2935. Sace vo vuyhamānānaṃ sattannaṃ udakaṇṇave, manussabalimesāno nāvaṃ gaṇheyya rakkhaso
anupubbaṃ kathaṃ datvā muñcesi dakarakkhino. 

2935. “Nếu trong lúc tìm kiếm vật hiến tế là con người, quỷ thần sẽ bắt giữ chiếc tàu gồm bảy người của bệ hạ đang lênh đênh ở biển cả, thì bệ hạ sẽ hiến dâng và trao cho thủy thần theo thứ tự như thế nào?”

217. Bảy người thân của hoàng cung,
Ngự du trên chốn ngàn trùng đại dương,
Quỷ thần đòi hỏi tế đàn,
Khi vừa chụp lấy thuyền vàng của vua,
Những ai ngài sẽ đưa ra,
Dần theo thứ tự để mà cứu nguy?

2936. Mātaraṃ paṭhamaṃ dajjaṃ bhariyaṃ datvāna bhātaraṃ, tato sahāyaṃ datvāna pañcamaṃ dajjaṃ brāhmaṇaṃ chaṭṭhāhaṃ dajjamattānaṃ nevadajjaṃ mahosadhaṃ. 

2936. “Trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu trước tiên, rồi hiến dâng hoàng hậu, đến em trai, kế đó hiến dâng người cộng sự, và thứ năm sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn, thứ sáu trẫm sẽ hiến dâng bản thân, và sẽ không bao giờ hiến dâng vị Mahosadha.”

218. Trước tiên mẫu hậu tức thì,
Kế là hoàng hậu chánh phi Nandà,
Tiếp theo tiểu đệ hoàng gia,
Thứ tư thân hữu, năm bà-la-môn,
Chính ta thứ sáu bản thân,
Nhưng ta không hiến Trí nhân của mình!

2937. Posetā te janettī ca dīgharattānukampikā, chambhī tayi paduṭṭhasmiṃ paṇḍitā atthadassinī aññaṃ upanisaṃ katvā vadhā taṃ parimocayi.
 

2937. “Mẫu hậu là người nuôi dưỡng, là người sanh ra, và là người có lòng thương xót đến bệ hạ trong thời gian dài lâu. Khi bệ hạ bị Chambhī hãm hại, mẫu hậu là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, đã tạo ra người khác giống như bệ hạ để thế chỗ, và đã giúp cho bệ hạ thoát khỏi cái chết. 

219. Lệnh bà dưỡng dục sinh thành,
Bao năm tận tụy nhiệt tình với con,
Khi Cham-bhì hại hoàng nam,
Khôn ngoan bà thấy việc làm lợi vua,
Đem người thế chỗ vương gia,
Nên ngài đã được chính bà cứu nguy.

2938. Taṃ tādisaṃ pāṇadadiṃ orasaṃ gabbhadhāriṇiṃ, mātaraṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino. 

2938. Người phụ nữ như thế ấy đã ban cho mạng sống, đã mang nặng bào thai, đã bồng ẵm bệ hạ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần?”

220. Mẹ cho đời sống từ bi,
Chính bà mang nặng hoàng nhi trong lòng.
đâu là các lỗi lầm,
Ngày đem hiền mẫu hiến dâng thủy thần?

2939. Daharā viya alaṅkāraṃ dhāreti apiḷandhanaṃ, dovārike anīkaṭṭhe ativelaṃ pajagghati. 

2939. “Mẫu hậu đeo đồ trang điểm và vật trang sức như là còn con gái. Bà cười lớn tiếng và quá lố, nhạo báng các quân gác cổng và các lính ngự lâm.

221. Giống như thiếu nữ còn xuân
Bà đeo các món bội hoàn nữ trang
Mà bà già chẳng nên mang.
Phi thời bà chế nhạo quân canh phòng.

2940. Tatopi paṭirājānaṃ sayaṃ dūtāni sāsati, mātaraṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino. 

2940. Kế đó, bà còn dạy bảo các sứ giả của mình đi gặp các vị vua đối nghịch. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần.”

222. Lại thường gửi điệp địch vương,
Mà không được lệnh của hoàng gia đây.
Chính vì các lỗi lầm này,
Nên ta đem hiến bà ngay thủy thần!

2941. Itthigumbassa pavarā accantapiyavādinī, anuggatā sīlavatī chāyāva anapāyinī.

2941. “Hoàng hậu là người nữ cao quý trong toán nữ nhân, có giọng nói vô cùng đáng yêu, không làm bộ quý phái, có giới hạnh, không xa cách, tựa như cái bóng,–

223. Lệnh bà đệ nhất hồng quần,
Cực kỳ diễm lệ, nói năng ân cần,
Tràn đầy đức hạnh, nhiệt tâm,
Kề bên hoàng hậu uyên ương bóng hình,

2942. Akkodhanā paññavatī paṇḍitā atthadassinī, ubbariṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino

2942. –không giận dữ, có trí tuệ, là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần?” 

224. Chẳng hề giận dỗi bất bình,
Khôn ngoan, thận trọng, chân thành lợi vua.
Vậy vì lầm lỗi đâu mà
Ngài đem hoàng hậu hiến dâng thủy thần?

2943. Khiḍḍāratisamāpannaṃ anatthavasamāgataṃ, sā maṃ sakānaṃ puttānaṃ ayācaṃ yācate dhanaṃ. 

2943. “Biết trẫm say đắm với các việc vui đùa cùng những sự thích thú và chịu sự tác động của các trò vô bổ, hoàng hậu cầu xin trẫm phần tài sản thuộc về các người con của trẫm, không thể cho được.

225-226. Nhờ bao vẻ đẹp mê hồn,
Bà hoàng đã khiến vương quân phục tòng,
Chịu nhiều ảnh hưởng bất nhân,
Và đòi những thứ bà không nên đòi
Dành cho con của bà thôi.

2944. Sohaṃ dadāmi sāratto bahuṃ uccāvacaṃ dhanaṃ, suduccajaṃ cajitvāna pacchā socāmi dummano, ubbariṃ tena dosena dajjāmi dakarakkhino. 

2944. Bị luyến ái, trẫm đây ban cho hoàng hậu nhiều tài sản cao thấp khác nhau. Sau khi từ bỏ vật rất khó từ bỏ, về sau trẫm sầu muộn, buồn bã. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần.”

Vì ta say đắm ban hoài đặc ân.
Ta ban những vật khó ban,
Về sau hối hận muôn vàn đắng cay,
Chính vì các lỗi lầm này.
Ta đem hoàng hậu tế ngay thủy thần!

2945. Yenocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ. 

2945. “Nhờ vào người em trai mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác. 

227. Chàng đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Chàng đưa Hoàng thượng tái hồi,
Chàng không hề bị cuốn lôi bạc vàng.

2946. Dhanuggahānaṃ pavaraṃ sūraṃ tikhiṇamantinaṃ, bhārataṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino. 

2946. Chàng dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần?”

228. Anh hùng thiện xạ vô song,
Ti-khi-na thật tinh thông muôn phần,
Vậy đâu là các lỗi lầm,
Ngài đem hoàng đệ tế dâng thủy thần?

2947. Mayocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ.

2947. “‘Nhờ vào ta mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác.

29. "Ta đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Ta đưa Hoàng thượng tái hồi,
Ta không hề bị cuốn lôi bạc vàng.

2948. Dhanuggahānaṃ pavaro sūro tikhiṇamanti ca, mayāyaṃ sukhito rājā atimaññati dārako.

2948. Ta là dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ. Nhờ vào ta mà vị vua này được sung sướng,’ chàng trai trẻ tự hào như thế.

Ta là thiện xạ vô song,
Anh hùng vô địch tinh thông trí tài.
Ta tôn Hoàng thượng lên ngôi".
Chàng suy nghĩ vậy, thế rồi về sau.

2949. Upaṭṭhānampi me ayye na so eti yathā pure, bhārataṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.
 

2949. Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí vị ấy không đi đến hầu cận trẫm giống như trước đây. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần.” 

230. Chàng không đi đến cung chầu,
Như thường thuở trước chàng hầu bên ta.
Chính vì lầm lỗi kia mà,
Ta đem hoàng đệ tế dâng thủy tề.

2950. Ekarattena ubhayo tuvañca dhanusekhavā, ubho jātettha pañcālā sahāyā susamāvayā. 

2950. “Cả hai người, bệ hạ và Dhanusekhavā, đã được sanh ra cùng một đêm. Cả hai đã được sanh ra ở nơi này, đều là người xứ Pañcāla, là cộng sự, là đồng niên tốt.

231. Ngài và Dha-nu-sek-ha,
Cùng mang tên tộc Pañ-cà-la-mà.
Một đêm hai vị sinh ra,
Vừa là thân hữu vừa là đồng môn,

2951. Cariyā taṃ anubandhittho ekadukkhasukho tava, ussukko te divārattiṃ sabbakiccesu vyāvaṭo,
sahāyaṃ tena dosena dajjāsi dakarakkhino. 

2951. Vị ấy đã đi theo bệ hạ trong các cuộc du hành, có chung sự vui khổ với bệ hạ, siêng năng, gắn bó ngày đêm với bệ hạ trong mọi công việc; vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng người cộng sự cho thủy thần?”

Suốt đời hầu cận minh quân,
Đồng cam cộng khổ vui buồn bên nhau.

232. Nhiệt tình thận trọng bấy lâu,
Hết lòng phục vụ kể đâu đêm ngày.
Vậy thì lầm lỗi nào đây,
Ngài đem thân hữu tế ngay thủy thần?

2952. Cariyāya ayaṃ ayye pajagghittho mayā saha, ajjāpi tena vaṇṇena ativelaṃ pajagghati. 

2952. “Thưa nữ ẩn sĩ, vị này đã cười lớn tiếng cùng với trẫm trong cuộc du hành, thậm chí hôm nay, cũng với cung cách đó cười lớn tiếng và quá lố.

233. Suốt đời, thưa nữ đạo nhân,
Chàng thường vui thú chung cùng bên ta.
Chính vì duyên cớ ấy mà,
Nay chàng hành động quá là tự do.

2953. Ubbariyāpi me ayye mantayāmi rahogato, anāmantā pavisati pubbe appaṭivedito. 

2953. Thưa nữ ẩn sĩ, ngay cả khi trẫm bàn bạc với hoàng hậu ở nơi kín đáo, vị này, không được triệu mời, cũng đi vào không thông báo trước.

234. Nếu ta nói chuyện riêng tư,
Cùng hoàng hậu, cứ xông vô phi thời,
Mà không có lệnh ta đòi,
Cũng không thông báo cho người nào hay.

2954. Laddhavāro katokāso ahirikaṃ anādaraṃ, sahāyaṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino. 

2954. Với dịp may đã đạt được, với cơ hội đã được tạo ra, vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng người cộng sự vô liêm sỉ, bất kính cho thủy thần.” 

235. Nếu cho chàng một dịp may,
Làm điều bất kính, nhục đầy xấu xa,
Chính vì lầm lỗi ấy mà
Ta đem thân hữu hiến cho thủy thần.

2955. Kusalo sabbanimittānaṃ rudaññū āgatāgamo, uppāde supine yutto niyyāne ca pavesane. 

2955. “Vị Bà-la-môn là thiện xảo về mọi điềm báo hiệu, biết giải thích về tiếng kêu (của các loài thú), có học thức được truyền thừa, chuyên chú về thiên văn, giải mộng, sự di chuyển đi và đến của các tinh tú,–

236. Tế sư quả thật tinh khôn,
Biết nhiều điềm triệu, thanh âm ở đời,
Chuyên môn đoán rộng, vãng lai,

2956. Paddho bhummantalikkhasmiṃ nakkhattapadakovido, brāhmaṇaṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino. 

2956. –là người thông thạo về trái đất và không gian, rành rẽ về các chòm sao, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn cho thủy thần?”

Am tường dấu hiệu đất trời, trăng sao,
Vậy thì do lỗi lầm nào,
Đại vương đem đạo sĩ trao thủy thần?

2957. Parisāyampi me ayye mīlayitvā udikkhati, tasmā ajja bhamuṃ luddaṃ dajjāhaṃ dakarakkhino. 

2957. “Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí trong buổi họp, vị này mở mắt nhìn thẳng vào trẫm. Vì thế, hôm nay trẫm sẽ hiến dâng kẻ nhướng mày, dữ tợn cho thủy thần.”

237. Dù ngay ở giữa quần thần,
Lão thường mở mắt trừng trừng nhìn ta,
Nên ta muốn hiến lão già,
Nhăn mày quỷ quái ấy cho thủy thần!

2958. Sasamuddapariyāyaṃ mahiṃ sāgarakuṇḍalaṃ, vasundharaṃ āvasasi amaccaparivārito. 

2958. “Được phò tá bởi các cận thần, bệ hạ cư ngụ trên phần đất có đại dương là vòng rào, có biển cả là vành đai, ở quả địa cầu.

238. Đại vương ở giữa triều thần,
Trong châu lục lớn, ngàn trùng biển xanh,

2959. Cāturanto mahāraṭṭho vijitāvī mahabbalo, pathavyā ekarājāsi yaso te vipulaṃ gato.

2959. Có đất nước rộng lớn gồm cả bốn phương, bệ hạ là người thắng trận, có sức mạnh vĩ đại, là vị vua độc nhất ở trên trái đất; danh tiếng của bệ hạ lan truyền rộng khắp.

Thay vì thành lũy bao quanh,
Ngự trên đế quốc hùng anh đại cường,
Độc tôn hoàng đế trần gian,
Thật là vĩ đại vinh quang vô vàn.

2960. Soḷasitthisahassāni āmuttamaṇikuṇḍalā, nānājanapadā nāriyo devakaññūpamā subhā.  

2960. Mười sáu ngàn nữ nhân có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, thuộc các xứ sở khác nhau, xinh đẹp tương tự như các nàng tiên nữ. 

239. Nữ nhi một vạn sáu ngàn,
Điểm tô châu ngọc, nữ trang sáng ngời,
Giai nhân từ khắp mọi nơi,
Khác nào tiên nữ cao vời thiên cung.

2961. Evaṃ sabbaṅgasampannaṃ sabbakāmasamiddhinaṃ, sukhitānaṃ piyaṃ dīghaṃ jīvitaṃ āhu khattiya. 

2961. Tâu vị Sát-đế-lỵ, người ta đã nói cuộc sống được đầy đủ mọi yếu tố, được thành tựu tất cả các dục của những người hạnh phúc là đáng yêu và lâu dài.

240. Được dâng mọi thứ cần dùng,
Mọi điều ước nguyện cầu mong vẹn toàn,
Đại vương đã sống trường tồn,
Trong niềm hạnh phúc hân hoan tột cùng.

2962. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajasi duccajaṃ. 

2962. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, bệ hạ lại từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ?”

Đâu là duyên cớ nguyên nhân,
Hy sinh ngọc thể hộ phòng Trí nhân?

2963. Yatopi āgato ayye mama hatthaṃ mahosadho, nābhijānāmi dhīrassa aṇumattampi dukkataṃ. 

2963. “Thưa nữ ẩn sĩ, từ khi Mahosadha đi đến dưới trướng của trẫm, trẫm không hay biết việc làm sai trái nào, dầu là nhỏ nhoi, của bậc sáng trí.

241. Thưa bà, Trí giả Đại thần,
Từ khi đến ở kế gần bên ta,
Ta không hề thấy bao giờ,
Con người khí phách tạo ra lỗi lầm,
Dù là một mảy cỏn con.

2964. Sace ca kismici kāle maraṇaṃ me pure siyā, putte ca me paputte ca sukhāpeyya mahosadho. 

2964. Và nếu vào một thời điểm nào đó, cái chết xảy ra cho trẫm trước, vị Mahosadha có thể giúp cho các con và các cháu của trẫm được hạnh phúc. 

242. Nếu ta chết trước Trí nhân lúc nào,
Người đem hạnh phúc biết bao,
Cho đàn con cháu mai sau lâu dài.

2965. Anāgataṃ paccuppannaṃ sabbamatthaṃ vipassati, anāparādhakammantaṃ na dajjaṃ dakarakkhino. 

2965. Vị ấy nhìn thấy rõ tất cả mọi việc tương lai và hiện tại. Trẫm sẽ không bao giờ hiến dâng vị không có hành động lỗi lầm cho thủy thần.”

243. Người thông minh mọi việc trên đời,
Dù là quá khứ, tương lai xa gần.
Người này không có lỗi lầm,
Ta không muốn tế thủy thần quỷ ma.

2966. Idaṃ suṇotha pañcālā cūḷanīyassa bhāsitaṃ, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajati duccajaṃ. 

2966. “Này những người dân xứ Pañcāla, các người hãy lắng nghe lời nói này của đức vua Cūḷanīya. Trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, đức vua từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ.

244. Thần dân của xứ Pañ-cà,
Nghe lời này của vua Cù-la-ni,
Bảo toàn bậc Trí giả kia,
Đức vua nào có kể chi mình vàng.

2967. Mātu bhariyāya bhātucca sakhino brāhmaṇassa ca, attano cāpi pañcālo channaṃ cajati jīvitaṃ. 

2967. Đức vua xứ Pañcāla từ bỏ mạng sống của sáu người là: người mẹ, người vợ, người em trai, người cộng sự, vị Bà-la-môn, và luôn cả bản thân.

245. Cuộc đời của chính mẫu hoàng,
Em trai, hoàng hậu, thân bằng, bản thân,
Vua Pãn-cà thảy sẵn lòng,
Hy sinh tất cả hiến dâng thủy thần.

2968. Evaṃ mahatthikā paññā nipuṇā sādhucintanī, diṭṭhadhamme hitatthāya samparāye sukhāya cā ”ti. 

2968. Như vậy, trí tuệ khôn khéo, sự suy nghĩ tốt đẹp, có ý nghĩa lớn lao cho sự lợi ích và tấn hóa ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.” 

246. Diệu kỳ thay trí lực hùng,
Thông minh tài giỏi vô song như vầy,
Chỉ vì ích lợi đời này,
Cùng là hạnh phúc lâu dài đời sau.

Câu chuyện 517

Dakarakkhasapañho.

***

Câu Hỏi của Thủy Thần. [517]

***   



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada