3043. Appamādo amatapadaṃ pamādo maccuno padaṃ, appamattā na mīyanti ye pamattā yathā matā.

3043. “Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.

1. Lòng nhiệt tình là hướng Niết-bàn,
Buông lung thường dẫn đến vong thân,
Những người tỉnh giác không hề chết,
Phóng dật khác nào đã mạng vong.

3044. Madā pamādo jāyetha pamādā jāyate khayo, khayā ca dosā jāyanti mā mado bharatūsabha. 

3044. Từ mê đắm, sanh ra xao lãng; từ xao lãng, sanh ra sự tiêu hoại; và từ sự tiêu hoại, sanh ra các tội lỗi. Tâu vị lãnh đạo tối cao, chớ có mê đắm.

2. Buông lung có gốc tự kiêu căng,
Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,
Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,
Ðoạn trừ phóng dật, hỡi Anh quân!

3045. Bahū hi khattiyā jīnā atthaṃ raṭṭhaṃ pamādino, athopi gāmino gāmā anāgārā agārino. 

3045. Bởi vì nhiều vị Sát-đế-lỵ có sự xao lãng, đã đánh mất sự tiến thân và đất nước; cũng vậy, những người chủ làng đánh mất các ngôi làng, những người chủ nhà trở thành không nhà.

3. Người hùng phóng dật biết bao phen,
Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,
Ðiền chủ trở thành người thất lạc
Không nhà, trôi giạt, khổ triền miên.

3046. Khattiyassa pamattassa raṭṭhasmiṃ raṭṭhavaḍḍhana, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ. 

3046. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua. 

4. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,
Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,
Ví thử bạc vàng đều biến mất,
Chỉ còn ô nhục với ông hoàng!

3047. Nesa dhammo mahārāja ativelaṃ pamajjasi, iddhaṃ phītaṃ janapadaṃ corā viddhaṃsayanti naṃ. 

3047. Tâu đại vương, việc ấy không phải là đúng pháp. Bệ hạ chớ xao lãng quá nhiều thời gian. Lũ trộm cướp phá hoại đất nước giàu có, phồn thịnh ấy.

5. Phi thời phóng dật, hỡi quân vương,
Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,
Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy
Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.

3048. Na te puttā bhavissanti na hiraññaṃ na dhāniyaṃ, raṭṭhe viluppamānamhi sabbabhogehi jīyasi. 

3048. Bệ hạ sẽ không có con trai kế nghiệp, không có vàng, không có tài sản. Khi đất nước đang bị cướp bóc, bệ hạ bị mất mát mọi thứ của cải.

6. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,
Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,
Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,
Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.

3049. Sabbabhoga parijiṇṇaṃ rājānaṃ vāpi khattiyaṃ, ñātimittā suhajjā ca na taṃ maññanti māniyaṃ. 

3049. Khi vị vua hoặc luôn cả vị Sát-đế-lỵ đã bị tiêu tán mọi thứ của cải, các thân quyến, bạn bè, và các thân hữu không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng.

7. Ông hoàng bị tước đoạt giang san
Với các kho châu báu, bạc vàng
Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,
Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.

3050. Hatthārohā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, tamevamupajīvantā na taṃ maññanti māniyaṃ. 

3050. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đang sống nương vào chính vị ấy, họ không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng. 

8. Xe ngựa, quản xa, với vệ binh,
Lục quân lúc trước thật hùng anh,
Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,
Cũng chẳng còn vì nể, kính danh.

3051. Asaṃvihitakammantaṃ bālaṃ dummanti mantinaṃ, sirī jahati dummedhaṃ jiṇṇaṃva urago tacaṃ. 

3051. Vinh quang từ bỏ kẻ có trí tồi, ngu si, có công việc không được sắp xếp, có sự cố vấn bởi kẻ cố vấn tồi, tựa như con rắn từ bỏ lớp da già cỗi.

9. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,
Bị lời tà dụ dỗ, sai đường,
Người ngu chóng mất vinh quang cũ
Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.

3052. Susaṃvihitakammantaṃ kāluṭṭhāyiṃ atanditaṃ, sabbe bhogābhivaḍḍhanti gāvo sausabhāmiva. 

3052. Mọi thứ của cải tăng trưởng cho người có công việc khéo được sắp xếp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tựa như bầy bò có con bò mộng đầu đàn (sẽ phát triển đông đúc).

10. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,
Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,
Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,
Tài sản người kia lớn mãi hoài.

3053. Upassutiṃ mahārāja raṭṭhe janapade cara, tattha disvā ca sutvā ca tato taṃ paṭipajjasi. 

3053. Tâu đại vương, bệ hạ hãy du hành ở đất nước, ở xứ sở cho việc nghe ngóng. Sau khi nhìn thấy và lắng nghe tại nơi ấy, kế đó, mong rằng bệ hạ hãy thực hành điều ấy.”

11. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,
Lắng nghe dân chúng nói bao lời:
Nhờ nghe, nhìn được điều Chân lý,
Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.

3054. Evaṃ vedetu pañcālo saṅgāme sarasamappito, yathāhamajja vedemi kaṇṭakena samappito.  

3054. “Hôm nay, ta cảm thọ bị gai đâm như thế nào, thì vua Pañcāla hãy cảm thọ bị tên bắn ở chiến trường giống như vậy.” 

12. Mong tên trúng ở chiến trường
Cho Pan-ca bạo chúa thương khóc đời,
Như ta có cớ kêu trời,
Thế này vì bị gai dài đâm da!

3055. Jiṇṇo dubbalacakkhūsi na rūpaṃ sādhu passasi, kiṃ tattha brahmadattassa yaṃ taṃ maggeyya kaṇṭako. 

3055. “Ông già cả, mắt yếu, không nhìn thấy cảnh vật rõ ràng, nên cây gai mới đâm vào ông; trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

13. Tôn ông nay tuổi đã già,
Và đôi mắt đã mù lòa, cho nên,
Chẳng công bằng để xét xem,
Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?
Chúa Brah-ma biết thế nào,
Khi chân ông bị gai cào đâm da?

3056. Bavhettha brahmadattassa yohaṃ maggasmi brāhmaṇa, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā. 

3056. “Thưa vị Bà-la-môn, ở đây, việc tôi bị gai đâm có nhiều liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

14. Hiển nhiên vì chúa Brah-ma
Cho nên mới khổ thân ta thế này!
Như dân cô thế thường hay
Bị đem chém giết vì bầy hại dân.

3057. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano. 

3057. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

15. Ban đêm bị trộm ăn phần,
Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền;
Ác nhân đầy rẫy toàn miền,
Khi bầy bạo chúa nắm quyền trong tay.

3058. Etādise bhaye tāta bhayaṭṭā tāva mānavā, nillenakāni kubbanti vane āhatva kaṇṭakaṃ. 

3058. Tôn ông ơi, khi có sự sợ hãi như thế này, bị hành hạ vì sợ hãi, dân chúng tạo ra chỗ ẩn náu trong rừng, sau khi đã rải rắc gai nhọn (ở căn nhà của mình).”

16. Khổ đau vì sợ nỗi này,
Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,
Chung quanh nhà rải lung tung
Ðám gai để được yên phận mình!

3059. Kadāssu nāmayaṃ rājā brahmadatto marissati, yassa raṭṭhamhi jīyanti appatikā kumārikā. 

3059. “Vậy cho đến khi nào ông vua Brahmadatta này sẽ chết? Ở trong đất nước của ông, các cô con gái tới tuổi già mà vẫn không chồng.” 

17. Khi nào vua ấy chết đi?
Chao ôi, còn chúa trị vì non sông,
Các con lẻ bóng phòng không,
Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi!

3060. Dubbhāsitañhi te jammi anatthapadakovide, kuhiṃ rājā kumārīnaṃ bhattāraṃ pariyesati. 

3060. “Ôi lời nói tầm xàm của bà! Này bà lão kém cỏi, không thông suốt chữ nghĩa, ở đâu mà đức vua tìm kiếm chồng cho các cô con gái?”

18. Xấu mồm vô ích, bà ơi!
Những lời bà mới kêu trời gào la,
Làm sao vua kiếm đâu ra
Trong làng cho mỗi gái tơ một chồng?

3061. Na me dubbhāsitaṃ brahme kovidatthapadā ahaṃ, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā. 

3061. “Thưa vị Bà-la-môn, lão không có lời nói tầm xàm, lão là người có chữ nghĩa được thông suốt. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

19. Lời ta chẳng phải ác ngôn,
Cũng không phải nói hoài công hão huyền;
Khi còn thất thế dân đen
Chịu đàn áp bởi lắm tên giết người:

3062. Rattiñca6 corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano, dujjīve dubbhare dāre kuto bhattā kumāriyo. 

3062. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Khi cuộc sống khó nhọc, khó cấp dưỡng cho người vợ, thì chồng ở đâu cho cô con gái?” 

20. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
Ác nhân đầy rẫy non sông,
Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài
Thời suy, bần nữ lắm người
Buồn tình chẳng kiếm được ai làm chồng!

3063. Evaṃ sayatu pañcālo saṅgāme sattiyā hato, yathāyaṃ kapaṇo seti hato phālena sāliyo.  

3063. “Con bò khốn khổ Sāliya này bị đâm bởi lưỡi cày nằm xụi như thế nào, thì vua Pañcāla, bị đâm bởi cây thương ở chiến trường, hãy nằm đơ giống như vậy.” 

21. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,
Như Sa-li ngã xuống đường,
Thương thay! Cày đụng bị thương nằm đờ!

3064. Adhammena tuvaṃ jamma brahmadattassa kujjhasi, yo tvaṃ sapasi rājānaṃ aparajjhitvāna attano. 

3064. “Này ông lão kém cỏi, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách vô lý; sau khi gây ra lầm lỗi cho bản thân, lão lại nguyền rủa đức vua.”

22. Ngươi hờn giận chúa Brah-ma
Song ai có thấy đâu là nguyên do?
Vì ngươi phỉ báng đức vua,
Tội kia tất cả đều là của ngươi!

3065. Dhammena brahmadattassa ahaṃ kujjhāmi brāhmaṇa, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā. 

3065. “Thưa vị Bà-la-môn, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách có lý lẽ. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

23-24. Vì vua, ta cứ giận sôi,
Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay;
Dân đen thất thế như vầy,
Bị tàn sát bởi lắm tay giết người:
Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!.

3066. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano. 

3066. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

3067. Sā nūna puna re pakkā vikāle bhattamāhari, bhattahāriṃ apekkhanto hato phālena sāliyo. 

3067. Đúng vậy, người phụ nữ đã nấu lại lần nữa và đã mang lại bữa ăn trễ giờ. Trong khi ta trông ngóng nàng mang lại bữa ăn, con bò Sāliya đã bị thương tích bởi lưỡi cày.” 

25. Gia nô phải nấu hai lần
Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,
Lúc đang há họng chờ nhà,
Bò ta bị đụng ắt là mạng toi!

3068. Evaṃ haññatu pañcālo saṅgāme asinā hato, yathāhamajja pahaṭo khīrañca me pavaṭṭitaṃ. 

3068. “Hôm nay, ta đã bị bò đá và sữa của ta bị đổ tràn như thế nào, thì vua Pañcāla, bị gươm đâm ở chiến trường, hãy bị thương tích giống như vậy.”

26. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,
Như ta, bò đá lăn chiêng,
Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay!

3069. Yaṃ pasu khīraṃ chaḍḍeti pasupālañca hiṃsati, kiṃ tattha brahmadattassa yaṃ no garahate bhavaṃ. 

3069. “Việc con thú làm đổ sữa và hãm hại người chăn thú, việc ông chê trách chúng tôi, trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

27. Này, bò đá gậy thúc dai,
Hay là thùng sữa của người đổ ra,
Việc gì đến chúa Brah-ma,
Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?

3070. Gārayho brahme pañcālo brahmadattassa rājino, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā. 

3070. “Thưa vị Bà-la-môn, vua Pañcāla thuộc hoàng tộc Brahmadatta là đáng bị chê trách. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp. 

28-29. Pan-ca chúa đáng trách thay
Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,
Dân lành cô thế thấy luôn
Bị tàn hại bởi những quân giết người:
Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!.

3071. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano.

3071. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.

3072. Caṇḍā aṭanakā gāvī yaṃ pure na duhāmase, taṃ dāni ajja dohāma khīrakāmehupaddutā.

3072. Trước đây, chúng tôi không vắt sữa con bò cái thô tháo, hoang dã. Giờ đây, bị quấy rối bởi những đòi hỏi về sữa, hôm nay chúng tôi vắt sữa nó.”

30. Hung hăng là thứ bò rừng,
Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,Ta đành vắt sữa hôm nay,
Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng!

3073. Evaṃ kandatu pañcālo viputto vippasukkhatu, yathāyaṃ kapaṇā gāvī viputtā paridhāvati. 

3073. “Con bò cái khốn khổ, mất bê con, chạy lung tung này như thế nào, thì vua Pañcāla, bị mất con, hãy than khóc, hãy héo khô giống như vậy.” 

31. Cầu Pan-ca chúa héo mòn,
Hoài công than khóc mất con như vầy,
Bò kia quẩn trí thương thay,
Ði tìm bê nhỏ, người nay giết càn!

3074. Yaṃ pasu pasupālassa pabbhameyya raveyya vā, konīdha aparādhatthi brahmadattassa rājino.

 3074. “Việc con thú đi lang thang hoặc kêu ầm ĩ đối với người chăn thú, trong việc này, có tội lỗi gì liên quan đến vua Brahmadatta?”

32. Khi bò trâu phải lạc đàn,
Muốn vơi nỗi khổ, khóc vang kêu gào.
Vậy thì duyên cớ làm sao
Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?

3075. Aparādho mahābrahme brahmadattassa rājino, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā. 

3075. “Thưa vị Bà-la-môn, có tội lỗi liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.

33. Tội tình của chúa Bra-hma,
Việc này con thấy rõ ra rành rành:
Bơ vơ khốn đốn dân lành,
Vẫn thường bị bọn bạo hành giết tươi:

3076. Rattañca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano, kathaṃ no asikosatthā khīrapā haññate pajā. 

3076. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Vậy làm thế nào mà con bê còn bú sữa bị giết chết vì mục đích làm bao gươm?” 

34. Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
Ác nhân đầy rẫy non sông,
Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,
Cớ sao bê hãy còn non,
Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?

3077. Evaṃ khajjatu pañcālo hato yuddhe saputtako, yathāhamajja khajjāmi gāmakehi araññajo. 

3077. “Hôm nay, là loài nhái sanh ra ở rừng, tôi bị ăn thịt bởi những con quạ sống ở trong làng như thế nào, thì vua Pañcāla, bị giết chết ở trận chiến cùng với con trai, hãy bị ăn thịt giống như vậy.”

35. Cầu Brah-ma chúa chết chùm,
Cùng bầy con cháu ở trong chiến trường,
Như ta nhái bén rừng hoang,
Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay!

3078. Na sabbabhūtesu vidhenti rakkhaṃ rājāno maṇḍūka manussaloke, nettāvatā rājā adhammacārī yā tādisaṃ jīvamadeyyuṃ dhaṅkā. 

3078. “Này nhái, các vị vua ở thế giới loài người không xếp đặt sự bảo vệ cho tất cả các loài sinh vật. Với bấy nhiêu đó, không thể gọi đức vua là người thực hành phi pháp trong việc các con quạ ăn thịt những con nhái các ngươi đang còn sống như thế ấy.” 

36. Nhái cần biết rõ, nhái này,
Ðại vương không thể giữ bầy nhái ranh!
Việc này vua chẳng tội tình,
Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày!

3079. Adhammarūpo vata brahmacāri anumpiyaṃ bhāsasi khattiyassa, vilumpamānāya puthuppajāya pūjesi rājaṃ paramappavādaṃ. 

3079. “Ông quả là người thực hành Phạm hạnh với hình thức phi pháp, ông nói lời xu nịnh đến vị Sát-đế-lỵ. Trong khi số đông chúng sanh đang bị cướp bóc, ông ca ngợi đức vua có lời tuyên bố tuyệt hảo.

37. Tế sư lời nịnh khéo thay,
Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,
Mặc cho dân bị sát tàn,
Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư
Quả là đệ nhất tài ba;
Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.

3080. Sace idaṃ brahme surajjakaṃ siyā phītaṃ raṭṭhaṃ muditaṃ vippasannaṃ, bhutvā baliṃ aggapiṇḍañca kākā na mādisaṃ jīvamadeyyuṃ dhaṅkā ”ti. 

3080. Thưa vị Bà-la-môn, nếu đất nước có sự cai trị tốt đẹp này là phồn thịnh, hòa bình, an lạc, các con quạ sau khi đã ăn đồ cúng tế và các phần thức ăn quý giá, các con quạ sẽ không ăn thịt những con nhái đang còn sống như tôi.” 

38. Nước này an lạc, thái bình,
Quạ kia được hưởng phần mình cực sang
Có đâu cần phải giết càn
Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?

Câu chuyện 520

Gandhatindukajātakaṃ.

***

Bổn sanh Thần Cây Tinduka. [520]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada