3008. Kā vedhamānā girikandarāya ekā tuvaṃ tiṭṭhasi saññatūru, puṭṭhāsi me pāṇipameyyamajjhe akkhāhi me nāmañca bandhave ca.
3008. “Hỡi cô nàng có cặp đùi kín đáo, nàng là ai, một mình đứng ở hang núi, run rẩy? Hỡi cô nàng có vòng eo có thể được đo bằng bàn tay, được ta hỏi, nàng hãy nói cho ta biết tên và các thân quyến.
1. Run rẩy nép mình dáng hãi kinh,
Ai đây đang đứng cạnh hang ghềnh,
Nói đi, thục nữ thân bồ liễu,
Quyến thuộc là ai, với quý danh?
3009. Obhāsayaṃ vanaṃ rammaṃ sīhavyagghanisevitaṃ, kā vā tvamasi kalyāṇi kassa vā tvaṃ sumajjhime, abhivādemi taṃ bhadde dānavāhaṃ namatthu te.
3009. Này mỹ nữ, nàng là ai, đang làm chói sáng khu rừng xinh đẹp, nơi được lai vãng bởi loài sư tử và loài cọp? Này cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng thuộc về ai? Này người nữ hiền thục, ta xin thi lễ với nàng. Ta là loài A-tu-la, xin kính lễ nàng.”
2. Nương tử là ai, đẹp rỡ ràng,
Ðâu là dòng giống của nhà nàng,
Khiến nàng chiếu rực khu rừng sáng,
Chốn lạc cư muôn loại thú hoang?
Yêu quỷ là ta đầy kính cẩn
Nghiêng mình, bái phục trước tôn nhan!
3010. Yo putto kāsirājassa sotthisenoti naṃ vidū, tassāhaṃ sambulā bhariyā evaṃ jānāhi dānava, abhivādemi bhaddante sambulāhaṃ namatthu te.
3010. “Người ấy là con trai của đức vua xứ Kāsi. Người ta biết chàng với tên Sotthisena. Thiếp là Sambulā, vợ của người ấy. Thưa vị A-tu-la, ngài hãy biết như thế. Thưa bậc tôn đức, thiếp xin thi lễ với ngài. Thiếp là Sambulā, xin kính lễ ngài.
3. Thái tử Sot-thi kế vị ngai,
Xứ Kà-si, hãy biết như vầy,
Ta là vương hậu hoàng nam ấy,
Thường gọi Sam-bu chính hiệu này.
3011. Vedehaputto bhaddante vane vasati āturo, tamahaṃ rogasammattaṃ ekā ekaṃ upaṭṭhahiṃ.
3011. Thưa bậc tôn đức, người con trai xứ Vedeha bị bệnh, sống ở trong rừng. Một mình thiếp đã phục vụ chỉ mỗi chàng, trong lúc chàng đang bị hành hạ bởi căn bệnh.
4. Vương tử Vi-đề đang ốm đau,
Khổ thân mê loạn ở rừng sâu,
Mình ta chăm sóc chàng nằm liệt,
Không thế, chắc chàng phải chết mau!
3012. Ahañca vanamuñchāya madhumaṃsaṃ migāvilaṃ, yadā harāmi taṃ bhakkho tassa nūnajja nādhati.
3012. Và thiếp đã thu nhặt ở trong rừng miếng thịt ngon, là vật ăn còn thừa lại của thú rừng. Vật thiếp mang về ấy, thật vậy, sẽ là thức ăn đáp ứng nhu cầu của chàng ngày hôm nay.”
5. Ðây miếng thịt nai thật ngọt ngon,
Ta vừa kiếm được chốn rừng hoang,
Ðem về dâng chúa công ta đó,
Giờ bởi thiếu ăn đã mỏi mòn!
3013. Kiṃ vane rājaputtena āturena karissasi, sambule pariciṇṇena ahaṃ bhattā bhavāmi te.
3013. “Nàng sẽ làm gì trong khu rừng với vị hoàng tử bị bệnh đang được chăm sóc? Này nàng Sambulā, hãy để ta trở thành người chồng của nàng.”
6. Chúa công bệnh hoạn ích gì chăng?
Ngài chẳng cần vương hậu, hỡi nàng,
Mà chỉ cần người nuôi bảo hộ,
Ta mong chiếm địa vị ông hoàng!
3014. Sokaṭṭāya durattāya kiṃ rūpaṃ vijjate mama, aññaṃ pariyesa bhaddante abhirūpataraṃ mayā.
3014. “Do trạng thái sầu muộn, do bản thân bị khốn khổ, sắc đẹp gì được tìm thấy ở thiếp? Thưa bậc tôn đức, ngài hãy tìm kiếm người nữ khác xinh đẹp hơn thiếp.”
7. Lòng ta mòn mỏi với ưu sầu,
Khốn khổ bơ vơ, đẹp chẳng cầu,
Nếu quỷ vương tìm nương tử mới,
Hãy cầu nàng khác đẹp dường nào!
3015. Ehimaṃ girimāruyha bhariyā mayhaṃ catussatā, tāsaṃ tvaṃ pavarā hohi sabbakāmasamiddhinī.
3015. “Nàng hãy đến, hãy bước lên ngọn núi này. Ta có bốn trăm người vợ. Nàng hãy là người nữ cao quý trong số các nàng ấy; nàng có sự thành tựu tất cả các dục.
8. Thê thiếp bốn trăm sẵn của ta
Tôn vinh lầu các ở đồi xa,
Xin nàng chiếu cố, ngôi cao ngự,
Cho thỏa bao nguyền ước thiết tha.
3016. Nūna tārakavaṇṇābhe yaṅkiñci manasicchasi, sabbantaṃ pacuraṃ mayhaṃ ramassujja mayā saha.
3016. Thật vậy, này người nữ có ánh sáng như màu sắc của các vì sao, bất cứ vật gì mà nàng mong muốn ở trong tâm, mọi thứ ấy của ta đều dồi dào. Hôm nay, nàng hãy vui sướng cùng với ta.
9. Hỡi mỹ nhân tươi sáng ánh vàng,
Những gì nàng quý chuộng cho nàng,
Ta đều ban tặng, xin mời đến,
Cùng ta tận hưởng thú trần gian.
3017. No ce tuvaṃ maheseyyaṃ sambule kārayisassi, alaṃ tvaṃ pātarāsāya maññe bhakkhā bhavissasi.
3017. Này nàng Sambulā, nếu nàng không chịu làm hoàng hậu, ta nghĩ rằng nàng đương nhiên sẽ là thức ăn cho bữa ăn sáng.
10. Nếu chối từ làm vợ quỷ vương,
Hiển nhiên nàng hóa miếng mồi ngon
Cho ta thọ dụng hôm nay đấy,
Ðể lót lòng ta đã nhịn cơm.
3018. Tañca sattajaṭo luddo kaḷāro purisādako, vane nāthaṃ apassantiṃ sambulaṃ aggahī bhuje.
3018. Và trong lúc nàng ấy không tìm thấy người bảo hộ ở khu rừng, gã ăn thịt người có bảy búi tóc, hung dữ, răng hô đã nắm lấy Sambulā ở cánh tay.
11. Ác quỷ mày râu rậm bảy chòm,
Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
Thấy nàng lạc lỏng bơ vơ bước,
Liền nắm chặt tay ấy của nàng.
3019. Adhipannā pisācena luddenāmisacakkhunā, sā ca sattuvasampattā patimevānusocati.
3019. Và bị bắt giữ bởi gã quỷ sứ hung dữ, quan tâm về vật chất, bị rơi vào sự khống chế của kẻ thù, nàng ấy lo âu chỉ mỗi người chồng.
12. Bị cầm giam bởi quỷ hung tàn,
Cừu địch nàng kia, ác dục tràn,
Nàng chỉ khóc thương chàng vắng mặt,
Chẳng hề quên nỗi khó riêng chàng.
3020. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ yaṃ maṃ khādeyya rakkhaso, yañca me ayyaputtassa mano hessati aññathā.
3020. “Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.13. Ta chẳng buồn vì số phận ta,
Làm mồi cho quỷ ác căm thù,
Song vì tình trượng phu tôn quý,
Ly biệt ta, đành phải héo khô.
3021. Na santi devā pavasanti nūna na hi nūna santi idha lokapālā, sahasā karontānaṃ asaññatānaṃ na hi nūna santi paṭisedhitāro.
3021. Chư Thiên không hiện hữu, chắc chắn các ngài sống ở nơi khác! Chắc chắn các bậc hộ trì thế gian không có ở nơi này! Chắc chắn không có các vị ngăn chặn những kẻ không tự kiềm chế đang hành động bằng bạo lực!”
14. Chư thần đi vắng cả rồi chăng?
Chẳng vị nào cai quản thế gian
Ðể trấn áp hành vi sỉ nhục,
Cản ngăn điều phóng đãng dâm loàn!
3022. Itthīnamesā pavarā yasassinī santā samā aggirivuggatejā, tañce tuvaṃ rakkhasādesi kaññaṃ muddhā ca hi sattadhā te phaleyya mā tvaṃ dahi muñca patibbatā sā.
3022. “Trong số những người phụ nữ, nàng ấy là cao quý, có danh tiếng, điềm đạm, bình lặng, có năng lực nổi trội tựa như ngọn lửa. Này quỷ sứ, nếu ngươi ăn thịt người thiếu nữ ấy, cái đầu của ngươi có thể vỡ tan thành bảy mảnh. Ngươi chớ có thiêu đốt nàng. Ngươi hãy trả tự do cho người vợ chung thủy ấy.”
15. Giữa đám quần đệ nhất danh,
Chính nàng toàn hảo, trí thông minh,
Khác nào ngọn lửa đang bừng sáng,
Ví thử ngươi ăn thịt gái lành,
Ác quỷ, đầu ngươi liền vỡ nát,
Thành ra bảy mảnh phải tan tành.
Vậy đừng làm hại nàng, nên thả,
Nàng, vợ hiền dâng hiến trọn mình.
3023. Sā ca assamamāgañchi pamuttā purisādakā, nīḷaṃ phalinasakuṇīva gatasiṅgaṃva ālayaṃ.
3023. Được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, nàng ấy đã đi về lại khu ẩn cư, tựa như con chim mẹ tha mồi về tổ, về chỗ trú ngụ vắng bóng các chim con.
16. Thoát quỷ kia, nàng vội lại nhà,
Như chim về thấy chết con thơ,
Hay bò bị cướp bê con dại,
Than khóc nhìn hang ổ trống trơ.
3024. Sā tattha paridevesi rājaputtī yasassinī, sambulā utumattakkhā vane nāthaṃ apassatī.
3024. Tại nơi ấy, nàng công chúa danh tiếng Sambulā ấy, hai mắt khờ dại, trong khi không nhìn thấy người chồng ở trong rừng, đã than khóc rằng:
17. Cũng vậy, Sam-bu tiếng tốt vang,
Hoàng phi liền cất giọng kêu than,
Thất thần, hoảng hốt, bơ vơ quá,
Ðơn độc, vô phương giữa núi ngàn:
3025. Samaṇe brāhmaṇe vande sampannacaraṇe ise, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3025. “Thiếp xin đảnh lễ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, các vị ẩn sĩ đầy đủ đức hạnh. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.
18. "Tiện thiếp xin quỳ lạy Ðạo sư,
La-môn, hiền thánh trí nhân từ,
Bơ vơ, lạc lỏng thay, thân thiếp
Chạy đến thần nhân để trú nhờ.
3026. Vande sīhe ca byagghe ca ye ca aññe vane migā, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3026. Thiếp xin đảnh lễ các loài sư tử, các loài cọp, và các con thú khác ở trong rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các vị.
19-20. Cọp beo, sư tử, chúa sơn lâm
,
Cùng các loài hoang thú ở giữa rừng,
Tiện thiếp xin chào mừng tất cả,
Cỏ cây, hoa lá mọc um tùm,
Xin chào rừng rậm màu xanh ngắt
Cùng núi cao dốc đứng chập chùng.
3027. Tiṇalatāni osadhyo pabbatāni vanāni ca, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3027. (Thiếp xin đảnh lễ các vị thần ngự ở) các giống cỏ, các dây leo, các cây thuốc, các ngọn núi, và các khu rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.
3028. Vande indīvarīsāmaṃ rattiṃ nakkhattamāliniṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3028. Thiếp xin đảnh lễ (vị thần) đêm tối có màu sắc tựa như bông hoa súng, có vòng hoa là các vì tinh tú. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.
21. Tiện thiếp xin thi lễ Dạ thần,
Trên cao tinh tú điểm huy hoàng,
Ðêm dày tựa đóa sen xanh thẳm,
Nhuốm vẻ đậm đà nhất thế gian!
3029. Vande bhāgīrathiṃ gaṅgaṃ savantīnaṃ paṭiggahaṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saranaṃ gatā.
3029. Thiếp xin đảnh lễ thần sông Bhāgīrathī, nơi tiếp nhận các dòng nước. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.
22. Thiếp xin thi lễ cả sông Hằng,
Là mẹ hiền chung của suối sông,
Ở giữa loài người trên hạ giới,
Bha-gi-ra mỹ hiệu vang lừng.
3030. Vande ahaṃ pabbatarājaseṭṭhaṃ himavantaṃ siluccayaṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saranaṃ gatā.
3030. Thiếp xin đảnh lễ thần núi đá Himavantu, ngọn núi chúa hạng nhất. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.”
23. Tiện thiếp xin chào đỉnh Tuyết Sơn,
Là vua ngự trị mọi sơn lâm,
Ðà chồng chất nhất cao hùng vĩ,
Vượt hẳn lên toàn cảnh thế gian.
3031. Atisāyaṃ vatāgañchi rājaputti yassasini, kenanujja samāgañchi ko te piyataro mayā.
3031. “Này nàng công chúa danh tiếng, thật sự nàng đã trở về quá tối. Vậy hôm nay, nàng đã đi đến với ai? Ai được nàng yêu thương hơn ta?”
24. Này quý phi danh tiếng vọng vang,
Sao nàng về muộn quá chiều tàn?
Tình lang yêu dấu nào đâu hẳn
Ðã giữ nàng lâu hóa trễ tràng?
3032. Idaṃ khohaṃ tadavocaṃ gahitā tena sattunā, na me idaṃ tathā dukkhaṃ yaṃ maṃ khādeyya rakkhaso, yañca me ayyaputtassa mano hessati aññathā.
3032. “Bị bắt giữ bởi kẻ thù ấy, quả thật khi ấy thiếp đã có nói điều này: ‘Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.’”
25. Bị cừu địch bắt, nặng sầu tư,
Thiếp nói lời cùng quỷ Dạ-xoa:
"Ta chẳng buồn đau vì số phận
Làm mồi cho ác quỷ tinh ma,
Song vì tình trượng phu tôn quý
Ly biệt ta, đành phải héo khô".
3033. Corīnaṃ bahubuddhīnaṃ yāsu saccaṃ sudullabhaṃ, thīnaṃ bhāvo durājāno macchassevodake gataṃ.
3033. “Đối với các nữ đạo tặc có nhiều trí thông minh, sự chân thật ở các nàng này là điều khó đạt được. Bản tánh của các người nữ là khó hiểu, tựa như đường đi của loài cá ở trong nước.”
26. Các nàng ngọc nữ quá tinh khôn,
Thật hiếm khi tìm được thật chơn,
Cung cách nữ nhân làm rối trí,
Như đường cá lội giữa trùng dương!
3034. Tathā maṃ saccaṃ pāletu pālayissati ce mamaṃ, yathāhaṃ nābhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā, etena saccavajjena vyādhi te vūpasammatu.
3034. “Thiếp biết chắc là không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu thương hơn chàng. Nếu lời nói như thế của thiếp là sự thật, xin hãy hộ trì cho thiếp, và sẽ hộ trì cho thiếp trong tương lai. Do lời nói chân thật này, mong rằng bệnh của chàng được lặng yên.”
27. Ước mong Chân lý, chốn nương thân,
Thiếp chẳng yêu ai khác Chúa công,
Thiếp nguyện cầu xin nhờ Nói Thật
Bệnh chàng nay được chữa lành chăng?
3035. Ye kuñjarā sattasatā uḷārā rakkhanti rattindivaṃ uyyutāvudhā, dhanuggahānañca satāni soḷasa kathaṃ vidhe passasi bhadde sattavo.
3035. “Bảy trăm con voi xuất sắc,
có vũ khí sẵn sàng, bảo vệ ngày đêm,
và một ngàn sáu trăm cung thủ.
Này thục nữ, bằng cách nào con nhìn thấy những kẻ thù?”
28. Bảy trăm vương tượng trực bên mình,
Phòng hộ sẵn sàng khởi chiến binh,
Thiện xạ hàng trăm ngừa hiểm họa,
Ðâu cừu nhân đến khiến hồn kinh?
3036. Alaṅkatāyo padumuttarattacā virāgitā passati haṃsagaggarā, tāsaṃ suṇitvā mitagītavāditaṃ na dāni me tāta tathā yathā pure.
3036. “Chàng nhìn xem các nữ nhân đã được trang điểm, có làn da tuyệt mỹ màu hoa sen, có vòng eo thon, có giọng nói ngọt ngào như chim thiên nga, sau khi lắng nghe lời ca tiếng nhạc đã được chọn lọc của các nàng ấy, giờ đây, tâu phụ hoàng, chàng đối với con không còn như là trước đây.
29. Chàng yêu mỹ nữ tựa liên hoa,
Giọng điệu thiên nga cất tiếng thưa,
Rung động lòng chàng say đắm đuối,
Khi chàng nghe chúng nhịp nhàng ca,
Thiếp không còn ngự trong tâm tưởng,
Tình cảm chàng, như một thuở xưa!
3037. Suvaṇṇasaṅkaccadharā suviggahā alaṅkatā mānusiyaccharūpamā, senopiyā tāta aninditaṅgiyo khattiyakaññā paṭilobhayanti naṃ.
3037. Các nàng ấy có thân hình xinh đẹp, mang thắt lưng bằng vàng, đã được trang điểm, sánh tựa tiên nữ, là những người yêu dấu của Sotthisena, có cơ thể không bị chê bai, thưa cha, các công nương dòng Sát-đế-lỵ quyến rủ chàng.
30. Nữ nhân dáng đẹp tựa thiên nga,
Trang điểm toàn châu báu sáng lòa,
Tuyệt sắc cung tần nằm yểu điệu,
Mê hồn quyến rủ mắt vương gia!
3038. Sace ahaṃ tāta tathā yathā pure patiṃ tamuñchāya punā vane bhare, sammānaye maṃ na ca maṃ vimānaye itopi me tāta tato varaṃ siyā.
3038. Thưa cha, nếu con có thể cưu mang người chồng ấy bằng cách thu nhặt ở trong rừng lần nữa như là trước đây, mà chàng có thể tôn trọng con và không xem thường con, thưa cha, vì điều ấy, đối với con khu rừng ấy còn quý giá hơn cả nơi này.
31. Mong lần nữa lạc bước rừng hoang,
Kiếm mỗi bữa ăn đỡ dạ chàng,
Thiếp sẽ được chàng yêu quý lại,
Rừng xanh ngự trị bỏ ngai vàng!
3039. Yamannapāne vipulasmi ohite nārī vimaṭṭhābharaṇā alaṅkatā, sabbaṅgupetā patino ca appiyā abajjha tassā maraṇaṃ tato varaṃ.
3039. Người phụ nữ, khi được bố trí ở nơi dồi dào cơm ăn nước uống, có đồ trang sức bóng láng, đã được trang điểm, được đầy đủ mọi thứ, và không được chồng yêu thương, dầu không bị giam giữ, nhưng đối với người nữ ấy, cái chết là cao quý hơn so với việc kia.
32. Gấm vóc lụa là khoác nữ nhi,
Cao lương mỹ vị đủ tràn trề,
Diễm kiều, song nếu chàng không chuộng,
Thà kết lụa đào để chết đi!
3040. Api ce daḷiddā kapaṇā anāḷhiyā kaṭādutīyā patino ca sā piyā, sabbaṅgupetāyapi appiyāya ayameva seyyā kapaṇāpi yā piyā.
3040. Thậm chí, nếu người phụ nữ nghèo khó, khốn khổ, không thóc lúa, có manh chiếu làm bạn, và nàng ấy được chồng yêu thương; so với người phụ nữ được đầy đủ mọi thứ mà không được yêu thương, chính người phụ nữ khốn khổ được yêu thương này là tốt hơn.”
33. Gái nghèo khốn khổ ngủ giường rơm,
Nếu được yêu thương dưới mắt chồng,
Cũng hưởng một đôi niềm hạnh phúc,
Mà người chỉ thiếu tấm tình nồng
Không hề biết đến, dù đầy đủ
Tất cả mọi điều, tấu phụ vương!
3041. Sudullabhitthī purisassa yā hitā bhattitthiyā dullabho yo hito ca, hitā ca te sīlavatī ca bhariyā janinda dhammaṃ cara sambulāya.
3041. “Người phụ nữ có lợi ích đối với người nam là rất khó đạt được, và người chồng có lợi ích đối với người phụ nữ là khó đạt được. Người vợ của con là người nữ có lợi ích và có giới hạnh. Này vị chúa của loài người, hãy cư xử đúng pháp với Sambulā.”
34. Khó tìm được vợ chung tình,
Nam nhi tốt với vợ mình, khó sao,
Vương nhi đức hạnh dường nào,
Với chồng, nàng lại dạt dào tình thương.
Vậy giờ đây, hỡi quân vương,
Với Sambu, phải trọn đường thủy chung.
3042. Sace tuvaṃ vipule laddhabhoge issāvatiṇṇā maraṇaṃ upesi, ahañca te bhadde imā rājakaññā sabbeva te vacanakarā bhavāmā ”ti.
3042. “Này ái hậu, nếu trong lúc của cải đã đạt được dồi dào, mà nàng bị áp lực bởi lòng ganh tị và tìm đến cái chết, thì trẫm và các công chúa này là thuộc về nàng, hết thảy tất cả chúng tôi hãy là người làm theo lời nói của nàng.”
35. Hưởng đầy phúc lộc dồi dào,
Ái khanh vẫn cứ xanh xao héo mòn,
Vì lòng nặng trĩu ghen hờn,
Từ nay trẫm với phi tần cung nga,
Là người dưới trướng Sam-là,
Sẵn sàng tuân phục lệnh bà phán sai!
Sambulājātakaṃ.
***
Bổn sanh Hoàng Hậu Sambulā. [519]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada