2969. Vikiṇṇavācaṃ aniguyha mantaṃ asaññataṃ aparicakkhitāraṃ, bhayaṃ tamanveti sayaṃ abodhaṃ
nāgaṃ yathā paṇḍarakaṃ supaṇṇo.
2969. “Kẻ có lời nói lung tung, không kín đáo,
không cẩn mật, không xem xét toàn diện,
nguy hiểm đi theo kẻ không tự mình thấu hiểu ấy,
giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.
1. Người nào chuyện bí mật đem phơi
Bất cẩn, lòng không muốn giữ lời,
Kẻ ngốc bị kinh hoàng trấn áp,
Như ta, Rồng chúa ngã nhào thôi!
2970. Yo guyhamantaṃ parirakkhaṇeyyaṃ mohā naro saṃsati hāsamāno, taṃ bhinnamantaṃ bhayamanveti khippaṃ nāgaṃ yathā paṇḍarakaṃ supaṇṇo.
2970. Người nào, trong lúc đùa giỡn, vì si mê mà bày tỏ chú thuật bí mật cần được giấu kín, nguy hiểm tức thời đi theo kẻ có chú thuật đã bị tiết lộ ấy, giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.
2. Người nào ngu xuẩn lộ ra ngoài
Tư tưởng cần che dấu mặt trời,
Kinh hoảng ngập tràn vì lẻo mép,
Như ta, Rồng chúa gặp chim mồi!
2971. Nānumitto garuṃ atthaṃ guyhaṃ veditumarahati, sumitto ca asambuddhaṃ sambuddhaṃ vā anatthavā.
2971. Người bạn sơ giao không xứng đáng để biết ý nghĩa quan trọng cần được giấu kín, và người bạn tốt không khôn ngoan, hoặc kẻ đối nghịch khôn ngoan (cũng vậy).
3. Không nên để bạn hữu tham gia
Ý tưởng thâm trầm nhất của ta,
Bạn tốt có khi đầy xuẩn ngốc,
Kẻ khôn lừa dối, phải phòng xa!
2972. Vissāsamāpajjimahaṃ acelo samaṇo ayaṃ sammato bhāvitatto, tassāhamakkhiṃ vivaraṃ guyhamatthaṃ atītamattho kapaṇaṃ rudāmi.
2972. Tôi đã đạt đến sự tin tưởng rằng: Gã lõa thể này đã được công nhận là vị Sa-môn, có bản thân đã được tu tập. Tôi đã giải thích cho gã ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.
4. Tin tưởng gã, ôi! Có phải chăng?
Chuyên trì khổ hạnh bậc hiền nhân?
Phơi bày bí mật, ta lầm lỗi,
Ta khóc, giờ đây nỗi đoạn trường!
2973. Tassāhaṃ purimaṃ brahme guyhaṃ vācaṃ hi maṃ nāsakkhiṃ saṃyametuṃ, tappakkhato hi bhayamāgataṃ me atītamatthā kapaṇaṃ rudāmi.
2973. Này linh điểu cao cả, bởi vì trước đây tôi đã không thể tự kiềm chế mình về lời nói cần được giấu kín đối với gã ấy. Và chính từ phía gã ấy, nguy hiểm đã đến với tôi. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.
5. Chuyện riêng tư, gã khốn len vào,
Bí mật ta không giữ được nào,
Ta sợ mối nguy từ gã đến,
Giờ ta khóc chính nỗi thương đau.
2974. Yo ve naro suhadaṃ maññamāno guyhamatthaṃ saṃsati dukkulīne, dosā bhayā athavā rāgaratto
pallatthito bālo asaṃsayaṃ so.
2974. Thật vậy, người nào nghĩ là thân tình, rồi bày tỏ ý nghĩa cần được giấu kín cho kẻ có gia tộc thấp kém, bởi vì sân hận, bởi vì sợ hãi, hay là bị đắm say ái luyến, kẻ ngu ấy chắc chắn sẽ bị tiêu tùng.
6. Tưởng bạn trung thành tận tủy xương
Sinh lòng kính sợ, nặng tình thương
Ân tình tiết lộ cho người khác
Ngã gục, người ngu chẳng thể vươn!
2975. Tirokkhavāco asataṃ paviṭṭho yo saṅgatīsu mudīreti vākyaṃ, āsīviso dummukho tyāhu taṃ naraṃ
ārā ārā saṃyame tādisamhā.
2975. Lời nói thầm kín đã bị lan tỏa giữa những người xấu. Kẻ nào thốt lên lời nói ấy ở các cuộc hội họp, người ta đã nói kẻ ấy là: ‘Loài rắn độc, kẻ thối miệng,’ nên tránh xa kẻ như thế ấy, thật xa, thật xa!
7. Ai nói lên cùng đám ác nhân
Ðiều thầm kín phải giữ trong tâm
Ðược xem rắn độc nơi trần giới,
"Kẻ ấy, tránh xa!" Chúng thét rần!
2976. Annaṃ pānaṃ kāsika candanañca manāpitthiyo mālacchādanañca, ohāya gacchāmase sabbakāme
supaṇṇa pāṇūpagatāva tyamhā.
2976. Hãy để cho chúng tôi ra đi sau khi đã bỏ xuống thức ăn, nước uống, vải Kāsi, gỗ trầm hương, các phụ nữ hợp ý, tràng hoa, vật thoa, và tất cả các dục. Này linh điểu, chúng tôi đi đến nương tựa mạng sống vào ngài.”
8. Cẩm y, mỹ nữ, gỗ chiên-đàn
Hương liệu, vòng hoa, thực phẩm ngon,
Mọi dục ác kia, ta tránh cả,
Ðiểu vương, nếu đến giúp Long vương!
2977. Konīdha tiṇṇaṃ garahaṃ upeti asmiñca loke pāṇabhū nāgarāja, samaṇo supaṇṇe athavā taveva
kiṃ kāraṇā paṇḍarakaggahīto.
2977. “Này rồng chúa, ai trong số ba người ở đây xứng đáng sự chê trách, khi ở thế gian này có ba sinh mạng: vị Sa-môn, linh điểu, hay là chính ngài? Này Paṇḍaraka, vì lý do gì ngài đã bị bắt giữ?”
9. Trong chúng ta, ba kẻ sống đây,
Nói tên ai kẻ đáng trách này?
Chẳng sư, chẳng điểu, nhưng ngài ngốc,
Mang họa Long vương nhục nhã đầy!
2978. Samaṇoti me sammatatto ahosi piyo ca me manasā bhāvitatto, tassāhamakkhiṃ vivaraṃ guyhamatthaṃ atītamattho kapaṇaṃ rudāmi.
2978. “Đối với tôi, ‘Sa-môn,’ là vị có bản thân đã được công nhận, có bản thân đã được tu tập về tâm ý, và là đáng yêu quý đối với tôi. Tôi đã giải thích cho vị ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.”
10. Ðạo sĩ, theo ta, một bạn vàng,
Chuyên trì khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Ẩn tình ta lộ, ta lầm lỗi,
Ta khóc, giờ đây, chính khổ thân!
2979. Na catthi satto amaro pathabyā paññāvidhā natthi na ninditabbā, saccena dhammena dhiyā damena alabbhamabyāharatī naro idha.
2979. “Ở trên trái đất, không có chúng sanh nào không chết.
Việc có được trí tuệ là không thể bị chê bai. Với sự chân thật, với công lý, với trí thông minh, với sự rèn luyện, con người thành tựu điều khó đạt được ở nơi này.
11. Nhân sinh trần thế phải lìa đời,
Thánh đạo cho con cháu phải soi,
Bằng tự điều thân, chân chánh hạnh,
Con người thành đạt đích cao vời.
2980. Mātā pitā paramā bandhavānaṃ nāssa tatiyo anukampakatthi, tesampi guyhaṃ paramaṃ na saṃse
mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2980. Mẹ và cha là tốt nhất trong số các thân quyến, không thể có người thứ ba nào là người có lòng thương xót, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.
12. Chẳng ai thân thiết vượt song thân,
Không kẻ thứ ba ái luyến bằng,
Song ẩn tình, người đừng tỏ lộ,
E rằng phản bội thật không tưởng!
2981. Mātāpitā bhaginībhātaro ca sahāyā vā yassa honti sapakkhā, tesampi guyhaṃ paramaṃ na saṃse
mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2981. Mẹ, cha, chị em gái, và anh em trai, các người cộng sự hay là những người cùng phe nhóm, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.
13. Mẹ cha, quyến thuộc khắp xa gần,
Bạn hữu đồng minh, dẫu thiết thân!
Ẩn ý ngươi đừng nên tỏ lộ,
Về sau phản bội, phải ăn năn.
2982. Bhariyā ce purisaṃ vajjā komārī piyabhāṇinī puttarūpayasūpetā ñātisaṅghapurakkhatā, tassāpi guyhaṃ paramaṃ na saṃse mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2982. Nếu người vợ trẻ trung nói chuyện với chồng,, có lời nói đáng yêu, có sanh con trai, có sắc đẹp, có danh tiếng, được tập thể thân quyến ưu ái, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến nàng.
14. Vợ hiền xinh đẹp, tuổi còn xuân,
Chia xẻ bầy con, đám bạn thân,
Song chớ tỏ bày điều bí ẩn,
E nàng phản bội, phải đề phòng.
2983. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ, na hi pātukato sādhu guyhamattho pajānatā.
2983. Không nên bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Bởi vì, người có sự nhận thức làm rõ ràng ý nghĩa cần được giấu kín là không tốt đẹp.
15. Ðừng ai đem chuyện kín phơi ra,
Phải giữ như kho báu của nhà,
Việc tiết lộ ra điều bí mật,
Hiền nhân chẳng muốn ngợi khen mà.
2984. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito, yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.
2984. Vị sáng suốt không nên bày tỏ điều bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, là hạng có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.
16. Bậc trí không nên lộ tấc lòng,
Với cừu nhân hoặc với hồng quần,
Những người nô lệ lòng tham dục,
Bọn chúng tỏ ra lũ bốc đồng.
2985. Guyhamatthamasambuddhaṃ sambodhayati yo naro, mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.
2985. Người nào cho biết ý nghĩa cần được giấu kín đến kẻ không khôn ngoan do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ biết được ấy).
17. Ai hé lộ ra một ẩn tình
Cho người không có trí thông minh,
Sợ lòng tin bị người làm phản,
Phải chịu người kia khống chế mình.
2986. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantitaṃ, tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.
2986. Càng có nhiều kẻ biết được ý nghĩa cần được giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.
18. Những người biết được chuyện riêng tư
Mà bạn chẳng nên để lộ ra,
Sẽ khiến bất an tâm trí bạn,
Vậy đừng tiết lộ chuyện riêng mà!
2987. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce, upassutikā hi suṇanti mantaṃ
tasmā manto khippamupeti bhedaṃ.
2987. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đêm không nên thốt ra lời vượt quá thời gian (hạn định).
Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.
19. Ban ngày chỉ có một mình ta,
Cứ bạo gan nêu chuyện kín ra,
Song giữa đêm khuya trời vắng vẻ,
Ðừng liều lĩnh lộ chuyện riêng mà.
20. Bởi vì chắc chắn ở bên lưng,
Cỏ kẻ phản ta đứng sẵn sàng,
Lời thoáng đưa đều nghe lọt cả:
Vậy đừng tin chúng: đệ cầu mong!
2988. Yathāpi assa nagaraṃ mahantaṃ advārakaṃ āyasaṃ bhaddasālaṃ, samantakhātāparikhāupetaṃ
evampi me te idha guyhamantā.
2988. Cũng giống như thành phố Bhaddasālā rộng lớn, làm bằng sắt, không có cửa ra vào, được trang bị với các hào nước được đào ở xung quanh, cũng tương tự như vậy, các chú thuật cần được giấu kín ấy của tôi là ở nơi này.
21. Như cổ thành vây bọc tứ phương,
Với hào, cọc sắt, đã coi thường
Quân thù xâm nhập vào Tiên giới,
Bí mật người khôn giữ kín luôn.
2989. Ye guyhamantā avikinṇavācā daḷhā sadatthesu narā dujivha, ārā amittā byavajanti tehi āsīvisāvāriva sattasaṅghā.
2989. Này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, những người nào có chú thuật cần được giấu kín, không có lời nói lung tung, kiên quyết trong các mục đích của mình, các kẻ thù nghịch lánh ra những người ấy, tựa như các hạng chúng sanh lánh xa những con rắn độc.”
22. Những người dù vội vã nhanh lời,
Chuyện kín vẫn không hé hở môi,
Mà quyết giữ mình luôn vững chắc,
Thật lòng chân chánh, đấy là người
Cừu nhân phải tránh, như đi trốn
Lúc rắn độc đang đuổi chạy dài!
2990. Hitvā gharaṃ pabbajito acelo naggo muṇḍo vicarati ghāsahetu, tamhi nu kho vivariṃ guyhavatthaṃ
atthā ca dhammā ca apāgatamhā.
2990. “Sau khi từ bỏ gia đình, vị xuất gia, lõa thể, trần truồng, đầu cạo, đi lại đó đây vì nguyên nhân vật thực. Quả thật, tôi đã bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín cho vị ấy. Chúng tôi đã bị lìa khỏi mục đích và công lý.
23. Lõa thể, cạo đầu, gã xuất gia,
Lang thang khất thực khắp quê nhà,
Ôi! Ðem bí mật khai cùng gã,
Phúc đức tan tành, số phận ta!
2991. Kathaṃ karo hoti supaṇṇarāja kiṃsīlo kena vatena vattaṃ, samaṇo caraṃ hitvā mamāyitāni
kathaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ.
2991. Này linh điểu chúa, vị Sa-môn là người có hành động thế nào, có giới cấm gì, đang thi hành phận sự gì? Trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm thế nào đi đến vị thế cõi trời?”
24. Giới hạnh nào, tu sĩ phải trì,
Phát nguyền nào, tránh lỗi lầm chi?
Làm sao thoát ác hành vây hãm,
Ðể đạt thiên cung cuối hạn kỳ?
2992. Hiriyā titikkhāya damena khantiyā akkodhano pesuniyaṃ pahāya, samaṇo caraṃ hitvā mamāyitāni
evaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ.
2992. “Với sự hổ thẹn (tội lỗi), với sự chịu đựng, với sự thuần hóa, với sự nhẫn nại, không giận dữ, đã dứt bỏ việc nói đâm thọc, trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”
25. Bền lòng, kham nhẫn, tự điều thân,
Vứt bỏ vọng ngôn, với hận sân,
Tu sĩ đoạn trừ bao tội lỗi,
Sau cùng đạt đến cảnh thiên cung.
2993. Mātā ca puttaṃ taruṇaṃ tanūjaṃ sampassa taṃ sabbagattaṃ phareti, evampi me tvaṃ pāturahu dijinda
mātāva puttaṃ anukampamāno.
2993. “Ví như người mẹ, trong khi nhìn đứa con trai thơ dại được sanh ra từ cơ thể của mình, khiến toàn thân rung động, cũng tương tự như vậy, này chúa của loài chim, ngài hãy thể hiện với tôi giống như người mẹ đang thương xót đứa con trai.”
26. Như trẻ sơ sinh, mẹ ngắm nhìn,
Khắp người rung động, thú thần tiên,
Ðiểu vương cũng vậy, xin ban bố,
Từ ái đàn con, đấng mẹ hiền!
2994. Handajja tvaṃ mucca vadhā dujivha tayo hi puttā nahi añño atthi, antevāsī dinnako atrajo ca
rajassu puttaññataro me ahosi.
2994. “Nào, này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, hôm nay hãy để ngài thoát khỏi sự giết hại. Bởi vì có ba loại con: học trò, con nuôi, và con ruột, không có loại (thứ tư) nào khác. Ngài hãy vui mừng! Một người con khác nữa đã có thêm cho tôi.”
27. Chúa Rồng, ta thả bạn bây giờ
Thoát chết, cho ngài được tự do
Trong các bầy con này, chỉ có:
Con nuôi, con ruột, học trò ta,
Là ba trẻ hưởng nhiều sung sướng,
Quả thật ngài là một giữa ba!
2995. Icceva vākyaṃ visajjī supaṇṇob humyaṃ patiṭṭhāya dijo dujivhaṃ, muttajja tvaṃ sabbabhayātivatto thalūdake hohi mayābhigutto.
2995. Sau khi nói lời nói y như thế, con linh điểu đã phóng thích (con rắn). Con chim đã đặt con rắn chúa xuống ở mặt đất (nói rằng): “Hôm nay, ngài đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Ngài hãy ở trên đất liền và ở trong nước. Ngài được tôi bảo vệ.”
28. Nói vậy xong, Chim chúa thả ngay
Kẻ thù, đáp nhẹ địa cầu này:
Nay ta giải phóng, mau đi kiếm
An trú xa nơi hiểm họa đầy,
Dù bạn lên bờ hay dưới nước,
Ta nguyền phòng hộ kỹ từ rày.
2996. Ātaṅkinaṃ yathā kusalo bhisakko pipāsitānaṃ rahadova sīto, vesmaṃ yathā himasītaṭṭitānaṃ
evampi te saraṇamahaṃ bhavāmi.
2996. “Giống như người thầy thuốc thiện xảo cho các bệnh nhân, tựa như hồ nước mát lạnh cho những người bị khát nước, giống như chỗ trú ngụ cho những người bị hành hạ bởi tuyết lạnh, cũng tương tự như vậy, tôi có sự nương tựa ở ngài.”
29. Như lương y có đủ tài năng,
Con bệnh hiểm nghèo đã chữa xong,
Như nước mát trong hồ giải khát
Cho bao người được thỏa thuê lòng,
Như nhà trú ẩn trời băng giá
Ta, chốn bạn nhờ, lúc bại vong.
2997. Sandhiṃ katvā amittena aṇḍajena jalābuja,
vivariya dāṭhaṃ sayasi kuto te bhayamāgataṃ.
2997. “Này loài thai sanh, sau khi đã thực hiện sự liên kết với kẻ thù là loài noãn sanh, ngài nhe răng nanh và nằm sát xuống, vậy sự nguy hiểm của ngài từ đâu đến?”30. Kìa, Long vương trước đã làm lành,
Nay bỗng dưng ngài há bộ nanh,
Với địch thủ ngài trong thuở trước,
Vì đâu ngài phách lạc hồn kinh?
2998. Saṅketheva amittamhi mittasmimpi na vissase,
abhayā bhayamuppannaṃ api mūlāni kantati.
2998. “Nên nghi ngại kẻ thù, cũng không nên tin tưởng người bạn, từ chỗ không nguy hiểm, sự nguy hiểm được sanh lên, thậm chí còn cắt đứt các gốc rễ (của sự sống).
31. Phải luôn nghi ngại kẻ thù mình,
Chớ quá tin ngay bạn chí tình,
Lòng cả tin sinh niềm sợ hãi,
Giết ngươi từ gốc đến đầu cành.
2999. Kathannu vissase tyamhi yenāsi kalaho kato, niccayattena ṭhātabbaṃ so disabbhi na rajjati.
2999. Làm thế nào có thể tin tưởng vào ngài, mà với ngài có sự cãi cọ đã được tạo ra? Người nào tồn tại với sự thường xuyên sẵn sàng, người ấy không bị quyến luyến với các kẻ thù (của mình).
32. Sao đặt lòng tin tưởng một người
Trước kia ta đã cãi tranh rồi?
Hãy lo phòng hộ mình cho kỹ,
Yêu kẻ địch à? - Chẳng có ai!
3000. Vissāsaye na ca naṃ vissaseyya asaṅkito ca saṅkito bhaveyya, tathā tathā viññū parakkameyya
yathā yathā bhāvaṃ paro na jaññā.
3000. Nên làm cho kẻ khác tin tưởng mình, và không nên tin tưởng kẻ ấy. Không nên bị kẻ khác nghi ngờ và kẻ khác nên bị mình nghi ngờ. Người hiểu biết nên nỗ lực như thế ấy để kẻ khác không có thể biết được bản chất của mình.”
33. Hãy gây tin tưởng khắp nơi nơi,
Song chớ tin vào bất cứ ai,
Ðừng để người nghi ngờ chính bạn,
Song tâm hướng đến mối nghi hoài;
Người nào thực sự là người trí,
Cần phải hết lòng gắng sức thôi,
Bản tính mình không hề để lộ,
Phơi bày ra trước mặt người đời!
3001. Te devavaṇṇā sukhumālarūpā ubho samā sujayo puññakkhandhā, upāgamuṃ kādambiyaṃ acelaṃ.
missībhūtā assavāhāva nāgā.
3001. Họ có vẻ đẹp Thiên thần, có dáng vóc thanh nhã. Cả hai tương đương nhau về sự ngay thẳng và các tích lũy về phước thiện. Họ kết hợp bản thể với nhau, tựa như hai con voi kéo cỗ xe ngựa. Họ đã đi đến gặp vị lõa thể Kādambiya.
34. Này thấy xứng đôi bạn thánh thần,
Toát ra dáng điệu tịnh tham tâm,
Như đôi tuấn mã cùng cương chạy,
Ðến chốn nhàn cư của Thánh nhân.
3002. Tato have paṇḍarako acelaṃ sayamevupāgamma idaṃ avoca, muttajjahaṃ sabbabhayātivatto na hi nūna tuyhaṃ manaso piyamhā.
3002. Thật vậy, sau đó, rồng chúa Paṇḍaraka đích thân đi đến gặp vị lõa thể và đã nói điều này: “Hôm nay, tôi đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Chúng tôi, quả thật, đã không yêu thích gì tâm ý của ông.”
35. Long vương đi thẳng đến thầy tu,
Rồng chúa báo ngay với kẻ thù:
"Phải biết hôm nay ta thoát nạn,
Không nhờ tình Thánh giả dành cho!"
3003. Piyo hi me āsi supaṇṇarājā asaṃsayaṃ paṇḍarakena saccaṃ, so rāgaratto ca akāsiṃ etaṃ pāpaṃ kammaṃ sampajāno na mohā.
3003. “Bởi vì linh điểu chúa đã được ta yêu mến hơn so với rồng chúa Paṇḍaraka; điều ấy là sự thật, không có hoài nghi. Và bị đắm say ái luyến, ta đây đã làm hành động xấu xa ấy, trong khi biết rõ, không phải do si mê.”
36. Trịnh trọng ta thề trước Ðiểu vương,
Với ngài, ta nặng trĩu tình thương,
Hơn bao giờ cả, song rung cảm
Vì mối tình thân với đại bàng,
Ta đã sai lầm vì cố ý,
Chớ không do bởi tính ngông cuồng!
3004. Na me piyaṃ appiyaṃ vāpi hoti sampassato lokamimaṃ parañca, susaññatānaṃ hi viyañjanena asaññato lokamimaṃ carāsi.
3004. “Không có việc yêu mến tôi hay không yêu mến tôi đối với vị đang xem xét đời này và đời sau. Bởi vì, so với điểm đặc trưng của các vị đã khéo tự chế ngự, ông sống ở thế gian này, không tự chế ngự.
37. Người thấy đời này lẫn kiếp sau
Chẳng hề thương ghét nhọc lòng đâu,
Tu hành đội lốt, ngài mong dấu
Hành động phi nhân, ngược thánh bào.
3005. Ariyāvakāsosi anariyo cāsi asaññato saññatasannikāso, kaṇhābhijātikosi anariyarūpo pāpaṃ bahuṃ duccaritaṃ acāri.
3005. Ông giả vờ là Thánh nhân, và không phải là Thánh nhân. Không tự chế ngự, ông làm như là đã được tự chế ngự. Ông là người có bẩm tánh đen tối, có bản chất không thánh thiện. Ông đã làm nhiều hành động ác độc, xấu xa.
38. Nhuốm đầy ty tiện, dáng cao siêu,
Khoác áo tu, lòng chẳng tự điều,
Bản tính chứa tầm tư hạ liệt,
Ngài chuyên tạo ác nghiệp bao nhiêu!
3006. Aduṭṭhassa tuvaṃ dubbhī dubbhī ca pisuno casi, etena saccavajjena muddhā te phalatu sattadhā.
3006. Này kẻ phản bội, ông là kẻ phản bội người không bị hư hỏng, và là kẻ nói đâm thọc. Do lời nói chân thật này, mong rằng cái đầu của ông hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”
39. Chỉ điểm, dối lừa, muốn giết oan
Bạn lành vô tội, vậy ta mong
Nhờ đây Thề nguyện điều Chân thật:
Bảy mảnh, đầu ngài phải vỡ tan.
3007. Tasmā hi mittānaṃ na dubbhitabbaṃ mittadubbhā pāpiyo natthi añño, āsittasatto nihato pathabyā indassa vākyena hi saṃvaro hato ”ti.
3007. Chính vì thế, không nên phản bội các bạn bè. Không có người nào là ác độc hơn so với kẻ phản bội bạn bè. Con người đã rưới rắc (nọc độc) bị rơi vào trong trái đất. Chính vì lời nói của rồng chúa, mà kẻ (mạo nhận) thu thúc bị chết.
40. Vì thế ta nay nhắn nhủ rằng
Chớ bao giờ phản bội thân bằng
Còn gì tồi tệ hơn nhìn thấy
Một thứ bạn bè giả dối chăng?
Bị nuốt trôi vào lòng đất lạnh,
Kẻ mồm độc ấy ngã nhào lăn,
Và người khổ hạnh nay đành chết
Vì chính lời kia của chúa Rồng.
Paṇḍarakajātakaṃ.
***
Bổn sanh Rồng Chúa Paṇḍaraka. [518]
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada