3641. Idaṃ te raṭṭhaṃ sadhanaṃ sayoggaṃ sakāyuraṃ sabbakāmūpapannaṃ, idante rajjaṃ anusāsa amma gacchāmahaṃ yattha piyā pabhāvatī.
3641. “Đất nước này là thuộc về mẹ, có tài sản, có cỗ xe, có biểu hiệu (của đức vua), được đầy đủ tất cả các dục. Thưa mẹ, xin mẹ hãy lãnh đạo vương quốc này của mẹ.Con đi đến nơi nào mà nàng Pabhāvatī đáng yêu (đang ở).”
1. Đất nước này hoan lạc ngập tràn
Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
Con sẽ ra đi để kiếm nàng.
3642. Anujjubhūtena haraṃ mahantaṃ divā ca ratto ca nisīthakāle, paṭigaccha tvaṃ khippaṃ kusāvatiṃ kusa na icchāmi dubbaṇṇamahaṃ vasantaṃ.
3642. “Trong khi mang vác nặng nề một cách không chính đáng, vào ban ngày, vào ban đêm, và vào lúc nửa đêm, hỡi chàng Kusa, chàng hãy mau trở về thành Kusāvatī. Thiếp không muốn kẻ có bộ dạng xấu xa sống (ở nơi này).
2. Ku-sa, ngài phải chịu ngày đêm
Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!
3643. Nāhaṃ gamissāmi ito kusāvatiṃ pabhāvatī vaṇṇapalobhito tava, ramāmi maddassa niketaramme hitvāna raṭṭhaṃ tava dassane rato.
3643. “Này Pabhāvatī, bị tham đắm sắc đẹp của nàng, ta sẽ không từ nơi này đi về lại thành Kusāvatī. Ta vui thích chỗ ở đáng yêu thuộc xứ sở Madda. Sau khi từ bỏ đất nước, ta được vui thích trong việc nhìn thấy nàng.
3. Pab-hà, say đắm bởi dung nhan,
Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
3644. Pabhāvatī vaṇṇapalobhito tava sammūḷharūpo vicarāmi mediniṃ, disaṃ na jānāmi kutomhi āgato tayamhi matto migamandalocane.
3644. Này Pabhāvatī, bị tham đắm sắc đẹp của nàng, ta lang thang ở trái đất, với dáng vẻ ngây dại. Ta không nhận biết phương hướng. Từ nơi nào ta đã đi đến? Ta say mê nàng ở cặp mắt ngơ ngác của loài nai.
4. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
3645. Suvaṇṇa cīravasane jātarūpasumekhale, sussoṇi tava kāmā hi nāhaṃ rajjenamatthiko.
645. Hỡi cô nàng khoác y phục dệt sợi vàng, hỡi cô nàng có thắt lưng xinh đẹp bằng vàng, hỡi cô nàng có eo thon, bởi vì lòng ham muốn đối với nàng, ta không còn hứng thú với đất nước.”
5. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!
3646. Abbhū hi tassa bho hoti yo anicchantamicchati, akāmaṃ rāja kāmehi akanto kantamicchasi.
3646. “Thật không thực tế đối với ngài đây, là kẻ mong muốn một người không mong muốn (mình). Tâu bệ hạ, bệ hạ ham muốn một người không ham muốn (bệ hạ); là kẻ không được yêu, bệ hạ lại muốn trở thành người được yêu.”
6. Rủi thay phận kẻ mãi mong cầu
Thấy bị chối từ mọi ước ao,
Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
Tình kia chẳng đáp được đâu nào!
3647. Akāmaṃ vā sakāmaṃ vā yo naro labhate piyaṃ, lābhamettha pasaṃsāmi alābho tattha pāpako.
3647. “Người nào đạt được người mình yêu, cho dầu người kia không tự nguyện hay là có sự tự nguyện, ta ca ngợi việc đạt được trong trường hợp này, việc không đạt được trong trường hợp ấy là tệ hại.”
7. Ai chiếm được người dạ luyến thương,
Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
Thất bại là bi thảm đoạn trường!
3648. Pāsāṇasāraṃ khaṇasi kaṇikārassa dārunā, vātaṃ jālena bādhesi yo anicchantamicchati.
3648. “Bệ hạ đào đá rắn bằng thanh gỗ của cây kaṇikāra, bệ hạ ngăn cản gió bằng tấm lưới, là kẻ mong muốn một người không mong muốn (mình).”
8. Theo đuổi nữ nhi chẳng thuận lòng
Khác nào đào đá tảng trên đồng,
Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
Hay đón gió bằng chiếc lưới không!
3649. Pāsāṇo nūna te hadaye ohito mudulakkhaṇe, yo te sātaṃ na vindāmi tirojanapadāgato.
3649. “Hỡi cô nàng có đặc điểm dịu dàng, ta đây đã đi đến, băng ngang qua các xứ sở, mà ta không tìm thấy sự hứng thú ở nơi nàng. Có lẽ tảng đá đã đè nặng ở trái tim của nàng.
9. Như đá trơ trơ, quả dạ nàng,
Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
Không lời thăm hỏi dù ta đến
Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!
3650. Yadā maṃ bhūkuṭiṃ katvā rājaputti udikkhasi, āḷāriko tadā homi rañño maddassa thīpure.
3650. Hỡi nàng công chúa, khi nào nàng cau mày nhìn ta, khi ấy ta là người đầu bếp ở hậu cung của đức vua xứ Madda.
10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.
3651. Yadā umhayamānā maṃ rājaputti udikkhasi, nāḷāriko tadā homi rājā homi tadā kuso.
3651. Hỡi nàng công chúa, khi nào nàng nhìn ta mỉm cười, khi ấy ta không phải là người đầu bếp, khi ấy ta là đức vua Kusa.”
11. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
Hạ cố ban ta một nụ cười,
Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
Ku-sa chúa tể ngự trên đời!
3652. Sace hi vacanaṃ saccaṃ nemittānaṃ bhavissati, neva me tvaṃ pati assa kāmaṃ chindantu sattadhā.
3652. “Bởi vì, nếu lời nói của các thầy bói tướng sẽ là sự thật, thì hãy để cho họ chặt thiếp thành bảy mảnh theo như ý muốn, chứ ngài không bao giờ có thể trở thành chồng của thiếp.”
12. Nếu thầy tướng số nói không sai,
Thì chính tiên tri đúng thế này:
"Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.
3653. Sace hi vacanaṃ saccaṃ aññesaṃ yadi vā mama, neva tuyhaṃ pati atthi añño sīhassarā kusā.
3653. “Bởi vì, nếu lời nói của những người khác hay của ta là sự thật, thì không có người nào khác là chồng của nàng, ngoại trừ đức vua Kusa có giọng nói sư tử.”
13. Nếu thầy tướng số khác cùng ta
Nói những lời chân thật, quả là:
Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!
3654. Nekkhaṃ gīvante kāressaṃ patvā khujje kusāvatiṃ, sace maṃ nāganāsūru olokeyya pabhāvatī.
3654. “Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi nhìn ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.
14. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
3655. Nekkhaṃ gīvante kāressaṃ patvā khujje kusāvatiṃ, sace maṃ nāganāsūru ālapeyya pabhāvatī.
3655. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi nói chuyện với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.
15. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
3656. Nekkhaṃ gīvante kāressaṃ patvā khujje kusāvatiṃ, sace maṃ nāganāsūru umhāyeyya pabhāvatī.
3656. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi mỉm cười với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.
16. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
3657. Nekkhaṃ gīvante kāressaṃ patvā khujje kusāvatiṃ, sace maṃ nāganāsūru pamhāyeyya pabhāvatī.
3657. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi cười đùa với ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.
17. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
3658. Nekkhaṃ gīvante kāressaṃ patvā khujje kusāvatiṃ, sace maṃ nāganāsūru pāṇīhi upasamphuse.
3658. Này bà gù, nếu nàng Pabhāvatī có cặp đùi như vòi voi chạm các bàn tay vào ta, thì ta sẽ bảo làm cho bà tấm lắc vàng ở cổ, sau khi ta về lại Kusāvatī.”
18. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
Đưa tay âu yếm đặt vào ta!
3659. Nahi nūnāyaṃ rājaputtī kuse sātampi vindati, āḷārike bhate pose vetanena anatthike.
3659. “Chẳng lẽ cô công chúa này không tìm thấy sự hứng thú ở nơi vua Kusa, khi ông ta là người đầu bếp phục dịch không vì mục đích lương bổng.”
19. Công nương này chẳng thấy lòng vui
Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.
3660. Nahi nūna ayaṃ khujjā labhati jivhāya chedanaṃ, sunisitena satthena evaṃ dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.
3660. “Chẳng lẽ trong khi nói lời nói tệ hại như vậy, cái bà gù này không đáng được việc cắt đứt cái lưỡi bằng con dao bén ngót.”
20. Mụ già nô lệ lưng gù vầy
Sao dám buông lời quái dị thay!
Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!
3661. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mahāyasoti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3661. “Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có danh tiếng lẫy lừng.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
21. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
3662. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mahaddhanoti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3662. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có tài sản kếch sù.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
22. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
3663. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mahabbaloti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3663. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có binh lực vĩ đại.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
23. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
3664. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mahāraṭṭhoti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3664. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có đất nước rộng lớn.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
24. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
3665. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mahārājāti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3665. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là đại vương.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
25. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Ngài là vị Đại đế hùng oai.
3666. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, sīhassaroti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3666. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói sư tử.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
26. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Giọng của ngài như sư tử hống,
Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
3667. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, vaggussaroti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3667. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói êm dịu.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
27. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
3668. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, bindussaroti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3668. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói tròn trịa.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
28. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
3669. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, mañjussaroti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3669. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói dịu dàng.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
29. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
3670. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, madhurassaroti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3670. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này có giọng nói ngọt ngào.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
30. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài như mật rót vào tai!
3671. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, satasippoti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3671. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này biết trăm ngành nghề.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
31. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
Vì ngài có cả một trăm tài.
3672. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, khattiyoti karitvāna karassu rucire piyaṃ.
3672. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là Sát-đế-lỵ.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.
32. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
3673. Mā naṃ rūpena pāmesi ārohena pabhāvati, kusarājāti katvāna karassu rucire piyaṃ.
3673. Này Pabhāvatī, cô chớ đánh giá ngài ấy qua hình dáng và chiều cao. Hãy ghi nhớ rằng: ‘Vị này là đức vua Kusa.’ Này cô gái xinh xắn, cô hãy tỏ ra đáng yêu.”
33. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Ku-sa Đại đế, chính là ngài!
3674. Ete nāgā upatthaddhā sabbe tiṭṭhanti vammitā, purā maddanti pākāraṃ ānentetaṃ pabhāvatiṃ.
3674. “Những con voi này là hung hãn, tất cả đã được mang giáp đứng dàn trận. Hãy để cho chúng đưa công chúa Pabhāvatī này đi trước khi chúng dẫm nát tường thành.”
34. Như thể bầy voi trận vẻ vang
Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
Xin chúa mau mau gửi cống nàng!
3675. Satta khaṇḍe karitvāna ahametaṃ pabhāvatiṃ, khattiyānaṃ padassāmi ye maṃ hantumidhāgatā.
3675. “Trẫm sẽ phanh thây công chúa Pabhāvatī này thành bảy phần và sẽ ban cho các vị Sát-đế-lỵ đã đi đến đây để giết chết trẫm.”
35. Chặt Pa-bhà bảy khúc cho cân,
Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
Cho bảy vua kia, người một mảnh,
Những người đến giết phụ vương nàng!
3676. Athuṭṭhahī rājaputtī sāmā koseyyavāsinī, assupuṇṇehi nettehi dāsīgaṇapurakkhatā.
3676. Nàng công chúa đã đứng dậy, xuống sắc, choàng tấm lụa dệt sợi vàng, với đôi mắt đẫm lệ, được hầu cận bởi đám nữ tì.
36. Diễm lệ, dù da nhuốm sắc đen,
Bà hoàng vụt cất bước chân lên
Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.
3677. Taṃ nūna kakkūpasevitaṃ mukhaṃ ādāsadantātharupaccavekkhitaṃ, subhaṃ sunettaṃ virajaṃ anaṅgaṇaṃ chuddhaṃ vane ṭhassati khattiyehi.
3677. “Có lẽ khuôn mặt mỹ miều, với đôi mắt xinh đẹp, không lấm bụi, không vết nhơ, được thoa son phấn, được ngắm nhìn ở tấm gương có cán ngà ấy sẽ bị quăng bỏ và tồn tại ở trong rừng bởi các vị Sát-đế-lỵ.
37. Mặt phấn điểm trang, này soi gương sáng
Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
3678. Te nūna me asite vellitagge kese mudū candanasāralitte, samākule sīvathikāya majjhe pādehi gijjhā parikaḍḍhayanti.
3678. Có lẽ những sợi tóc đen tuyền, có phần ngọn đã được uốn cong, mềm mại, đã được xức tinh dầu trầm hương ấy của con sẽ vương vãi ở giữa bãi tha ma, và các con kên kên sẽ lôi đi bằng những bàn chân.
38. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
3679. Tā nūna me tambanakhā sulomā bāhā mudū candanasāralittā, chinnā vane ujjhitā khattiyehi gayha dhaṅko gacchati yenakāmaṃ.
3679. Có lẽ hai cánh tay có móng màu đồng đỏ, có lông đẹp, mềm mại, đã được xức tinh dầu trầm hương ấy của con sẽ bị các vị Sát-đế-lỵ chặt đứt, rồi thảy bỏ ở trong rừng, và chim quạ sẽ gắp lấy rồi ra đi theo như ý muốn.
39. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
3680. Te nūna tālūpanibhe alambe nisevite kāsikacandanena, thanesu me lambissati sigālo mātūva putto taruṇo tanūjo.
3680. Có lẽ con chó rừng sẽ đeo bám hai bầu vú không bị thõng xuống tương tự trái thốt nốt, được tẩm với trầm hương xứ Kāsi của con, tựa như đứa con trai, còn nhỏ dại, bé bỏng, bám vào vú mẹ.
40. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
3681. Taṃ nūna soṇiṃ puthulaṃ sukoṭṭhitaṃ nisevitaṃ kañcanamekhalāhi, chinnaṃ vane khattiyehī avatthaṃ sigālasaṅghā parikaḍḍhayanti.
3681. Có lẽ cặp mông đầy đặn, khéo được vỗ về, được quen thuộc với những dây nịt bằng vàng ấy sẽ bị các vị Sát-đế-lỵ chặt đứt, rồi ném bỏ ở trong rừng, và bầy chó rừng sẽ tranh giành.
41. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
3682. Soṇā dhaṅkā sigālā ca ye caññe santi dāṭhino, ajarā nūna hessanti bhakkhayitvā pabhāvatiṃ.
3682. Những con chó, những con quạ, những con chó rừng, và những loài thú khác có răng nanh, sau khi ăn thịt Pabhāvatī, có lẽ sẽ không bị già.
42. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
Không thể nào còn phải chịu chết già.
3683. Sace maṃsāni hāresuṃ khattiyā dūragāmino, aṭṭhīni amma yācitvā anupanthe dahātha naṃ.
3683. Thưa mẹ, nếu các vị Sát-đế-lỵ đến từ phương xa ra lệnh mang đi các phần thịt, thì mẹ hãy xin lại các mẩu xương rồi thiêu nó ở dọc đường lộ.
43. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.36
84. Khettāni amma kāretvā kaṇikārettha ropaya, yadā te pupphitā assu hemantānaṃ himaccaye, sareyyātha mamaṃ amma evaṃvaṇṇā pabhāvatī.
3684. Thưa mẹ, mẹ hãy cho thực hiện các thửa ruộng rồi trồng cây kaṇikāra ở nơi này. Vào lúc các cây ấy trổ bông vào cuối mùa tuyết rơi của những tháng mùa đông, thưa mẹ, mẹ có thể nhớ đến con rằng: ‘Pabhāvatī có màu da như vầy.’”
44. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
"Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế..."
3685. Tassā mātā udaṭṭhāsi khattiyā devavaṇṇinī, disvā asiñca sūṇañca rañño maddassa thīpure.
3685. Sau khi nhìn thấy thanh gươm và thớt gỗ ở hậu cung của đức vua xứ Madda, vị nữ Sát-đế-lỵ có vóc dáng Thiên thần, mẹ của nàng công chúa, đã đứng lên.
45. Khi nhìn tấm thớt với gươm trần
Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
Vội đi tìm gặp đấng vương quân.
3686. Iminā nūna asinā susaññaṃ tanumajjhimaṃ, dhītaraṃ mama hantvāna khattiyānaṃ padassasi.
3686. “Có lẽ với thanh gươm này, bệ hạ sẽ giết chết cô con gái vô cùng giỏi giang, có vòng eo thon, của thiếp rồi ban cho các vị Sát-đế-lỵ.”
46. Với gươm này, chúa tể Mạch-đa
Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
Mỗi vua cừu địch để làm quà.
3687. Na me akāsi vacanaṃ atthakāmāya puttike, sājja lohitasañchannā gañchisi yamasādhanaṃ.
3687. “Này con gái, con đã không làm theo lời nói nhằm mong muốn điều lợi ích của mẹ. Hôm nay, con đây, (toàn thân) bị bao trùm bởi máu, đi đến lãnh địa của Diêm Vương.
47. Con chẳng nghe lời nói của ta
Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
Nay thân con phải vương màu máu,
Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
3688. Evamāpajjatī poso pāpiyañca nigacchati, yo ve hitānaṃ vacanaṃ na karaṃ atthadassinaṃ.
3688. Thật vậy, người nào không làm theo lời nói chỉ rõ sự lợi ích của các bậc hữu ân, người vi phạm như vậy thì đọa vào điều tệ hại hơn.
48. Số phận kia ta phải gánh mang
Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
Bỏ các lời răn của bạn vàng.
3689. Sace tvaṃ amma dhāresi kumāraṃ cārudassanaṃ, kusena jātaṃ khattiyaṃ suvaṇṇamaṇimekhalaṃ, pūjitaṃ ñātisaṅghehi na gañchisi yamakkhayaṃ.
3689. Này con, nếu con chấp nhận vị hoàng tử có vẻ đáng mến, vị Sát-đế-lỵ được sanh ra bởi dòng họ Kusa, có thắt lưng bằng vàng và ngọc ma-ni, được tôn vinh bởi tập thể thân quyến, con sẽ không đi đến trú xứ của Diêm Vương.
49. Ví thử hôm nay con sánh vai
Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
Thì hẳn bạn bè không hộ tống
Con đành mau bước xuống tuyền đài.
3690. Yatthassu bherī nadati kuñjaro paṭikujjati, khattiyānaṃ kule bhadde kinnu sukhataraṃ tato.
3690. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, là nơi có trống đánh vang, có voi gầm rống, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?
50. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
3691. Asso hasisati dvāre kumāro uparodati, khattiyānaṃ kule bhadde kinnu sukhataraṃ tato.
3691. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, có ngựa hí vang ở ngoài cửa, có nhạc công ca hát, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?
51. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
Lạc thú như vầy trong bảo điện
Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
3692. Mayūrakoñcābhirude kokilābhinikūjite, khattiyānaṃ kule bhadde kinnu sukhataraṃ tato.
3692. Ở gia tộc của các vị Sát-đế-lỵ, có tiếng kêu của chim công, chim cò, được vang dội với tiếng kêu của chim cu cu, này con gái ngoan, cái gì là hạnh phúc hơn điều ấy?
52. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
Như vầy cực lạc sao tìm được
Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?
3693. Kahaṃ nukho sattumaddano pararaṭṭhappamaddano, kuso soḷārapaññāṇo so no dukkhā pamocaye.
3693. Vậy vị đánh bại kẻ thù, vị phá tan đất nước của kẻ khác, vị Kusa có trí tuệ cao cả ở đâu? Vị ấy có thể giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau.”
53. Nay ở đâu người dẫm nát tan
Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!
3694. Idheva so sattumaddano pararaṭṭhappamaddano, kuso soḷārapaññāṇo yo no dukkhā pamocaye.
3694. “Vị đánh bại kẻ thù, vị phá tan đất nước của kẻ khác, vị Kusa có trí tuệ cao cả ấy ở ngay tại nơi này, là vị có thể giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau.”
54. Bậc chiến thắng tiêu diệt kẻ thù,
Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!
3695. Ummattikā nu bhaṇasi ādu bālāva bhāsasi, kuso ce āgato assa kiṃ na jānemu taṃ mayaṃ.
3695. “Con điên rồ nên mới nói vậy, hoặc con phát ngôn như là kẻ ngu si. Nếu vị Kusa đã đến, tại sao chúng ta không hay biết điều ấy?”
55. Phải chăng con đã hóa điên rồ,
Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
Ví thử Ku-sa đà trở lại,
Thì sao con chẳng nói cùng ta?
3696. Eso āḷāriko poso kumārīpuramantare, daḷhaṃ katvāna saṃvelliṃ kumbhiṃ dhovati onato.
3696. “Người này là gã đàn ông đầu bếp ở trong cung của các công nương, là kẻ đã vấn chặt y phục và đang cuối xuống rửa cái chảo.”
56. Mẹ trông! Kẻ nấu bếp đằng kia
Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.
3697. Veṇī tvamasi caṇḍālī ādūsi kulagandhinī, kathaṃ maddakule jātā dāsaṃ kayirāsi kāmukaṃ.
3697. “Có phải con là cô gái thấp hèn, là nữ nhân dòng hạ tiện? Hay con là kẻ bôi nhọ gia đình? Sanh ra ở dòng tộc Madda, tại sao con có thể bày tỏ dục vọng với kẻ nô lệ?”
57. Con hạ tiện dòng dõi phải chăng?
Đường đường là một vị công nương
Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!
3698. Namhi veṇī na caṇḍālī na camhi kulagandhinī, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3698. “Con không phải là cô gái thấp hèn, không phải là nữ nhân dòng hạ tiện, và không phải là kẻ bôi nhọ gia đình. Gã ấy là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
58. Hạ tiện, con đâu phải giống dòng!
Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
May thay, ngài chẳng là nô lệ,
Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.
3699. Yo brāhmaṇasahassāni sadā bhojeti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3699. Người này luôn luôn dâng vật thực đến hai mươi ngàn vị Bà-la-môn, là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
59. Hai vạn Sa-môn vẫn cúng dường,
Chính là Thái tử Ok-kà vương,
Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
3700. Yassa nāgasahassāni sadā bhojenti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3700. Người ta luôn luôn cung cấp thức ăn cho hai mươi ngàn con voi của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
60. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
3701. Yassa assasahassāni sadā bhojenti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3701. Người ta luôn luôn cung cấp thức ăn cho hai mươi ngàn con ngựa của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
61. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
Ok-kà vương tử là ngài đó,
Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
3702. Yassa rathasahassāni sadā yojenti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3702. Người ta luôn luôn thắng ngựa vào hai mươi ngàn cỗ xe của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
62. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
Ngài không nô lệ, đấy con thề,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
3703. Yassa usabhasahassāni sadā yojenti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3703. Người ta luôn luôn nai nịt cho hai mươi ngàn bò mộng của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!
63. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
Là người mẹ thấy đứng bên đường.
3704. Yassa dhenusahassāni sadā duyhanti vīsatiṃ, okkākaputto bhaddante tvannu dāsoti maññasi.
3704. Người ta luôn luôn vắt sữa hai mươi ngàn bò cái của người này. Người này là con trai của vua Okkāka. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho mẹ. Vậy mà mẹ lại nghĩ là ‘kẻ nô lệ’!”
64. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
Mà là Thái tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.
3705. Taggha te dukkaṭaṃ bāle yaṃ khattiyaṃ mahabbalaṃ, nāgaṃ maṇḍūkavaṇṇena na taṃ akkhāsi āgataṃ.
3705. “Này cô con gái khờ dại, quả thật con đã có điều sái quấy! Con không nói (với trẫm) về việc vị Sát-đế-lỵ có binh lực vĩ đại, bậc long tượng ấy đã đi đến với bộ dạng của con ếch.”
65. Như thể voi kia giả ểnh ương,
Đến đây Thái tử đại hùng cường,
Con sai lầm quá và khờ dại,
Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.
3706. Aparādhaṃ mahārāja tvaṃ no khama rathesabha, yaṃ taṃ aññātavesena naññāsimhā idhāgataṃ.
3706. “Ôi đại vương, xin con rể hãy tha thứ cho lỗi lầm của chúng tôi, ôi đấng thủ lãnh xa binh, vì chúng tôi đã không biết việc đi đến nơi này với bề ngoài đã được cải trang ấy.”
66. Vì trẫm không nhìn thấy được ngay
Đại vương giả dạng đến như vầy,
Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
Đành phận xin tha thứ lỗi này!
3707. Mādisassa na taṃ channaṃ yohaṃ āḷāriko bhave, tvaññeva me pasīdassu natthi te deva dukkaṭaṃ.
3707. “Việc con trở thành gã đầu bếp là không thích hợp đối với kẻ như là con. Xin cha hãy tin tưởng ở con. Tâu bệ hạ, bệ hạ không có điều gì sái quấy.”
67. Hỏa đầu quân, muốn đóng tròn vai,
Mình chính đã làm việc trái sai,
Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!
3708. Gaccha bāle khamāpehi kusarājaṃ mahabbalaṃ, khamāpito kusarājā so te dassati jīvitaṃ.
3708. “Này cô con gái khờ dại, hãy đi đến. Con hãy xin đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại, thứ lỗi. Khi đã được đức vua Kusa thứ lỗi, vị ấy sẽ ban cho con mạng sống.”
68. Mau lên, cô bé quá khù khờ
Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!
3709. Pitussa vacanaṃ sutvā devavaṇṇī pabhāvatī, sirasā aggahī pāde kusarājaṃ mahabbalaṃ.
3709. Nghe theo lời nói của vua cha, nàng Pabhāvatī, với vóc dáng Thiên thần, đã cúi đầu nắm lấy bàn chân của đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại.
69. Pa-bhà trong dáng điệu Thiên thần
Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
Đôi chân của chúa tể hùng cường.
3710. Yā imā ratyo atikkantā tā imā deva tayā vinā, vande te sirasā pāde mā me kujjha rathesabha.
3710. “Tâu bệ hạ, những đêm thiếu vắng chàng đã trôi qua. Thiếp xin đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của chàng. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin chàng chớ giận dữ với thiếp.
70. Chuỗi ngày đêm thiếp sống xa ngài,
Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
Saccaṃ te paṭijānāmi mahārāja suṇohi me, na cāpi appiyaṃ tuyhaṃ kareyyāmi ahaṃ puna.
3711. Thiếp xin bày tỏ sự thật với chàng, tâu đại vương, xin chàng hãy lắng nghe thiếp. Không còn có việc thiếp có thể tỏ ra không yêu quý chàng.
71. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
Nếu ngài hạ cố để vào tai,
Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
3712. Evañce yācamānāya vacanaṃ me na kāhasi, idāni maṃ tāto hantvā khattiyānaṃ padassati.
3712. Nếu trong lúc thiếp cầu xin như vậy, mà chàng sẽ không thực hiện lời nói của thiếp. Lúc này đây, cha sẽ giết chết thiếp rồi ban cho các vị Sát-đế-lỵ.”
72. Song nếu lời xin bị khước từ,
Phụ vương liền giết mạng con thơ,
Gửi đi từng mảnh thân tan tác
Khắp các địch vương để tặng quà!
3713. Evante yācamānāya kiṃ na kāhāmi te vaco, vikuddho tyasmi kalyāṇi mā tvaṃ bhāyi pabhāvati.
3713. “Trong lúc nàng cầu xin như vậy, tại sao ta sẽ không thực hiện lời nói của nàng? Này mỹ nữ, ta không có giận nàng. Này Pabhāvatī, nàng chớ sợ hãi.
73. Ta nguyền vâng lệnh của nàng ban,
Đem hết tâm can để cứu nàng,
Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
3714. Saccante paṭijānāmi rājaputti suṇohi me, na cāpi appiyaṃ tuyhaṃ kareyyāmi ahaṃ puna.
3714. Ta xin bày tỏ sự thật với nàng, hỡi nàng công chúa, xin nàng hãy lắng nghe ta. Không còn có việc ta có thể tỏ ra không yêu quý nàng.
74. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
Ta sẽ không làm gì xúc phạm
Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
3715. Tava kāmā hi sussoṇi bahuṃ dukkhaṃ titikkhisaṃ, pahu maddakulaṃ gantvā nayituṃ taṃ pabhāvati.
3715. Bởi vì dục vọng đối với nàng, hỡi cô nàng có eo thon, ta chịu đựng nhiều khổ sở. Này Pabhāvatī, ta đã nhiều lần đi đến gia tộc Madda để rước nàng đi.”
75. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!
3716. Yojayantu rathe asse nānācitte samāhite, atha dakkhatha me vegaṃ vidhamentassa sattavo.
3716. “Hãy thắng những con ngựa đã được thuần thục vào cỗ xe có nhiều màu sắc. Rồi các người hãy nhìn xem năng lực của ta trong khi ta tiêu diệt các kẻ thù.”
76. Đi mau, thắng tuấn mã nhu thuần
Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.
3717. Tañca tattha udikkhiṃsu rañño maddassa thīpure, vijambhamānaṃ sīhaṃva pothentaṃ diguṇaṃ bhujaṃ.
3717. Và tại nơi ấy, các nữ nhân ở hậu cung của đức vua xứ Madda đã quan sát vị ấy đang vỗ vào hai cánh tay, tựa như con sư tử đang vươn dậy.
77. Công nương nội điện chúa Mad-da,
Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.
3718. Hatthikkhandhañca āruyha āropetvā pabhāvatiṃ, saṅgāmaṃ otaritvāna sīhanādaṃ nadī kuso.
3718. Sau khi cỡi lên mình voi, và đã đưa nàng Pabhāvatī lên (ngồi ở phía sau), đức vua Kusa đã lao vào trận chiến và đã rống lên tiếng rống sư tử.
78. Ngự mình voi, bà hoàng ngồi sau chúa,Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
3719. Tassa taṃ nadato sutvā sīhassevitare migā, khattiyā vipalāyiṃsu kusasaddabhayaṭṭitā.
3719. Sau khi nghe tiếng rống của vị ấy trong lúc vị ấy rống lên, các vị Sát-đế-lỵ, bị hành hạ do sự sợ hãi tiếng rống của đức vua Kusa, đã tẩu tán, tựa như các loài thú khác đã chạy trốn sau khi nghe tiếng rống của con sư tử.
79. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
3720. Hatthārohā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, aññamaññassa chindanti kusasaddabhayaṭṭitā.
3720. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh, bị hành hạ do sự sợ hãi tiếng rống của đức vua Kusa, đã dẫm đạp lẫn nhau.
80. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
3721. Tasmiṃ saṅghāma sīsasmiṃ passitvā tuṭṭhamānaso, kusassa rañño devindo adā verocanaṃ maṇiṃ.
3721. Sau khi nhìn thấy trận chiến đấu ấy, vị Chúa của chư Thiên, với tâm ý hoan hỷ, đã ban cho đức vua Kusa viên ngọc ma-ni tên Veracana.
81. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
3722. So taṃ vijitvā saṅgāmaṃ laddhā verocanaṃ maṇiṃ, hatthikkhandhagato rājā pāvekkhi nagaraṃ puraṃ.
3722. Sau khi chiến thắng trận chiến ấy và đã nhận được viên ngọc Verocana, vị vua ấy, ngồi ở mình voi, đã đi vào thành phố Nagara.
82. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
3723. Jīvagāhaṃ gahetvāna bandhitvā satta khattiye, sasurassupanāmesi ime te deva sattavo.
3723. Sau khi đã bắt sống và trói lại bảy vị Sát-đế-lỵ, đức vua Kusa đã trình họ lên cha vợ (nói rằng): “Tâu bệ hạ, những người này là những kẻ đối địch với bệ hạ.
83. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
-- "Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
3724. Sabbeva te vasaṅgatā amittā vihatā tava, kāmaṃ karohi te tayā muñca vā te hanassu vā.
3724. Tất cả bọn họ đều ở trong quyền hạn của bệ hạ. Những kẻ thù của bệ hạ đã được loại trừ. Bệ hạ hãy đối xử với chúng tùy theo ý thích của bệ hạ: Bệ hạ hãy trả tự do cho chúng hoặc hãy giết chết chúng.”
84. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân".
3725. Tumheva sattavo ete nahi te mayha sattavo, tvaññeva no mahārāja muñca vā te hanassu vā.
3725. “Những người này là những kẻ đối địch của chính con, họ không phải là những kẻ đối địch với trẫm. Này đại vương, chính con là chúa tể của chúng tôi. Con hãy trả tự do cho bọn họ hoặc hãy giết chết bọn họ.”
85. Các địch vương này thuộc về Thiên tử,
Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân
3726. Imā te dhītaro satta devakaññūpamā subhā, dadāhi nesaṃ ekekaṃ hontu jāmātaro tava.
3726. “Bảy người con gái này của bệ hạ xinh đẹp tương tự như các tiên nữ. Bệ hạ hãy ban cho chúng mỗi người một cô. Hãy để chúng trở thành những người con rể của bệ hạ.”
86. Bảy nàng công chúa tựa tiên nga
Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
Gả các nàng cho vua bảy nước
Để làm phò mã của vương gia.
3727. Amhākañceva tāsañca tvaṃ no sabbesamissaro, tvaññeva no mahārāja dehi nesaṃ yadicchasi.
3727. “Không những đối với chúng tôi mà còn đối với các nàng ấy nữa, con là chúa tể của tất cả chúng tôi. Này đại vương, chính con là chúa tể của chúng tôi. Con hãy ban cho bọn họ nếu con thích.”
87. Ngự ngôi tối thượng, trước toàn dân,
Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
Xin gả công nương theo thánh ý,
Ngài là Chúa tể của quần thần.3
728. Ekamekassa ekekaṃ adā sīhassaro kuso, khattiyānaṃ tadā nesaṃ rañño maddassa dhītaro.
3728. Khi ấy, đức vua Kusa có giọng nói sư tử đã ban từng cô con gái một của đức vua xứ Madda đến từng người một trong số các vị Sát-đế-lỵ ấy.
88. Ku-sa sư tử hống vang rền
Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
3729. Pīṇitā tena lābhena tuṭṭhā sīhassare kuse, sakaraṭṭhāni pāyiṃsu khattiyā satta tāvade.
3729. Được hài lòng với việc đạt được ấy, được vui vẻ với đức vua Kusa có giọng nói sư tử, bảy vị Sát-đế-lỵ đã trở về đất nước của mình liền khi ấy.
89. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
Bảy vương tử nọ liền hồi giá
Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
3730. Pabhāvatiñca ādāya maṇiṃ verocanaṃ subhaṃ, kusāvatiṃ kuso rājā agamāsi mahabbalo.
3730. Sau khi mang theo nàng Pabhāvatī và viên ngọc ma-ni Verocana xinh đẹp, đức vua Kusa, vị có binh lực vĩ đại, đã đi đến thành Kusāvatī.
90. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
Xa giá Ku-sa trở lại cung
Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
3731. Tyassu ekarathe yantā pavisantā kusāvatiṃ, samānā vaṇṇarūpena nāññamaññamatirocayuṃ.
3731. Trong lúc đi chung một cỗ xe, trong lúc đi vào thành Kusāvatī, với sắc đẹp và dáng vóc tương đương nhau, hai người đã không vượt trội lẫn nhau.
91. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
Sánh đôi vương giả trở về nhà,
Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
3732. Mātā puttena saṅgañchi ubhayo ca jayampatī, samaggā te tadā āsuṃ phītaṃ dharaṇimāvasun ”ti.
3732. Người mẹ đã gặp lại đứa con trai. Và cả hai vợ chồng ấy, từ đó, đã trở nên hòa hợp, đã cư ngụ ở trái đất hưng thịnh.”
92. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
Từ đó quân vương với ái thê
Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.
Kusajātakaṃ.
***
Bổn sanh Đức Vua Kusa. [531]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada