2890. Bārāṇassaṃ ahu rājā kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano, mittāmaccaparibūḷho agamāsi migājiraṃ.
2890. Đức vua của xứ Kāsi ngụ ở thành Bārāṇasī là bậc làm hưng thịnh đất nước. Được tháp tùng bởi các thân hữu và các viên quan đại thần, đức vua đã đi đến vườn hoa Migājira.
1. Tương truyền đại đế xứ Kà-si,
Một thuở Ba-la-nại trị vì,
Cùng với hiền thần trên đại lộ
Vào đến Vườn Nai một bữa kia.
2891. Tattha brāhmaṇamaddakkhi setaṃ citraṃ kilāsinaṃ, viddhastaṃ koviḷāraṃva kisaṃ dhamanisanthataṃ.
2891. Tại nơi ấy, đức vua đã nhìn thấy một vị Bà-la-môn bị bệnh cùi, (làn da) có lốm đốm màu trắng, có vết thương bị lở loét tựa như bông hoa koviḷāra, (có thân thể) gầy ốm, nổi đầy gân.
2. Ðằng kia vua thấy gã La-môn,
Một bộ xương khô bước chập chờn,
Da trắng vì mang dòng máu hủi,
Xù xì xương xẩu tựa cây mun.
2892. Paramakāruññataṃ pattaṃ disvā kicchagataṃ naraṃ, avaca byamhito rājā yakkhānaṃ katamonusi.
2892. Sau khi nhìn thấy người đàn ông bị lâm cảnh khó khăn, đã đạt đến trạng thái bi thương tột độ, đức vua bị sửng sốt, đã nói rằng: “Ngươi là loại nào trong số các Dạ-xoa?
3. Ngạc nhiên trước cảnh tượng đau thương
Của kẻ không may, nặng khổ buồn:
"Thật tội nghiệp ngươi", ngài phán hỏi,
Tên gì, ác quỷ phận đành mang?
2893. Hatthapādā ca te setā tato setataraṃ siro, gattaṃ kammāsavaṇṇante kilāsabahulo vasī.
2893. Các tay chân của ngươi màu trắng, và đầu còn trắng hơn thế nữa. Thân thể của ngươi có làn da lốm đốm. Ngươi sống với nhiều bệnh ngoài da.
4. Giống như tuyết trắng cả tay chân,
Ta chắc đầu ngươi lại trắng hơn,
Thân thể ngươi tràn đầy vết hủi,
Bệnh kia ghi dấu ấn riêng phần.
2894. Vaṭṭanāvaḷi saṅkāsā piṭṭhi te ninnatunnatā, kāḷapabbāva te aṅgā nāññaṃ passāmi edisaṃ.
2894. (Xương sống) lưng của ngươi lồi lên lõm xuống giống như một chuỗi gồm các trục quay. Tay chân của ngươi tựa như các khúc dây leo màu đen. Trẫm chưa thấy người nào khác giống như thế này.
5. Lưng ngươi như suốt chỉ giăng hàng,
Lồi lõm, dài ngoằn lại uốn quăn,
Xương khớp đen điu như mẩu gỗ,
Chẳng hề ai thấy kẻ ngang bằng!
2895. Ugghaṭṭapādo tasito kiso dhamanisanthato, chāto ātattarūposi kutosi kattha gacchasi.
2895. Ngươi có bàn chân bị rách tươm, run rẩy, gầy ốm, nổi đầy gân, đói khát, có dáng vẻ cằn cỗi. Ngươi từ đâu đến? Ngươi đi về đâu?
6. Ngươi từ đâu đến, kẻ lang thang,
Khốn khổ bơ vơ, da bọc xương,
Ðầu đội nắng trời nung bức lửa,
Chịu bao đói khát quá đau thương?
2896. Duddasī appakārosi dubbaṇṇo bhīmadassano, janetti yāpi te mātā na taṃ iccheyya passituṃ.
2896. Ngươi có bộ dạng xấu xí, không được bình thường, xấu tướng, có hình dáng ghê rợn. Thậm chí mẹ của ngươi, là người sanh ra ngươi, cũng không muốn nhìn thấy ngươi.
7. Hình hài tàn phá thật kinh hoàng,
Chẳng xứng nhìn lên ánh nhật quang,
Ngay chính mẹ ngươi chắc cũng chẳng
Còn mong nhìn trẻ quá tồi tàn!
2897. Kiṃ kammamakarā pubbe kiṃ avajjhaṃ aghātayi, kibbisaṃ yaṃ karitvāna idaṃ dukkhaṃ upāgami.
2897. Ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây? Có phải ngươi đã giết người vô tội, và sau khi gây ra tội ác ấy, ngươi đã đi đến sự khổ đau này?”
8. Ác nghiệp gì xưa ngươi đã gây
Hay là ngộ sát kẻ nào đây,
Tội gì người phạm, ta mong biết,
Xui khiến ngươi mang nỗi khổ này?
2898. Taggha te ahamakkhissaṃ yathāpi kusalo tathā, saccavādiṃ hi lokasmiṃ pasaṃsantīdha paṇḍitā.
2898. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo nói như thế nào thì thần cũng sẽ nói với bệ hạ như thế ấy. Bởi vì, các bậc sáng suốt ở thế gian này khen ngợi người có lời nói chân thật.
9. Thần xin thưa thật với Tôn quân
Hành động đúng như một thiện nhân,
Vì kẻ không bao giờ dối trá,
Người hiền khen ngợi giữa phàm trần.
2899. Eko caraṃ gogavese mūḷho accasariṃ vane, araññe īriṇe vivane nānākuñjarasevite.
2899. Trong khi một mình lang thang cho việc tìm kiếm các con trâu, thần bị lạc lối và đã đi vào quá sâu trong khu rừng, không người lai vãng, nơi hoang vu, vắng vẻ, được vô số con voi lai vãng.
10. Xưa kia thần đến một rừng hoang,
Tìm kiếm đàn trâu tối lạc đàng,
Băng mãi lối mòn rừng rậm rạp,
Nơi loài voi ở, bước lang thang.
2900. Vāḷamigānucarite vippanaṭṭhosmi kānane, acariṃ tattha sattāhaṃ khuppipāsā samappito.
2900. Thần đã bị lạc mất phương hướng ở trong khu rừng rậm, nơi các loài thú dữ thường lui tới. Thần đã lang thang ở nơi ấy bảy ngày, phải chịu đựng đói khát.
11. Lạc trong rừng rậm quá hoang sơ,
Chịu đói khát đau khổ xót xa,
Suốt bảy ngày ròng thần lẩn quẩn,
Chốn loài hổ dữ mớm con thơ.
2901. Tattha tindukam addakkhiṃ visamaṭṭhaṃ bubhukkhito, papātamhi lambantaṃ sampannaphaladhārinaṃ.
2901. Tại nơi ấy, bị đói vô cùng, thần đã nhìn thấy cây tinduka mọc chênh vênh, mang nặng những trái ngon ngọt đang treo lủng lẳng ở bên vực thẳm.
12. Trái độc tối kinh, cũng cứ thèm
Ô kìa, đôi mắt bỗng bừng lên:
Cây xinh lắt lẻo ngang bờ vực,
Lơ lửng trái thơm trĩu nhánh mềm.
2902. Vātasītāni bhakkhesiṃ tāni rucciṃsu me bhusaṃ, atitto rukkhamāruyha tattha hessāmi āsito.
2902. Thần đã ăn những trái bị rụng xuống bởi gió, chúng đã làm cho thần hứng thú rất nhiều. Chưa được thỏa mãn, (thần đã nghĩ rằng): ‘Sau khi trèo lên cây, ta sẽ được ăn ở trên đó.’
13. Những trái rơi theo gió lạnh rung
Thần nhai ngấu nghiến nuốt thơm lừng,
Vẫn còn khao khát, thần leo vội:
"Cách ấy no nê được vẹn toàn".
2903. Ekamme bhakkhitaṃ āsi dutiyaṃ abhipatthitaṃ, tato sā bhañjatha sākhā chinnā pharasunā viya.
2903. Thần đã ăn được một trái, và (với tay ra) mong được trái thứ hai. Do đó, cành cây ấy đã gãy lìa, tựa như bị chặt đứt bởi cái rìu.
14. Chưa từng ăn quả chín ngon sao!
Thần vội giơ tay hái thật nhiều,
Cành lá, dựa thân vào gãy đứt
Như là chặt bởi búa ông tiều.
2904. Sohaṃ sahāva sākhāhi uddhapādo avaṃsiro, appatiṭṭhe anālambe giriduggasmiṃ pāpataṃ.
2904. Thần đây cùng với các cành cây, chân phía trên đầu phía dưới, đã rơi xuống khe núi hiểm trở, không đứng lên được, không nơi bám víu.
15. Cành gãy làm cho ngã lộn thân,
Không gì chặn lại, rớt nhanh dần
Trên bờ vực thẳm, đầy tường đá,
Không thoát khỏi hang vực thẳm cùng.
2905. Yasmā ca vārigambhīraṃ tasmā na samapajjasiṃ, tattha sesiṃ nirānando anātho dasa rattiyo.
2905. Và bởi vì độ sâu của nước nên thần đã không làm gì được. Thần đã nằm ở nơi ấy mười đêm, không chút vui thích, không gì nương tựa.
16. Nước sâu nằm dưới bờ vực kia,
Cứu mạng không tan nát thảm thê,
Rồi bất hạnh thay, thần tuyệt vọng,
Mười đêm nằm đợi thật dài ghê!
2906. Athettha kapi māgañchi gonaṅguṭṭho darīvaro, sākhāhi sākhaṃ vicaranto khādamāno dumapphalaṃ.
2906. Rồi có con khỉ đã đi đến nơi này, là loài khỉ có đuôi dài như đuôi bò, sống ở hang động. Nó di chuyển từ cành này sang các cành khác và ăn trái cây.
17. Cuối cùng một chú Khỉ dài đuôi
Trú ẩn trong hang đá, đến nơi,
Nhảy nhót cành này sang bụi nọ,
Hái ăn trái chín thật xinh tươi.
2907. So maṃ disvā kisaṃ paṇḍuṃ kāruññamakarā mayi, ambho ko nāma so ettha evaṃ dukkhena aṭṭito
manusso amanusso vā attānaṃ me pavedaya.
2907. Nhìn thấy thần gầy ốm, vàng vọt, con khỉ đã có lòng thương xót đến thần (nói rằng): ‘Này ông, ông đây là ai mà phải bị hành hạ một cách khổ sở như vầy? Ông là người hay là phi nhân? Ông hãy cho tôi biết về bản thân.’
18. Chợt thấy thần vàng vọt héo khô,
Ðộng lòng trắc ẩn, Khỉ kêu to:
"Khốn thay! Ta thấy ai nằm đó
Tuyệt vọng đau thương ngập tận bờ
Như vậy, ví như người hoặc quỷ,
Ông là ai đó, nói nguyên do".
2908. Tassañjaliṃ paṇāmetvā idaṃ vacanamabraviṃ, manussohaṃ byasampatto sā me natthi ito gati,
taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo tvañca me saraṇaṃ bhava.
2908. Sau khi cúi mình chắp tay với nó, thần đã nói lời nói này: ‘Ta là người, ta bị lâm cảnh khốn cùng. Lối đi ra khỏi nơi này không có cho ta. Ta nói điều ấy cho ngươi. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho ngươi. Và ngươi hãy là nơi nương nhờ cho ta.’
19. Thần đầy cung kính, vội thưa ngay:
"Một kẻ khốn cùng chính lão đây,
Song phước đức dành cho Khỉ hết,
Nếu tìm được cách cứu thân này".
2909. Garusilaṃ gahetvāna vicaraṃ pabbate kapi, silāya yoggaṃ katvāna nisabho etadabravi.
2909. Trong khi di chuyển ở ngọn núi, con khỉ đã chọn lấy một tảng đã lớn. Sau khi thực hiện việc tính toán với tảng đá, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này:
20. Chúa Khỉ chuyển cành ở núi cao,
Mang hòn đá nặng lực anh hào,
Ấy nhờ tu luyện tròn công hạnh,
Mục đích tỏ bày trọng đại sao:
2910. Ehi me piṭṭhimāruyha gīvaṃ gaṇhāhi bāhuhi, ahaṃ taṃ uddharissāmi giriduggata vegasā.
2910. ‘Ông hãy đến, hãy leo lên lưng tôi và hãy ôm cổ tôi bằng hai cánh tay, tôi sẽ mang ông lên khỏi khe núi hiểm trở một cách mau chóng.’
21. "Tôn ông, trèo đến chỗ lưng này,
Quanh cổ ta, ghì chặt cánh tay,
Tức tốc ta đem ông thoát khỏi
Vách tường đá, chính cảnh tù đày".
2911. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā vānarindassa sirīmato, piṭṭhimārūyha dhīrassa gīvaṃ bāhāhi aggahiṃ.
2911. Nghe được lời nói ấy của con khỉ chúa có sự vinh quang ấy, thần đã leo lên lưng của con khỉ sáng suốt và đã ôm cổ nó bằng hai cánh tay.
22. Hoan hỷ, thần ghi nhớ rõ ràng
Lời khuyên của chúa Khỉ vinh quang,
Trèo lên lưng nọ, đôi tay bám,
Quanh cổ trí nhân thật vững vàng.
2912. So maṃ tato samuṭṭhāsi tejassī balavā kapi, vihaññamāno kicchena giriduggata vegasā.
2912. Con khỉ có năng lực và có sức mạnh ấy, trong lúc bị mệt nhọc bởi sự khó khăn, đã nhanh chóng đưa thần lên khỏi khe núi hiểm trở.
23. Chúa Khí lúc này thật mạnh thay,
Kiên cường can đảm đến như vầy
Dẫu rằng mệt lả vì hao sức,
Chốc lát đưa lên vách đá dày.
2913. Uddharitvāna maṃ santo nisabho etadabravi, iṅgha maṃ samma rakkhassu passupissaṃ muhuttakaṃ.
2913. Sau khi mang thần lên, bị kiệt sức, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này: ‘Nào, ông hãy bảo vệ tôi cẩn thận, tôi sẽ ngủ trong chốc lát.
24. Kéo thần xong, cất tiếng anh hùng:
"Ta mệt nhoài: xin đứng hộ phòng,
Bên cạnh mình ta, tôn giả hỡi,
Trong khi ta ngủ giấc say nồng.
2914. Sīhā vyagghā ca dīpī ca acchakokataracchayo, te maṃ pamattaṃ hiṃseyyuṃ te tvaṃ disvā nivāraya.
2914. Các con sư tử, các con cọp, các con báo, và các con gấu, chó sói, và chó rừng, chúng có thể hãm hại tôi khi tôi đã ngủ say. Ông hãy trông chừng và ngăn chặn chúng.’
25. Các thứ như beo, gấu, hổ, sư,
Nếu nhìn ta, thấy quá thờ ơ,
Chúng liền giết hại ta ngay đấy,
Tôn giả canh phòng, chớ phải lo".
2915. Evaṃ me parittātūna passupi so muhuttakaṃ, tadāhaṃ pāpakaṃ diṭṭhiṃ paṭilacchiṃ ayoniso.
2915. Sau khi đã tạo sự hộ trì bởi thần như vậy, con khỉ ấy đã ngủ trong chốc lát. Khi ấy, thần đã có ý nghĩ xấu xa, không đúng đắn rằng:
26. Trong lúc thần đang đứng hộ phòng
Hầu vương đánh một giấc an thân,
Một tư tưởng xấu xa nhen nhúm
Tiềm ẩn lan dần ở nội tâm:
2916. Bhakkho ayaṃ manussānaṃ yathā caññe vane migā, yannūnimaṃ vadhitvāna chāto khādeyyaṃ vānaraṃ.
2916. ‘Đây là thức ăn của loài người, giống như các con thú khác ở trong rừng. Bị đói lả, có lẽ ta nên giết chết và ăn thịt con khỉ này.
27. "Khỉ, vượn, hươu, nai thật ngọt ngon
Vậy sao ta chẳng giết hầu vương
Ðỡ cơn đói khát và con thịt
Cung cấp cho ta món tuyệt trần?
2917. Asito ca gamissāmi maṃsamādāya sambalaṃ, kantāraṃ nittharissāmi pātheyyaṃ me bhavissati.
2917. Và khi đã ăn no, ta sẽ ra đi mang theo thịt làm thức ăn dự phòng. Ta sẽ đi ra khỏi khu rừng hoang. Sẽ có thực phẩm đi đường cho ta.’
28. Khi no dạ, chẳng muốn chần chờ,
Song kiếm thật đầy thực phẩm khô,
Tích trữ cho nhiều ngày vất vả,
Từ rừng ta sẽ kiếm đường ra".
2918. Tato silaṃ gahetvāna matthakaṃ sannitāḷayiṃ, mama bhatta kilantassa pahāro dubbalo ahu.
2918. Sau đó, thần đã cầm lấy tảng đá và đã đánh vào đầu (con khỉ). Trong khi mệt nhọc vì (thiếu) thức ăn, cú đánh của thần đã là yếu ớt.
29. Cầm viên đá suýt đánh tan tành
Chiếc sọ kia, song bởi phận mình
Tay vụng về đưa lên loạng quạng,
Vung ra yếu ớt chẳng nên hình.
2919. So ca vegenudappatto kapi rudhira makkhito, assupuṇṇehi nettehi rodanto maṃ udikkhati.
2919. Và con khỉ ấy đã mau chóng đứng lên, đầm đìa máu me. Với hai con mắt đẫm lệ, nó ngước nhìn thần, than khóc rằng:
30. Chúa Khỉ nhanh chân nhảy ngọn cây
Toàn thân bê bết máu tuôn đầy,
Từ xa trách móc nhìn thần mãi
Với cặp mắt tuôn lệ chảy dài:
2920. Māyyo maṃ kari bhaddante tvaṃ ca nāmedisaṃ kari, tvaṃ ca kho nāma dīghāyu aññe vāretumarahasi.
2920. ‘Thưa tôn ông, ông chớ làm vậy với tôi. Ông đây đã làm cái việc như thế này! Và thật vậy, ông đây lại có thể ngăn chặn người khác về tuổi thọ!
31. "Cầu trời ban phước lộc tôn ông,
Ðừng làm như vậy, chỉ cầu mong
Kẻo sau số phận ngài, ta chắc
Gặp phải người hành động bất nhân.
2921. Aho vata re purisa tāva dukkarakāraka, edisā visamā duggā papātā uddhato mayā.
2921. Ôi, thật vậy sao, hỡi gã đàn ông! Hỡi kẻ làm công việc khó làm đến chừng này! Ông đã được tôi mang lên từ vực thẳm hiểm trở, chênh vênh như thế ấy!
32. Than ôi nhục nhã đến như vầy!
Sao trả ơn ta cách thế này?
Vì đã cứu ông ra thoát khỏi
Vực kia sâu thẳm hãi kinh đầy!
2922. Ānīto paralokāva dubbheyyaṃ maṃ amaññatha, tantena pāpadhammena pāpaṃ pāpena cintitaṃ.
2922. Kẻ đã được đem về từ nơi được ví như thế giới bên kia đã tưởng rằng tôi là có thể phản bội. Việc ác ấy được suy nghĩ bởi kẻ ác có pháp ác ấy.
33-34. Cứu tử, chơi trò phản bội ta
Âm mưu việc ác với tâm ma,
2923. Mā heva tvaṃ adhammaṭṭha vedanaṃ kaṭukaṃ phusi, māheva pāpakammantaṃ phalaṃ veḷuṃva taṃ vadhi.
2923. Này kẻ sống theo phi pháp, mong rằng ngươi chớ có gánh chịu cảm thọ cay đắng, chớ có giống như kẻ gánh chịu ác nghiệp ấy, tương tự như trái ở cây tre đã hại chết cây tre ấy.
Coi chừng, kẻ ác, e đày đọa,
Khốc liệt xuất từ ác nghiệp kia
Ðem họa tử vong cho chủ nó,
Khác nào trái giết gốc tre già.
2924. Tayi me natthi vissāso pāpadhammo asaññato, ehi me piṭṭhito gaccha dissamānova santike.
2924. Không còn sự tin tưởng của ta ở nơi ngươi nữa, này kẻ có ác pháp không được chế ngự. Ngươi hãy đến, hãy đi ở phía sau lưng của ta, sao cho ngươi còn được nhìn thấy ở khoảng cách không xa.
35. Ta chẳng còn tin tưởng ở ngươi,
Vì ngươi làm ác với ta rồi,
Hãy đi tới trước kia cho khéo,
Còn để ta nhìn thấy bóng thôi.
2925. Muttosi hatthā vālānaṃ pattosi mānusiṃ padaṃ, esamaggo adhammaṭṭha tena gaccha yathāsukhaṃ.
2925. Ngươi đã được thoát khỏi tầm tay của các dã thú, ngươi đã đạt đến dấu vết của loài người. Này kẻ sống theo phi pháp, đây là con đường, ngươi hãy đi theo lối đó một cách thoải mái.’
36. Thoát bầy dã thú đói tìm mồi,
Ngươi trở về nơi sống đời
Thẳng tắp con đường dài trước mặt,
Ði theo như ý muốn nhà ngươi".
2926. Idaṃ vatvā giricaro ruhiraṃ pakkhālya matthakaṃ, assūni sampamajjitvā tato pabbatamāruhi.
2926. Nói xong điều này, con khỉ đã rửa sạch cái đầu đẫm máu. Sau khi lau sạch những giọt nước mắt, nó đã từ nơi ấy leo lên ngọn núi.
37. Ðến đây, dòng lệ Khỉ lau khô,
Vội vã nhanh chân nhảy xuống hồ
Rửa sạch chiếc đầu bê bết máu
Ôi, vì thần, đã chảy tuôn ra!
2927. Sohaṃ tenābhisattosmi parilāhena addito, ḍayhamānena gattena vāriṃ pātuṃ upāgamiṃ.
2927. Thần đây bị con khỉ ghét bỏ, bị hành hạ bởi cơn sốt, với thân thể bị đốt nóng, thần đã đi đến gần (hồ nước) để uống nước.
38. Từ đấy, đầy đau khổ đoạn trường,
Ðốt thiêu, vò xé bởi Hầu vương,
Lê bước thân tàn, thần thất thểu,
Tìm nơi giải khát cho mình luôn.
2928. Agginā viya santatto rahado rudhiramakkhito, pubbalohitasaṅkāso sabbo me samapajjatha.
2928. Hồ nước, giống như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa, trở thành bị lấm lem bởi máu. Tất cả, đối với thần, đã trở nên như là mủ và máu.
39. Nhưng khi thần đến vũng hồ kia,
Mặt nước đều loang lổ máu me,
Một dòng đỏ sẫm dần dần hiện
Thành một đám như lửa lập lòe.
2929. Yāvanto udabindūni kāyasmiṃ nipatiṃsu me, tāvanto gaṇḍū jāyetha aḍḍhabeḷuva sādisā.
2929. Có bao nhiêu giọt nước đã rơi xuống thân thể của thần, thì có bấy nhiêu mụt nhọt đã sanh lên, có kích thước bằng một nửa trái câybeḷuva.
40. Mỗi giọt nước kia dính đến thân,
Hóa thành mụt nhọt lớn lên dần,
Như Vil-va trái khô rồi nứt
Giống hệt sắc da lẫn cỡ tầm.
2930. Pabhinnā pagghariṃsu me kuṇapā pubbalohitā, yena yeneva gacchāmi gāmesu nigamesu ca.
2930. Bị vỡ ra, các mụt nhọt rỉ ra máu mủ từ thân thể hôi thối của thần. Thần đi đến con đường nào, ở các thôn làng và ở các thị thành–
41. Máu mủ tràn ra thật đáng nhờm,
Nơi nào thần muốn được an thân,
Dù là thành thị hay thôn dã,
Dân chúng chạy bay hỗn loạn luôn.
2931. Daṇḍahatthā nivārenti itthiyo purisā ca maṃ, okiṇṇā pūtigandhena māssu orena āgamā.
2931. –bị tràn ngập bởi mùi hôi thối, những người đàn bà và đàn ông, tay cầm gậy gộc, ngăn chận thần lại (nói rằng): ‘Chớ đến gần phía chúng tôi.’
42. Lảng tránh vì mùi quá thối tha,
Trong khi gậy, đá cứ tung ra:
"Này tên khốn nạn! Ðừng đi đến
Gần chúng ta!" Toàn thể hét la.
2932. Etādisaṃ idaṃ dukkhaṃ satta vassānidāni me, anubhomi sakaṃ kammaṃ pubbe dukkaṭamattano.
2932. Nỗi khổ đau như thế này của thần đến nay đã bảy năm. Thần chịu đựng nghiệp của mình, là việc đã làm sai trái của bản thân trước đây.
43. Như vậy khổ đau thật đáng thương,
Thần mang theo suốt bảy năm trường,
Tùy theo hạnh nghiệp mình gây tạo,
Mỗi người đi đến một con đường.
2933. Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo yāvantettha samāgatā, māssu mittāna dubbhittho mittadubbho hi pāpako.
2933. Tôi nói điều ấy cho quý vị. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho quý vị, hết thảy những người đã tụ hội ở đây. Các vị chớ có phản bội các bạn bè, bởi vì việc phản bội bạn bè là xấu xa.
44. Thần ước mong chư vị vạn an,
Mọi người, thần gặp gỡ trên đàng,
Xin đừng phản bạn, ôi hèn hạ,
Kẻ phạm tội mưu chống bạn vàng!
2934. Kuṭṭhī kilāsī bhavati yo mittānaṃ idhaddubhī, kāyassa bhedā mittaddu nirayaṃ so upapajjatī ”ti.
2934. Người nào phản bội các bạn bè ở đời này sẽ trở thành kẻ bị cùi, bị ghẻ lở, d0 sự hoại rã của thân, kẻ phản bội bạn bè ấy sẽ tái sanh ở địa ngục.”
45. Tất cả những ai với bạn mình
Tỏ ra là kẻ thiếu chân thành,
Như bầy hủi phải ăn năn tội,
Thân hoại, vào trong ngục tái sinh.
Mahākapijātakaṃ.
***
Bổn sanh Con Khỉ Vĩ Đại. [516]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada