chỉ nên tin sau khi ta đã tìm hiểu và nhận biết rằng điều đó có ích và đúng.

Rõ ràng là ta đã tìm thấy đau khổ nơi chính bản thân và càng hướng vào bên trong để suy gẫm, ta càng thấy có nhiều bất như ý. Nhưng khi chúng ta không còn muốn biến sự đau khổ của cá nhân mình thành niềm vui cho chỉ riêng mình, thì sự xung đột sẽ biến mất, khổ đau sẽ qua đi. Chấp nhận mọi việc như chúng xảy ra cũng là chánh kiến.

Những người Bà la môn, các thầy cúng ở Ấn Ðộ thời đó, không thích Phật vì Ngài đe dọa cách kiếm sống của họ. Ngài dạy rằng con người không cần phải có người làm trung gian giữa họ với đấng thần linh, mới có được hạnh phúc, và việc đổ hương lên các thần đá, hay dâng cúng hương hoa đều vô ích. Vì đó là cách kiếm sống của người Bà la môn, nên dù cũng có nhiều người Bà la môn sau trở thành đệ tử Phật, số khác không khỏi có lòng thù hằn Ðức Phật.

Một hôm, một trong những người Bà la môn thù Phật đã đến chỗ đức Phật đang thuyết giảng, đi qua đi lại trước mặt đức Phật. Rồi ông ta dùng lời lẽ thô tục để chửi mắng Phật. Ông ta cho rằng Phật đã truyền dạy những giáo lý sai lầm, Phật đáng bị đuổi ra khỏi nước, rằng Phật đã phá vỡ nền tảng gia đình vì những người trai trẻ đi theo Ðức Phật trở thành các vị tu sĩ, rằng dân chúng không nên ủng hộ Phật; nghĩa là ông ta mạ lị Phật bằng đủ mọi lời lẽ.

Khi người Bà la môn đã hết lời chửi bới, Ðức Phật, người từ nãy giờ đã ngồi im lặng nói: “Nầy, ông Bà la môn, ông thường có khách đến nhà không?” người Bà la môn trả lời: “Dĩ nhiên tôi luôn có khách đến nhà”. Ðức Phật lại nói: “Khi có khách trong nhà ông có tiếp đãi họ không? Có cho họ đồ ăn, uống không?” Người Bà la môn trả lời: “Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên là tôi cho họ đồ ăn, thức uống”. Ðức Phật lại tiếp: “Vậy nếu họ không nhận sự tử tế ấy, họ từ chối những đồ ông cho, thì những món đồ đó thuộc về ai?” Người Bà la môn nói: “Của tôi, của tôi” Ðức Phật nói: “Ðúng vậy ông Bà la môn, khi ta không nhận những món đồ của ông. Chúng thuộc về ông”.

Ðây là một câu chuyện đáng cho chúng ta nhớ. Bất cứ sự công kích, sân hận đe dọa nào, đều thuộc về người nói ra những lời ấy. Chúng ta không phải nhận chúng là của ta.

  1. Chánh Tư duy

Phần thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh Tư duy. Chánh tư duy là kết quả của chánh kiến. Nếu có tà kiến, thì không thể nào tư duy đúng. Do đó ta phải cẩn thận với những suy nghĩ của mình. Tất cả mọi tư duy đều bị ảnh hưởng của ngã chấp. Ta nhìn mọi sự theo quan điểm của “theo tôi thấy”, vì vậy dầu quan điểm của ta đúng trong đời thường, trong đời sống tâm linh hành xử như thế cũng là không đúng. Tuy nhiên ta phải bắt đầu từ cái mình có. Không thể ngồi chờ đến ngày sự hiểu biết của ta tiến bộ hơn. Ngày đó sẽ chẳng bao giờ đến, nếu ta không bắt đầu tu sửa ngay từ bây giờ.

Hạnh phúc, an lạc không phải sinh ra là ta đã có được. Phải qua bao kiên trì cố gắng tu tập, ta mới có được. Cố gắng để làm sao ta luôn có chánh kiến, từ đó đưa đến sự suy nghĩ đúng. Chánh kiến và chánh tư duy là phần trí tuệ của Bát chánh đạo.

Trước khi Ðức Phật Giác ngộ, khi Ngài còn là một vị Bồ Tát, Ngài luôn theo dõi tất cả những hoạt động của tâm, và Ngài nhận ra rằng khi các ác kiến, sân hận, ái dục phát khởi trong tâm, thì chính Ngài là người đau khổ. Nhưng khi Ngài có những tư tưởng xả bỏ từ bi, vô nhiễm thì chính Ngài là người được lợi ích. Từ đó Ðức Phật đã rèn luyện tâm đến chỗ Ngài có thể đoạn diệt hết mọi tà kiến.

Chánh tư duy có ba đặc tính: xả, từ và vô nhiễm. Ta không thể có tâm xả chỉ bằng ao ứơc hay tự đè nén. Mà phải dùng chánh kiến suy nghĩ rằng ái dục chỉ đem lại khổ đau. Nếu ta có thể thực chứng điều đó ngay nơi bản thân thì tự nhiên ta sẽ buông bỏ mọi tham muốn dấy khởi. Và ta sẽ làm điều đó một cách vui vẻ, cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái khi buông bỏ mọi phiền não, khổ đau.

Lòng tham muốn bao giờ cũng mang lại khổ đau, vì nó chỉ dấy khởi khi ta không có được cái mà ta muốn có. Có thể là vật chất hay tinh thần, không quan trọng. Nhưng đó là điều ta không có, nên ta ao ước, do đó ta coi sự thiếu sót đó là một khổ đau. Ðến khi không được toại nguyện, thì ta buồn bực, tuyệt vọng, đau đớn, khổ sở. Rõ ràng là ta khổ vì ta không được cái ta muốn.

Tuy nhiên khi đạt được điều mình mong ước, ta cũng bị phiền não vì theo kinh nghiệm quá khứ, ta biết là sự thỏa mãn, toại nguyện không thể kéo dài. Có rồi, ta lo lắng tìm cách để giữ lại bên mình, để duy trì nó. Lo lắng là khổ, mà khi cái ta được mất đi thì ta cũng khổ.

Khi cố gắng để duy trì một cái gì đó đều đem đến cho ta sự căng thẳng, sợ hãi. Thí dụ như ta lo sợ phải đánh mất người thân, của cải, tình cảm hay hoàn cảnh thuận lợi. Lo lắng, sợ không có được điều ta mong muốn. Khi đã thực chứng cái khổ này trong ta, ta sẽ có thể buông bỏ chúng. Sự bám viú vào người, vào vật ta không muốn xa lià, làm ta đau khổ. Không có gì hơn là đau khổ phiền não cho đến ngày chính ta cũng phải ra đi. Nếu không nhìn ra được sự thật đó, ta sẽ không thể thay đổi. Khi ta có thể cho người khác vật mà ta đang quý trọng, lúc đó ta mới thật sự thực hành tâm buông xả. Nếu ta có thể cho một cách vui vẻ, chứ không phải nghiến răng, nhắm mắt vì không muốn thấy nó mất đi, thì quả rằng ta đã biết sự bám viú, chấp chặt vào gì đó là đau khổ.

Nhưng buông bỏ vật chất không quan trọng bằng buông bỏ những cái nhìn định kiến của ta về tự ngã, về thế giới và về cách những người ở chung quanh ta phải sống, cư xử như thế nào, nhất là những người thân của ta. Bám viú vào ham muốn sở hữu, làm chủ, tất cả đều là khổ đau.

Ngoài ra còn có lòng ham muốn về tinh thần, thí dụ được yêu. Ðược làm vợ, làm mẹ, được nổi tiếng, được biết ơn. Bất cứ ham muốn nào cũng là đau khổ, cản trở ta được sống hạnh phúc, an nhiên tự tại. Không chấp nhận chính mình cũng là khổ đau. Ðiều này khác với việc ta tu tập, cố gắng tự sửa đổi mình dần dần. Vì sự ao ước trong tâm tưởng là kết quả của một cảm giác thiếu hụt, không vẹn toàn, gây ra khổ. Chỉ có buông xả mới có thể dứt khỏi khổ đau. Khi còn ham muốn, ta còn đau khổ. Trong chánh tư duy đã tiềm ẩn sự buông xả. từ bi, vô nhiễm đối với đồng loại, cộng với sự hiểu biết về sự thật khổ đau hướng ta đến những tư duy đúng. Tất cả bốn sự thật (Tứ Diệu Ðế) đan kết vào nhau vì chúng đi vào tận trong tư duy sâu thẳm của ta. Nếu ta hiểu đúng, thì ta sẽ hành động đúng. Những khổ đau của chúng ta cũng là khổ đau của chúng sanh được lập đi lập lại qua không biết bao nhiêu lâu.

Thí dụ nếu ta ngắm một con chim. Thay vì để ý bộ lông nó đẹp biết bao nhiêu, giọng hót nó líu lo làm sao, nó có thể bay dễ dàng trên không trung, đi đến bất cứ nơi nào nó muốn, hãy nhìn kỹ hơn nữa. Chú chim luôn ngó qua ngó lại, quay đầu qua phải, qua trái, lo sợ con thú khác có thể tấn công nó, phá hoại ổ của nó. Lúc khác thì vì vấn đề sinh tồn, nó luôn phải đi kiếm thức ăn. Và đó chỉ là một động vật trong bao nhiêu động vật khác.

Hãy quan sát người chung quanh ta, nhìn nét mặt họ. Ðức Phật khuyên chúng ta cần phải biết thế giới bên trong và bên ngoài ta. Ðó là chánh niệm, tỉnh thức và biết. Nếu chúng ta có thể thấy rằng tất cả những người ta tiếp xúc đều có khổ đau, ta có thể suy ra, không nghi ngờ gì, đó cũng là sự thật đối với tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi. Nhưng nếu tâm ta không hoàn toàn tin phục vào điều đó, ta sẽ khó khởi tâm đại bi. Lúc nào cũng có những lời bài bác nổi lên trong đầu: “Tôi cũng thương cô ấy chứ, nếu cô ấy không nói năng như thế hay hành động như thế”. Hay “Tôi thương hại cô ấy chứ, nhưng cũng là do cô ấy tự mang hoạ đến cho mình thôi”. Những cách suy nghĩ như thế không cần thiết. Tất cả chúng ta đều khổ đau, nhưng nếu ta không nhận ra điều ấy, thì lòng từ bi bác ái của ta sẽ trở thành một thứ lúc có lúc không. Khi mọi chuyện ổn thỏa, ta có thể chịu đựng được. Nhưng khi có khó khăn, ta chịu thua. Chánh tư duy có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải cẩn trọng trong hành động và ứng xử khéo léo. Không thể tuỳ thuộc vào trạng thái tâm hồn của ta hay hành động của người khác.

Chánh tư duy là quá trình tạo nghiệp của chúng ta, khi tâm thức ta đang tạo ra tư duy. Chánh kiến có thể có được nhờ vào trí tuệ và tánh giác. Ðó là nền tảng tư duy của chúng ta. Tư duy luôn phát khởi với mỗi hành động hay phản ứng của chúng ta. “Nghiệp, này các Tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm”, đó là những lời Phật dạy. Ðó là cách chúng ta tạo nghiệp, và nếu ta thật sự tin tưởng rằng nghiệp thiện cần thiết cho một đời sống lành mạnh, thì ta cần phải cẩn thận với tư duy của mình.

Một đặc điểm thú vị của tư duy là nó giống như một tảng băng: một phần ba nổi trên mặt nước, nhưng hai phần còn lại ở dưới nước. Ta chỉ có thể thấy được phần nổi ở trên. Như chúng ta bố thí vật gì đó, ta nghĩ đó là lòng rộng lượng, nhưng ta có thực sự quán sát cái chủ tâm ở đằng sau lòng rộng lượng đó không? Ðể tự hiểu mình, ta phải tìm hiểu nội tâm mình thấu đáo. Có rất nhiều ngõ ngách trong tâm hồn con người ta. Chúng ta không muốn nhìn sự thật vì có những điều không tốt đẹp ở nơi đó. Nhưng đó là vì chúng ta chỉ là con người, nếu không ta đã ở cõi trời rồi. Tốt hơn hết là ta nên nhìn nhận khuyết điểm của mình. Chỉ có những gì được mang ra ánh sáng, mới có thể được lau chùi, làm cho tốt đẹp. Bụi bặm ở dưới chiếu sẽ không được quét sạch, nếu không ta dở tấm chiếu lên. Ðức Phật đã so sánh những nhiễm ô của ta giống như rơm ướt. Nếu ta cất chúng trong những chỗ kín, chúng sẽ rũ mục. Nhưng nếu ta đem ra phơi nắng, thì chúng sẽ khô và có thể sử dụng được. Hãy nhìn vào góc tối của tâm hồn ta và quán sát kỹ chủ tâm của ta.

Ba phần kế trên con đường Bát chánh đạo nói về hành động đạo đức: chánh ngữ, chánh mạng và chánh nghiệp.

  1. Chánh Ngữ

Lời nói rất quan trọng, ta cần phải giữ ý tứ hơn trong lời nói. Không phải vì ta có khả năng sử dụng ngôn ngữ, là ta biết nghệ thuật nói chuyện.

Ðức Phật đã có lời khuyên rất sâu sắc về ngôn ngữ, rất đáng để ta ghi nhớ: “Nếu bạn biết chuyện có hại và không đúng, đừng nói ra. Nếu bạn biết chuyện có ích, nhưng không đúng, đừng nói ra. Nếu bạn biết chuyện có ích, và đúng sự thật, hãy đợi đúng thời điểm để nói ra”.

Chúng ta phải tập bỏ nói những lời giả dối. Trước hết ta cần phải suy nghĩ những lời mình nói, để biết chắc rằng chúng hữu ích, chân thật và đúng thời, đúng lúc để nói. Khi người khác chịu lắng nghe trong một trạng thái bình tâm, tỉnh trí, thì đó là đúng lúc. Nhưng quan trọng hơn cả, những lời nói đó phải phát xuất từ lòng thương yêu của ta. Chỉ những lúc ấy ta mới nên nói điều gì. Nếu trong ta có lòng giận ghét, kình chống người nghe dù chỉ là chút ít, điều đó cũng sẽ hiện ra trong lời nói của ta, như thế lời nói của ta cũng vô ích. Ai cũng có lúc cảm thấy cần bảo người khác không nên làm điều này, điều nọ. Khi phát ngôn, hãy nhớ những lời khuyên trên để lời nói của ta có hiệu quả hơn.

Chánh ngữ thường được hiểu là không nói lời điêu ngoa, không nói chuyện người, nói hai lưỡi, nói đâm thọc, nói lời dữ ác hay chửi rủa người khác. Ðức Phật dạy rằng lời nói có thể gây thù hay kết bạn, đem lại hạnh phúc gia đình hay đổ vỡ. Nó là cội rễ của tình bạn đậm đà hay gây nên oán thù. Ðức Phật cũng nói rằng chánh ngữ cũng có nghĩa là không đi đến cực đoan, nghĩa là lúc quá nhiều lời, lúc cạy miệng không ra, laøm thế cũng bằng nói dối. Nó bắt nguồn từ ý muốn làm mình thêm quan trọng.

Khi La Hầu La, con của Ðức Phật, được 7 tuổi, Ðức Phật đã dạy con về việc không nói dối, là điều quan trọng cho trẻ con cũng như người lớn. Nếu điều đó không quan trọng đến việc dạy dỗ cho La Hầu La, Ðức Phật đã không nói đến. Ðức Phật cho con coi một cái bình có ít nước trong đó và nói với La Hầu La: “La Hầu La thấy gì trong đây?” Ðứa trẻ trả lời: “Con thấy một ít nước”. Ðức Phật nói: “Lòng tin cậy của người khác đối với kẻ nói dối cũng ít như thế”. Rồi Ngài đổ nước ra khỏi bình nói: “Giờ thì con thấy gì?” La Hầu La trả lời: “Cái bình giờ trống rỗng”. Ðức Phật nói: “Ðúng vậy, người nói dối cũng trống rỗng giống như thế”. Rồi Ngài lật ngược cái bình lại, nói: “La Hầu La giờ con thấy gì?” La Hầu La đáp: “Cái bình bị úp xuống “. Ðức Phật nói: “Ðúng vậy, người mà nói dối thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn như thế”.

Nói dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật khác. Người ta nói dối để tự bảo vệ mình, vì tham lam, để được nhiều hơn phần mình đáng được, đôi khi vì lòng sân hận, người ta nói dối để hãm hại người khác.

Lời nói dựa vào tư tưởng, vì thế nếu ta có thể chế ngự tư tưởng của mình, ta mới có thể chế ngự được lời nói. Chúng ta sẽ chánh niệm những gì chúng ta suy nghĩ, để đổi nó từ xấu xa đến thanh tịnh. Nếu ta không thể học kềm chế lời nói của mình, ta sẽ không có nhiều bạn.

Mặt khác ta phải nói lời có ý nghĩa. Tán gẫu cũng là tà ngữ. Thí dụ chỉ nói để mà nói, như là nói chuyện gia đình, đồ ăn uống, thời tiết, thăm hỏi xã giao. Nói để giải khuây, giết thời giờ. Trừ khi ta có chánh niệm, biết rõ điều mình nói, bằng không ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của mình.

Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Kinh Ðại Hạnh Phúc (Great Blessings Discourse). Thật là may mắn, nếu ta biết nói lời tử tế, lịch sự đầy ý nghĩa, đầy chân thật. Hai người có thể nói cùng một điều, với hai chủ đích khác nhau, vì thế nghiệp quả của họ cũng khác đi. Nếu ta thực tập bằng cách quán tâm của mình thì dần dần ta có thể biết được sự chủ tâm của mình, nhưng ta không thể làm thế trong khi nói.

Giới luật thứ tư trong năm giới, kiềm giữ, không nói dối, nói lời không thật, cần phải được xét lại xem nó có ý nghĩa gì trong cuộc đời ta. Nếu ta thực sự chọn hành động theo lời Phật dạy, thì giới luật đó phải được đưa lên hàng đầu, vì ai cũng nói suốt cả ngày. Khi ta nói những lời thật có ý nghĩa, mọi người sẽ lắng nghe. Khi ta nói lời tử tế, người khác sẽ vui mừng. Khi ta nói lời lịch sự ta sẽ có thêm bạn. Lời chân thật, ta sẽ được uy tín. Không có lời xiên xỏ, đâm thọc ta sẽ được tin cậy. Ta có thể tâm sự, chia sẻ với người khác về những khó khăn hay bí mật của mình. Nếu ta có thể trở nên một người như thế, ta sẽ có nhiều bạn bè và một cuộc sống bình an, vì trong tâm ta không có gì cần phải được che dấu. Ta không cần phải lo lắng về những điều mình nói, nói như thế nào, hay không biết điều mình nói có đúng không. Lời nói của ta sẽ thành dễ dàng vì đằng sau chúng là những chủ đích tốt đẹp.

Ðức Phật cũng nói về việc giảng Pháp. Cần phải chính xác, nghĩa là ta phải biết mình đang nghĩ gì, cảm giác ra làm sao. Ðiều này rất quan trọng. Mọi người khi nói Pháp, ngay cả khi nói về việc Thiền định của chính mình, cũng phải chính xác. Có nghĩa là tâm ta phải rõ ràng, lúc đó ngôn ngữ chính xác mới có thể phát ra. Ðây là những khả năng ta có thể huân tập được qua sự chánh niệm. Không phải qua những bài học về thuật hùng biện.

  1. Chánh Nghiệp

Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng. Nếu có chủ tâm đúng, dựa trên chánh kiến, thì chánh nghiệp sẽ theo sau. Tất cả đều tạo ra nghiệp cho ta, vì tất cả đều là kết quả của sự chủ tâm. Lời nói dựa vào chủ tâm. Hành động cũng dựa vào chủ tâm. Tất cả tạo ra nghiệp – tốt, xấu hay không tốt không xấu – không phải là cho ngay kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại. Nghiệp và nghiệp quả xảy ra từng giây phút. Trừ khi ta để ý đến kết quả, ta sẽ không biết rằng chúng có liên hệ với những gì ta vừa nói, vừa nghĩ hay vừa làm.

Nhờ có chánh nghiệp ta không làm hại đến sinh vật khác dưới bất cứ hình thức nào, từ bỏ lòng tham lam ác độc. Không thể đè nén lòng tham và sự ác độc. Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách khác. Ta cần phải có tâm buông bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định. Khi tọa Thiền, ta phải dứt bỏ mọi tham ái, nếu không sẽ không có Thiền định. Chỉ có vọng tưởng, hy vọng, ước mong, sợ hãi, nhớ tưởng. Nếu không buông bỏ được những trạng thái này của tâm, thì ta khó thể tham Thiền. Thiền định là xả, buông bỏ mọi lăng xăng của tâm, ngã tưởng và ái dục. Vì ta chưa thực tập buông bỏ được nhiều, ta rất khó ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ dễ tọa Thiền hơn. Cố gắng đè nén chúng không có kết quả gì, nhưng sự buông bỏ cái ý muốn suy tư, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem lại kết quả khả quan nhất. Buông bỏ lòng ham muốn là con đường duy nhất dẫn tới sự bình an, và khi đã kinh nghiệm được như thế, ta sẽ hiểu được rằng buông bỏ lòng ham muốn trong đời sống hàng ngày sẽ mang lại cho ta hạnh phúc.

Chánh nghiệp có thể thực hiện được trong mọi hoàn cảnh, bởi bất cứ ai, bất cứ lúc nào, dầu ở nhà, hay nơi công sở, hay chốn tu hành. Bất cứ nơi nào, bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta đều phải hành động. Chúng ta có thể xét xem những hành động có ích lợi cho người khác hay cho chúng ta. Ngay cả việc nấu ăn hay dọn dẹp nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, không phải vì bổn phận, vì được yêu cầu hay vì sợ người khác. Lý do chánh để ta làm điều đó là vì ở đúng một thời điểm nào đó, việc đó cần đuợc thực hiện với một mục đích. Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta biết được chủ đích thực sự và quan điểm của mình trong các hành động. Ta có thể thấy được sự liên kết giữa thân và tâm, mà không cần phải để ý đến những thứ bên ngoài ta. Sẽ không có sự miễn cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm với cả tấm lòng. Chỉ có như thế thì hành động của ta mới mang lại kết quả gì.

Thường người ta nghĩ rằng công việc làm ta không còn thì giờ vui chơi, tiêu khiển. Ðó rõ ràng là một cái nhìn sai lầm. Chính sự vui chơi mới làm gián đoạn công việc. Dầu làm bất cứ nghề gì, công việc cũng là phương tiện để ta cảm thấy hữu ích, sống có mục đích. Công việc là phương tiện giúp ta hoàn toàn chú tâm đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân. Công việc là cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người, phát triển các kỹ năng và biểu lộ tình thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ. Không có phương tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hoá thân tâm bằng công việc. Không chỉ làm để kiếm sống hay vì người khác đòi hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm lòng như một phương tiện để thấu hiểu mọi việc hơn.

  1. Chánh Mạng

Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh. Chánh mạng có nghĩa là phương tiện ta kiếm sống không làm hại đến ai. Mỗi người phải tự mình biết điều đó. Có nhiều cách kiếm sống được coi là “đúng”, hơn là “sai”, nhưng cũng có những cách kiếm sống thật tai hại. Ðể đánh giá, ta có thể dựa vào năm giới luật. Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm điều cấm, thì rõ ràng đó là sai.

Chánh mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh hóa, vì nếu ta theo đuổi một cách kiếm sống sai lầm, ta sẽ trở nên chai lì, và thói quen tội lỗi sẽ thành hình. Một người đồ tể, trong các lò sát sinh, chẳng hạn, phải giết chết hết mọi cảm xúc của mình mới có thể tiếp tục làm công việc này. Nếu không, anh ta khó mà làm công việc này. Một con người như thế sẽ trở nên chai cứng, không còn lòng thương xót đối với các chúng sanh.

Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại. Nói dối, uống rượu, lấy của người, tất cả là những phương tiện kiếm sống không lương thiện. Cũng có người sinh sống bằng những quan hệ tình dục sai tráí. Rõ ràng là những cách kiếm sống dựa trên ái dục, không chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề này mà còn gây khổ lụy cho người khác. Và họ tiếp tục làm những việc này bằng cách tự biện hộ lý giải cho hành động của họ. Nhưng đó là tà kiến của họ. Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần phải dựa vào chánh kiến.

  1. Chánh Tinh Tấn

Sự tinh tấn và năng lựơng có ảnh hưởng cộng sinh. Nhờ có năng lượng, ta mới có tinh tấn. Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh tấn, thì năng lượng càng tăng thêm. Năng lượng là nhiên liệu của sự tinh tấn, cũng như ngược lại. Tinh tấn có vẻ như đối nghịch với sự thoải mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp tục tham Thiền, đến một lúc nào đó, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ có tinh tấn ta mới có được sự thoải mái, dễ chịu.

Ðức Phật đã chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật là những phương tiện hữu ích. Chúng được gọi là “ba la mật” (tối thượng) vì chúng rất hữu ích và cũng rất khó thực hiện. “Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó tiếp tục, nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nó chưa phát sinh. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó đã dấy khởi “.

Ðể làm được như thế ta phải theo dõi tâm mình, và phải biết phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Ðó là một trong những lý do tại sao tôi đã khuyên các bạn nên đặt tên cho tư tưởng của mình, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền. Chỉ khi nào ta biết mình nghĩ gì, ta mới có thể có những biện pháp thích ứng. Ta cần biết tâm mình đang có những ác niệm hay niệm lành, cần biết phân biệt rõ ràng như thế, ta mới có thể thực hành được lời dạy trên của Ðức Phật.

Cần phải có rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác niệm không dấy khởi, vì ta phải biết rõ về chủ đích ở phía đằng sau. Với những tư tưởng đang dấy khởi, điều đó dễ dàng hơn. Vì thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta có đủ khả năng để biết một điều gì đó không được tốt đang chực chờ bộc phát, để ngăn chận không cho nó xuất hiện.

Khi hành thiền, mọi tư tưởng đều vô ích vì ta không muốn suy nghĩ, mà muốn thiền. Trong cuộc sống hàng ngày thì lại khác. Ta cần phải dẹp bỏ mọi ác niệm. Cố gắng đè nén chúng không ích lợi gì. Mà nên buông bỏ chúng, hoặc thay chúng bằng những thiện niệm. Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng bằng sự chủ tâm vào thiền quán. Ta có làm được điều đó hiệu quả hay không trong thiền, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật trong đời sống hàng ngày. Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta có thực hành tốt hay không bốn tinh tấn ba la mật, thì điều này lại phản ánh trong lúc ta tu tập Thiền. Những ác niệm trong đời sống hàng ngày hiện lên trong sự lăng xăng, không yên tĩnh lúc ta tọa thiền. Trong khi những ý niệm lành luôn được nuôi dưỡng, và không bao giờ sai lệch, sẽ đem lại an bình và yên tĩnh cho tâm ta.

Nếu ta không thể nhớ gì về những điều Phật dạy trừ bốn tinh tấn ba la mật này, thì cũng là đủ. Những điều khác, nếu chúng ta có nhớ, có thể giúp ta thêm phấn khởi, thêm thanh cao, nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp người thực tập chúng dễ dàng đạt được sự thanh tịnh.

Cần phải có chánh kiến để nhận ra rằng đó là những điều chúng ta cần làm, và muốn thực hành, ta cần phải huân tập công phu. Trên cõi đời này rất ít có người hoàn toàn không có ác niệm. Vì ta tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống trong một thế giới cũng nhiễu nhương, hỗn loạn. Không phải là các ngôi nhà cao tầng, xe cộ hay các cơ chế chính quyền làm nên thế giới này. Nhưng chính là quá trình tư duy của chúng ta đã làm nên sự khác biệt giữa chiến tranh hay hoà bình, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngoài ta.

Ðặt tên cho các ý nghĩ của mình, có nghĩa là ta biết ta đang nghĩ gì. Tốt nhất là ta thực hành các điều này khi hành Thiền, là khi ta có thể thấy rõ ràng tâm ta luôn luôn lăng xăng. Các tư tưởng của ta có thể xấu hoặc tốt hoặc trung tính, không tốt không xấu, có thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng, lo âu hay sợ sệt, ghen ghét, ganh tị hay hoàn toàn mù mịt. Trừ khi ta biết rõ những điều này, ta không thể nhìn trở vào để tự quán sát, ta sẽ không bao giờ hiểu tại sao mình lại có những cảm giác như thế hay hành động như thế.

Bốn tinh tấn ba-la-mật là những điểm cơ bản trên con đường đạo. Trong khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuông, chùa chiền chỉ là những thứ trang sức bên ngoài. “Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó tiếp tục, nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nó chưa dấy khởi. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó đã phát sinh”. Ðó là quá trình thanh tịnh hoá tư tưởng, và cũng đưa đến sự thanh tịnh hoá lời nói và việc làm. Khi những điều đó xảy ra, ta có thể thấy rõ ràng hơn. Một tấm gương trong suốt với mặt gương sạch bóng không dính buị dơ, là tấm gương có thể phản chiếu được những hình ảnh trong sạch.

Ta cần phải tinh tấn trong bất cứ việc gì mình làm, nhất là trong lúc tọa thiền. Vì dầu hành thiền một cách tinh tấn, ta cũng không thể thấy những kết quả tức thời. Ðiều đó có thể khiến tâm thoái hoá, không có được sự tinh tấn ban đầu. Khi tâm đòi phải có kết quả tức thời, đó là sự trói buộc, bám víu, đòi hỏi. Ðó là lòng ham muốn, do đó đưa đến đau khổ.

Làm điều gì cũng thế. Ta thường trông mong kết quả, rồi khi kết quả không như ý, thì sinh ra chán nản, buồn rầu. Tinh tấn vì tinh tấn, không vì mong muốn kết quả. Có được chánh tinh tấn là một thiện nghiệp, không cần biết đến kết quả như thế nào. Như khi tham thiền, dầu ta chưa thấy kết quả rõ ràng, tức thời, nghiệp thiện cũng đã được hình thành do có chủ đích tốt.

Chỉ cần có chánh tinh tấn, ta cũng đã có được lợi ích, nhưng ít khi ta để ý đến điều đó. Ta còn mãi trông đợi những phần thưởng vật chất. “Tôi đã quá cố gắng mà vẫn không thể chú tâm”hay “Tôi đã thương yêu con cái biết bao nhiêu, nhưng chúng chẳng hề biết ơn”, “Tôi đã chăm sóc cho cô tôi bao nhiêu lâu, vậy mà cô ấy chưa bao giờ nói lời tử tế với tôi”. Ðó là một thái độ sai lầm. Sự cố gắng của ta đã là một nghiệp thiện, đó chính là kết quả. Không cần biết ai khác nói gì hay kết quả ra làm sao, đó là vấn đề thứ yếu. Ðôi khi ta đạt được định. Ðôi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ. Nhưng điều đó không liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta. Nếu ta không thay đổi cách nhìn, thì ta luôn phải phụ thuộc vào kết quả. Như thế sự tinh tấn của ta sẽ lúc có, lúc không vì kết quả cũng lúc có lúc không. Nếu tinh tấn không luôn có mặt, rõ ràng nó không có hiệu lực. Chánh tinh tấn cần phải luôn vững chắc.

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app