2850. Rajjañca paṭipannasmā ādhipaccaṃ sucīrata,
mahattaṃ pattumicchāmi vijetuṃ paṭhaviṃ imaṃ. 

2850. “Này khanh Sucīrata, chúng ta đã đạt được vương quốc và quyền thống trị. Trẫm muốn đạt đến bản thể vĩ đại để cai quản trái đất này–

1. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,
Su-cì, và thống trị giang sơn,
Vì mong trẫm đạt thành cao cả,
Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.

2851. Dhammena no adhammena adhammo me na ruccati, kiccova dhammo carito rañño hoti sucīrata. 

2851. –bằng công lý không phải bằng phi công lý; phi công lý không hứng thú đối với trẫm. Này Sucīrata, công lý được thực hành chính là việc cần phải làm của vị vua.

2. Bằng Chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,
Bởi vì tất cả đấng quân vương,
Ở trên trần thế cần theo đúng
Bất cứ điều Chân chánh Thiện lương.

2852. Idha cevāninditā yena pecca yena aninditā,
yasaṃ devamanussesu yena pappemu brāhmaṇa.

2852. Và nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời này; nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời sau; này Bà-la-môn, nhờ thế, chúng ta có thể đạt được danh tiếng ở chư Thiên và nhân loại.

3. Do đó ta xa lánh lỗi lầm
Ðời này và mãi mãi ngàn năm
Ta cầu mong được danh vinh hiển
Ở giữa chư Thiên lẫn thế nhân.

2853. Yohaṃ atthañca dhammañca kattumicchāmi brāhmaṇa, taṃ tvaṃ atthañca dhammañca brāhmaṇakkhāhi pucchito. 

2853. Này Bà-la-môn, trẫm đây mong muốn thực hiện phúc lợi và công lý. Này Bà-la-môn, được hỏi, khanh hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

4. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng
Những gì Chân thiện, trẫm mong làm,
Vậy khi được hỏi, xin cho biết
Những việc làm nào đúng Thiện Chân.

2854. Nāññatra vidhurā rāja etadakkhātum arahati,
yaṃ tvaṃ atthañca dhammañca kattumicchasi khattiya. 

2854. “Tâu bệ hạ, về việc bệ hạ mong muốn tạo ra phúc lợi và công lý, tâu vị Sát-đế-lỵ, không có ai ngoại trừ Vidhura có khả năng nói về điều ấy.”

5. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai
Ngoài Vi-dhu ấy đủ thiên tài,
Nói điều kỳ diệu là Chân thiện,
Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.

2855. Ehi kho pahito gaccha vidhurassa upantikaṃ,
nikkhaṃ ratta suvaṇṇassa haraṃ gaccha sucīrata,
abhihāraṃ imaṃ dajjā atthadhammānusiṭṭhiyā. 

2855. “Này Sucīrata, được ủy nhiệm, khanh hãy đi đến khu vực của Vidhura. Khanh hãy đi mang theo tấm lắc vàng ròng. Khanh nên trao quà biếu này vì lời giáo huấn về phúc lợi và công lý.

6. Hiền hữu, đi ngay lấy phiến vàng
Ðến Vi-dhu ấy, trẫm nhờ mang
Tặng phần xứng trí nhân ưu tú
Dạy trẫm điều Chân thiện tỏ tường.

2856. Svādhippāgā bhāradvājo vidhurassa upantikaṃ,
tamaddasa mahābrāhmā asamānaṃ sake ghare. 

2856. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Vidhura và đã nhìn thấy vị ấy đang thọ thực ở nhà của mình.

7. Bhà-rad vội vã tiến lên đàng
Ðến gặp Vi-dhu, thấy bạn vàng
Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự
Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.

2857. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca vidhurakkhāhi pucchito. 

2857. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Vidhura, được hỏi, ông hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

8. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
Hiền hữu, Vi-dhu, cho đệ biết
Thiện lương, Chân chánh phải là đâu.

2858. Gaṅgaṃ me pidahissanti na taṃ sakkomi brāhmaṇa, apidhetuṃ mahāsindhuṃ taṃ kathaṃ so bhavissati, na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito. 

2858. “Thưa vị Bà-la-môn, nhiều công việc ngăn cản tôi. Tôi không thể ngăn chặn con sông lớn Sindhu được, làm thế nào sẽ có cơ hội cho việc ấy? Dầu được hỏi, tôi không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

9. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao
Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,
Ta không thể nói đâu là lẽ
Chân Thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.

2859. Bhadrakāro ca me putto oraso mama atrajo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa. 

2859. Này vị Bà-la-môn, Bhadrakāra là con trai của tôi, là đứa con trai ruột được tôi nuôi lớn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

10. Hiện giờ đệ có một con trai
Tên gọi Bhà-dra ở giữa đời,
Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói
Thiện lương, Chân lý rõ cho ngài.

2860. Svādhippāgā bhāradvājo bhadrakārassa santikaṃ, tamaddasa mahābrahmā nisinnaṃ samhi vesmani. 

2860. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Bhadrakāra, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.

11. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
Ðến Bha-dra gấp tại gia đường,
Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
An tọa thong dong được thấy chàng.

2861. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca bhadrakāra bravīhi me.

2861. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Bhadrakāra, con hãy giải thích cho ta về phúc lợi và công lý ấy.”

12. Ðến vì thánh chỉ Câu-lâu
Dòng họ Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
Hiền điệt Bhà-dra, cho chú biết
Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

2862. Maṃsakājaṃ avahāya godhaṃ anupatāmahaṃ,
na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito. 

2862. “Sau khi bỏ xuống một gánh thịt, con lại đeo đuổi con kỳ đà.[1]Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

[1] Theo lời giải thích của Chú Giải, Bhadrakāra bỏ bê vợ nhà và đeo đuổi người phụ nữ thuộc quyền bảo hộ của người khác (JaA. v, 61).

13. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,
Và đang theo đuổi tắc kè con,
Làm sao có thể nào thông hiểu
Ðâu lẽ Thiện lương với Thật chơn?

2863. Sañjayo nāma me bhātā kaṇiṭṭho me sucīrata,
taṃ tvaṃ athañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa. 

2863. Thưa ông Sucīrata, Sañjaya là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

14. Song có em trai, ngài phải biết,
San-ja tên gọi, hãy lên đường
Kiếm chàng cho được, chàng tuyên thuyết
Chân Thiện ngài nghe thật tỏ tường.

2864. Svādhippāgā bhāradvājo sañjayassa upantikaṃ,
tamaddasa mahābrahmā nisinnaṃ samhi vesmani. 

2864. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sañjaya, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.

15. Lúc ấy Bhà-rad phải vội vàng
Ðến San-jay gấp tại gia đường
Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
An tọa thong dong được thấy chàng.

2865. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca sañjayakkhāhi pucchito. 

2865. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sañjaya, được hỏi, con hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

16. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
Hiền điệt San-jay, cho chú biết
Thiện lương, Chân lý phải là đâu.

2866. Sadā maṃ gilatī maccu sāyaṃ pāto sucīrata,
na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito. 

2866. “Thưa ông Sucīrata, cái chết luôn luôn nuốt lấy con vào buổi tối và buổi sáng. Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.

17. Tử thần há miệng rộng đầy chông
Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông
Làm thế nào con thưa với chú
Ðâu là Chân lý với Hiền lương?

2867. Sambhavo nāma me bhātā kaṇiṭṭho me sucīrata,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa. 

2867. Thưa ông Sucīrata, Sambhava là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”

18. Song có em thơ, chú biết chăng,
Sam-bha tên gọi, hãy lên đường,
Tìm em, thưa chú, em nêu rõ
Chân lý, Thiện lương thật tỏ tường!

2868. Abbhuto vata bho dhammo nāyaṃ asmāka ruccati, tayo janā pitāputtā tesu paññāya no vidū. 

2868. “Con ơi, câu hỏi quả thật là phi thường! Điều này không làm cho chúng ta ưa thích. Ba người gồm có người cha và hai người con trai, họ không hiểu được bằng trí tuệ.

19 - 20. Việc lạ lùng này phật ý ta,
Chẳng hai con lớn, chẳng ông cha,
Biết phương giải đáp điều mầu nhiệmVậy nếu như chàng cũng chịu thua,
Thì phải chăng đây là cậu bé
Biết gì về lý Thiện Chân ư!

2869. Na naṃ sakkotha akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchitā, kathaṃ nu daharo jaññā atthaṃ dhammaññca pucchito. 

2869. Dầu được hỏi, họ không thể nói về phúc lợi và công lý ấy. Vậy làm thế nào đứa trẻ con có thể biết về phúc lợi và công lý, khi được hỏi?”

2870. Mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.

2870. “Xin ngài chớ xem thường em, (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

21. Xin ngài đi hỏi Sam-bha,
Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,
Em đầy thông thái tài ba
Nói ngay ngài biết đâu là Thiện Chân.

2871. Yathāpi cando vimalo gacchaṃ ākāsadhātuyā,
sabbe tārāgaṇe loke ābhāya atirocati.

2871. Cũng giống như mặt trăng (tròn), trong ngần, đang di chuyển ở hư không giới, nó vượt trội tất cả các quần thể tinh tú ở thế gian về ánh sáng.

22. Khác nào ánh nguyệt trong ngần
Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,
Ánh sao le lói mờ soi
Chim dần trong ánh rạng ngời Hằng nga,

2872. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa. 

2872. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

23. Cũng như chú bé Sam-bha
Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, biết tỏ tường,
Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.

2873. Yathāpi rammako māso gimhānaṃ hoti brāhmaṇa, atevaññehi māsehi dumapupphehi sobhati.

2873. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như tháng Rammaka thuộc mùa nắng là vượt trội các tháng khác; nó rực rỡ với những bông hoa của các loại cây.

24. Em đầy thông thái tài ba
Nói rành Chân Thiện đâu là lẽ ngay.
Tháng tư quyến rủ đắm say,
Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.

25. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,
Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,

2874. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa. 

2874. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

Bé Sam-bha cũng thế này,
Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.

2875. Yathāpi himavā brahme pabbato gandhamādano,
nānārukkhehi sañchanno mahābhūtagaṇālayo,
osadhehi ca dibbebhi disā bhāti pavāti ca. 

2875. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như ngọn núi tuyết Gandhamādana được bao phủ bởi nhiều loại cây khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên. Với các loại thảo dược của cõi Trời, nó chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương.

26. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn
Rừng cây bao phủ, có thần điểm trang
Tỏa ra ánh sáng huy hoàng,
Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền,

27. Dành cho vô số thần tiên
Tìm nơi ẩn náu bình yên chốn này.

2876. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoni uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa. 

2876. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

Bé Sam-bha cũng như vầy,
Vượt xa tuổi trẻ, trí đầy khôn ngoan.

2877. Yathāpi pāvako brahme accimālī yasassimā,
jalamāno vane gacche analo kaṇhavattanī. 

2877. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như trận hỏa hoạn với nhiều ngọn lửa, có sức nóng, trong lúc đốt cháy, nó di chuyển ở khu rừng, không hề thỏa mãn, tạo thành vệt dài đen thui (nơi nào nó đi qua).

28. Khác nào ngọn lửa huy hoàng
Cháy tràn lan khắp đồng hoang tung hoành,
Với cây cột lửa cuộn nhanh,
Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.

29. Ðể trơ một lối đen ngòm,
Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt qua.Cũng vầy chú bé Sam-bha,
Trí tài kiệt xuất vượt đà ấu niên,

2878. Ghatāsano dhūmaketu uttamāhevanaṃ daho,
nisīthe pabbataggasmiṃ pahūtedho virocati. 

2878. Ngọn lửa tế thần (cháy bằng bơ lỏng), có cột khói là biểu hiệu, đốt cháy khu rừng loại tốt nhất. Với nhiều nhiên liệu, nó rực sáng trong đêm tối ở trên đỉnh ngọn núi.

30. Khác nào một ngọn lửa thiêng
Ðốt bằng bỏ sống trong đêm tối trời,
Gặp cây gỗ quý nhất đời,
Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.

2879. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa. 

2879. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

31. Cũng vầy chú bé Sam-bha
Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
Em thông hiểu, nói tận tường Thiện Chơn

2880. Javena bhadraṃ jānanti balivaddañca vāhiye,
dohena dhenuṃ jānanti bhāsamānañca paṇḍitaṃ. 

2880. Người ta biết được ngựa tốt bởi tốc độ, và con bò đực trong việc kéo nặng. Người ta biết được bò sữa do việc vắt sữa, và bậc sáng suốt trong khi vị ấy nói.

32. Trâu nhờ sức lực tráng cường
Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,
Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,
Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.

2881. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.

2881. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.

33. Sam-bha cũng vậy, mầm non,
Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
Em thông thái, nó tận tường Thiện Chân.

2882. Svādhippāgā bhāradvājo sambhavassa upantikaṃ, tamaddasa mahābrahmā kīḷamānaṃ bahīpure.

2882. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sambhava, và đã nhìn thấy vị ấy đang đùa giỡn ở bên ngoài thành phố.

34. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
Ðến Sam-bha gấp tại gia đường
Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó
Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.

2883. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca sambhavakkhāhi pucchito.

2883. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sambhava, được hỏi, em hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”

35. Ðến vi thánh chỉ chúa Câu-lâu,
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
Hiền điệt Sam-bha, cho chú biết,
Thiện lương, Chân lý phải là đâu?

2884. Taggha te ahamakkhissaṃ yathāpi kusalo tathā,
rājā ca kho taṃ jānāti yadi kāhati vā na vā.

2884. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo sẽ nói như thế nào thì con cũng sẽ nói với ông như thế ấy. Và đức vua, đương nhiên hiểu được điều ấy, tuy nhiên đức vua sẽ làm hay không làm (không phải là lỗi của con).

36. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,
Ðúng như bậc trí phải trình bày,
Vua cần biết rõ điều Chân Thiện,
Song việc vua làm, ai có hay?

2885. Ajja suveti saṃseyya raññā puṭṭho sucīrata,
mā katvā avasī rājā atthe jāte yudhiṭṭhilo.

2885. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chuyện hôm nay hãy để ngày mai,’ (thì nên nói rằng): ‘Khi lợi ích sanh khởi, đức vua Yudhiṭṭhila không nên thực hành và sống như vậy.’

37. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:
"Ngày nay không hẳn giống ngày mai,
Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt
Nắm lấy thời cơ kịp đến tay".

2886. Ajjhattaññeva saṃseyya raññā puṭṭho sucīrata,
kummaggaṃ na niveseyya yathā mūḷho acetaso.

2886. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chỉ có bản ngã,’ (thì nên nói rằng): ‘Không nên đi vào con đường sai trái, giống như kẻ ngu si không có tâm tư.’

38. Ta ước mong hiền hữu tế sư
Gợi cho vua biết cách suy tư,
Nhờ đây tâm trí ngài an lạc:
Vua phải tránh xa mọi oán thù,
Cũng chớ đi theo đường ác độc
Như là người độn trí mê mờ.

2887. Attānaṃ nātivatteyya adhammaṃ na samācare,
atitthe nappatāreyya anatthe na yuto siyā.

2887. Không nên vượt qua bản thân, không nên thọ trì phi pháp, không nên dẫn đến nơi không phải bến đỗ (dẫn đến 62 tà kiến), không nên gắn bó ở điều không có lợi ích.

39. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,
Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,
Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,
Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.

2888. Yo ca etāni ṭhānāni kattuṃ jānāti khattiyo,
sadā so vaḍḍhate rājā sukkapakkheva candimā.

2888. Và vị Sát- đế- lỵ nào biết thực hiện các công việc này, vị vua ấy luôn luôn lớn mạnh, tựa như mặt trăng vào thượng tuần.

40. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân
Những điều này, giống nguyệt tròn dần,
Như vua danh tiếng tăng lên mãi,
Làm ánh sáng soi đám bạn thân,

2889. Ñātīnañca piyo hoti mittesu ca virocati,
kāyassa bhedā sappañño saggaṃ so upapajjatī ”ti.

2889. Và người có trí tuệ được yêu quý trong số các thân quyến, và sáng chói ở giữa bạn bè; do sự hoại rã của thân, vị ấy sẽ tái sanh vào cõi Trời.”

Yêu mến họ hàng, khi tận mạng
Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.

Câu chuyện 515

Sambhavajātakaṃ.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada