2809. Kinnu socasi anuccaṅgi paṇḍūsi varavaṇṇini,
milāyasi visālakkhi mālāva parimadditā.
2808. “Này cô nàng có cơ thể tựa như vàng, vì sao nàng sầu muộn? Này cô nàng có sắc đẹp cao quý, vì sao nàng có vẻ xanh xao? Này cô nàng có đôi mắt to, vì sao nàng bị héo hon, tựa như lẵng hoa bị vày vò?”
1. Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần,
Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
Vì cớ sao nàng héo úa dần?
2810. Dohaḷo me mahārāja supinantenupaccagā,
na so sulabharūpova yādiso mama dohaḷo.
2809. “Tâu đại vương, thiếp có sự khao khát. Nó đến trong giấc mơ. Sự khao khát như thế ấy của thiếp dường như có vẻ không dễ dàng đạt được.”
2. Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
Mộng ước hão huyền e khó đạt,
Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.
2811. Ye keci mānusā kāmā idha lokasmiṃ nandane,
sabbe te pacurā mayhaṃ ahante dammi dohaḷaṃ.
2810. “Bất kỳ những dục vọng nào thuộc về nhân loại ở thế gian này, tất cả các điều ấy đều dồi dào đối với trẫm. Trẫm sẽ ban cho nàng điều khao khát ấy.”
3. Những lạc thú nào ở thế gian,
Con người khao khát tận tâm can,
Ðiều gì mong trẫm đem ban tặng,
Hãy nói trẫm nghe, ước nguyện nàng.
2812. Luddā deva samāyantu ye keci vijite tava,
etesaṃ ahamakkhissaṃ yādiso mama dohaḷo.
2811. “Tâu bệ hạ, hãy cho tập hợp các thợ săn lại, bất kỳ những ai đang ở trong lãnh địa của bệ hạ. Thiếp sẽ nói cho những người ấy điều khao khát của thiếp là như thế nào.”
4. Truyền đám thợ săn phụng mệnh ngay,
Những người cư ngụ nước non này,
Ðiều thần thiếp muốn nhờ tay họ,
Khi diện kiến, xin sẽ giải bày.
2813. Ime te luddakā devi katahatthā visāradā,
vanaññū ca migaññū ca mamatthe cattajīvitā.
2813. “Này ái hậu, những người thợ săn này là thuộc về nàng. Họ đã khéo được rèn luyện, tự tin, hiểu biết về rừng và các loài thú, có mạng sống đã được buông bỏ cho mục đích của trẫm.”
5. Nhìn đám thợ săn dũng cảm đây!
Nghề săn mồi lão luyện cao tay,
Với tài chém giết bầy hoang thú,
Vì trẫm, sẵn sàng bỏ mạng ngay.
2814. Luddaputtā nisāmetha yāvantettha samāgatā,
chabbisāṇaṃ gajaṃ setaṃ addasaṃ supine ahaṃ,
tassa dantehi me attho alābhe natthi jīvitaṃ.
2814. “Hỡi các thợ săn trai trẻ đã đến tụ hội ở nơi này, các người hãy chú tâm lắng nghe. Bổn cung đã nhìn thấy con voi sáu ngà màu trắng ở trong giấc mơ. Bổn cung có nhu cầu với những cái ngà của nó; nếu không đạt được thì không sống nổi.”
6. Lạp hộ can trường tụ tập đây,
Những lời ta nói, lắng nghe vầy:
Dường như ta thấy trong cơn mộng
Bạch tượng sáu ngà tuyệt mỹ thay,
Ta ước bộ ngà, lòng khắc khoải,
Chẳng còn gì đáng giá đời này!
2815. Na no pitūnaṃ na pitāmahānaṃ diṭṭho suto kuñjaro chabbisāṇo, yamaddasā supine rājaputti
akkhāhi no yādiso hatthināgo.
2815. “Tâu lệnh bà, các người cha, các người ông của chúng tôi còn chưa được thấy, chưa được nghe về con voi có sáu ngà. Xin lệnh bà hãy nói rõ cho chúng tôi về con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ là như thế nào.
7. Các bậc tổ tiên thuở đã qua,
Sáu ngà voi trắng, thấy bao giờ?
Loài gì thú ấy, xin cho biết,
Ðã hiện trong mơ của lệnh bà.
2816. Disā catasso vidisā catasso uddhaṃ adho dasadisā imāyo, katamaṃ disaṃ tiṭṭhati nāgarājā
yamaddasā supine chabbisāṇaṃ.
2816. Bốn hướng chánh, bốn hướng phụ, hướng trên, hướng dưới, trong mười hướng này, con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ đứng ở hướng nào?”
8. Bốn phương Nam, Bắc, với Tây, Ðông,
Chính giữa bốn miền cũng họp chung,
Thiên đỉnh thêm vào thiên đế nữa,
Nơi nào trong thập hướng không trung,
Tượng vương này ở, xin cho biết,
Xuất hiện trong mơ của chánh cung.
2817. Ito ujuṃ uttariyaṃ disāyaṃ atikkamma so satta girī brahante, suvaṇṇapasso nāma girī uḷāro
supupphito kimpurisānuciṇṇo.
2817. “Từ nơi này, thẳng lên hướng bắc, sau khi vượt qua bảy ngọn núi khổng lồ; (trong số đó) ngọn núi nổi bậc ấy có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng), được khéo nở rộ hoa, được lai vãng bởi loài nhân điểu.
9. Hướng Bắc bên kia dãy Thất San,
Cuối cùng ta đến Vách non Vàng,
Ðỉnh cao thường có loài ma quỷ,
Hoa tự chân lên ngọn rỡ ràng.
2818. Āruyha selaṃ bhavanaṃ kinnarānaṃ
olokaya pabbatapādamūlaṃ, atha dakkhasī meghasamānavaṇṇaṃ nigrodharājaṃ aṭṭhasahassapādaṃ.
2818. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, ngươi hãy nhìn xuống khu vực ở chân núi, và ngươi sẽ nhìn thấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.
10. Dưới núi ma kia lại thấy ngay
Xanh um cả khối, dáng như mây,
Một cây đa chúa, từ nhiều gốc
Sinh tám ngàn cành, tráng kiện thay.
2819. Tatthacchati kuñjaro chabbisāṇo sabbaseto duppasaho parehi, rakkhanti naṃ aṭṭhasahassanāgā
īsādantā vātajavappahārino.
2819. Con voi sáu ngà trú ẩn tại nơi ấy. Nó có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.
11. Trú đây, Bạch tượng mạnh vô song
Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
2820. Tiṭṭhanti te tumulaṃ passasantā kuppanti vātassapi eritassa, manussabhūtaṃ pana tattha disvā
bhasmaṃ kareyyuṃ nāssa rajopi tassa.
2820. Chúng đứng, thở ra một cách ồn ào. Chúng giận dữ, thậm chí đối với làn gió bị xao động. Hơn nữa, sau khi nhìn thấy bóng dáng con người ở nơi ấy, chúng có thể làm thành tro, thậm chí hạt bụi của con người cũng không được.”
12. Thở phì, Voi đứng, mắt trừng trừng,
Hơi gió nhẹ đưa cũng nổi sân,
Nếu chợt thấy người gây mảy gió,
Ðùng đùng, chúng dẫm nát tan thân!
2821. Bahū hi me rājakulamhi santi piḷandhanā jātarūpassa devi, muttā maṇīveḷuriyāmayā ca kiṃ kāhasi dantapiḷandhanena, māretukāmā kuñjaraṃ chabbisāṇaṃ udāhu ghātessasi luddaputte.
2821. “Tâu lệnh bà, có quá nhiều các thứ này ở hoàng gia, các đồ trang sức thuộc về vàng, các ngọc trai, các ngọc ma-ni, và các vật làm bằng ngọc bích. Với ước muốn giết chết con voi sáu ngà, lệnh bà sẽ làm gì với đồ trang sức bằng ngà voi? Hay là lệnh bà sẽ giết hại các thợ săn trai trẻ?”
13. Lam ngọc sáng ngời hoặc bảo trân,
Biết bao trang sức với kim ngân,
Việc gì hoàng hậu cần ngà ấy,
Hay lệnh bà mong giết thợ săn?
2822. Sā issitā dukkhitā casmi ludda uddhañca sussāmi anussarantī, karohi me luddaka etamatthaṃ dassāmi te gāmavarāni pañca.
2822. “Này thợ săn, bổn cung đây bị ganh ghét, khổ đau. Và ta bị héo hon trong khi nhớ về quá khứ. Này thợ săn, ngươi hãy làm việc ấy cho bổn cung. Bổn cung sẽ ban cho ngươi ân huệ là năm ngôi làng.”
14. Nung nấu lòng ta rẫy giận hờn,
Mỗi lần nhớ lại vết đau thương,
Cho ta, lạp hộ, điều ta ước,
Làng đẹp năm ngôi, sẽ hưởng ơn!
2823. Katthacchati katthamupeti ṭhānaṃ vīthissa kā nahānagatassa hoti, kathañhi so nahāyati nāgarājā
kathaṃ vijānemu gatiṃ gajassa.
2823. “Nó trú ở đâu? Nó đi đến chỗ đứng ở đâu? Lối đi nào của nó khi đi tắm? Con voi chúa ấy tắm như thế nào? Làm thế nào chúng thần có thể biết được đường lối đi lại của con voi?”
15. Voi ở đâu? Tìm kiếm chốn nào?
Ðường Voi đi tắm, hướng ra sao?
Nơi nào Vương tượng thường bơi lội?
Xin chỉ con đường để bắt mau.
2824. Tattheva sā pokkharaṇī adūre rammā sutitthā ca mahodikā ca, sampupphitā bhamaragaṇānuciṇṇā
ettha hi so nahāyati nāgarājā.
2824. “Ngay tại nơi đó, hồ sen (Chaddanta) ấy ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.
16. Không xa nơi tắm ấy là bao,
Thăm thẳm hồ sâu diễm lệ sao,
Hoa rộ nở, đầy ong bướm lượn,
Ðấy nơi Vương tượng dễ tìm cầu.
2825. Sīsaṃ nahāto uppalamāladhārī sabbaseto puṇḍarīkattacaṅgī, āmodamāno gacchati santike taṃ
purakkhatvā mahesiṃ sabbabhaddaṃ.
2825. Khi đã tắm xong cái đầu, con voi đội lên vòng hoa sen xanh, toàn thân có màu trắng, với các phần thân thể và làn da tựa như hoa sen trắng. Trong lúc vui thích, con voi đi về nơi trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.
17. Tắm mát, cài sen, chiếc miện hoa,
Hân hoan Voi rảo bước về nhà,
Như cành sen trắng cao vòi vọi,
Theo gót bà hoàng yêu thiết tha!
2826. Tattheva so uggahetvāna vākyaṃ ādāya tūṇiñca dhanuñca luddo, vituriya so satta girī brahante
suvaṇṇapassaṃ nāma giriṃ uḷāraṃ.
2826. Ngay tại nơi ấy, sau khi đã nắm vững lời dặn, gã thợ săn ấy đã cầm lấy túi tên và cây cung. Gã ấy đã vượt qua bảy ngọn núi lớn khổng lồ, (trong số đó) ngọn núi nổi bậc có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng).
18. Thợ săn nghe lệnh, vững can tràng,
Nai nịt cung tên, tiến bước đàng,
Băng vượt bảy tầng non bát ngát,
Cuối cùng đến thượng đỉnh Kim San.
2827. Āruyhaselaṃ bhavanaṃ kinnarānaṃ olokayī pabbatapādamūlaṃ, tatthaddasā meghasamānavaṇṇaṃ nigrodharājaṃ aṭṭhasahassapādaṃ.
2827. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, gã đã nhìn xuống khu vực ở chân núi, và đã nhìn thấy tại nơi ấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.
19. Ðến núi cao đầy quỷ ẩn thân,
Khối gì trước mắt, dáng như vân?
Chính cây đa chúa, thân to lớn
Ðỡ tám ngàn cành tán trải giăng.
2828. Tatthaddasā kuñjaraṃ chabbisāṇaṃ sabbasetaṃ duppasahaṃ parehi, rakkhanti taṃ aṭṭhasahassanāgā
īsādantā vātajavappahārino.
2828. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy con voi sáu ngà có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.
20. Trú đây Bạch tượng mạnh vô song
Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
2829. Tatthaddasā pokkharaṇiṃ adūre rammaṃ sutitthañca mahodikañca, sampupphitaṃ bhamaragaṇānuciṇṇaṃ yattha hi so nahāyati nāgarājā.
2829. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy hồ sen (Chaddanta) ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.
21. Gần đó, hồ kia nước tận bờ,
Xứng nơi vương tượng lội bơi qua,
Ðôi bờ khả ái muôn hoa đẹp,
Ong lượn quanh đầy tiếng nhỏ to.
2830. Disvāna nāgassa gatiṃ ṭhitiñca vīthissa yā nahānagatassa hoti, opātamāgañchi anariyarūpo
payojito cittavasānugāya.
2830. Sau khi nhìn thấy đường lối đi lại và chỗ đứng của con voi, gã thợ săn, với bộ dạng không thánh thiện, bị gắn bó theo mãnh lực tâm (của hoàng hậu), đã thực hiện một cạm bẫy ở lối đi của con voi khi nó đi tắm.
22. Ðánh dấu đường đi của Tượng vương
Những khi bơi lội, chí kiên cường
Gã đào hố, việc làm hèn hạ
Xúi giục cho vương hậu giận hờn!
2831. Khaṇitvāna kāsuṃ phalakehi chādayi attānamodhāya dhanuñca luddo, passāgataṃ puthusallena nāgaṃ samappayī dukkaṭa kammakārī.
2831. Sau khi đào một cái hố và che đậy bằng các tấm ván, gã thợ săn đã ẩn mình và cây cung (ở trong cái hố), rồi đã xuyên thủng con voi ở bên hông bằng mũi tên lớn; gã là kẻ đã tạo nghiệp ác hạnh.
23. Che hố trước tiên đậy ván dày,
Bước vào, cung nắm ở trong tay,
Vừa khi Bạch tượng đi qua đó,
Kẻ ác cho tên dữ vút bay.
2832. Viddho ca nāgo koñcamanādi ghoraṃ sabbeva nāgā ninnaduṃ ghorarūpaṃ, tiṇañca kaṭṭhañca cuṇṇaṃ karontā dhāviṃsu te aṭṭha disā samantato.
2832. Và con voi bị xuyên thủng đã kêu tiếng rống ghê rợn. Toàn bộ tất cả các con voi đã rống đáp lại với hình thức ghê rợn. Chúng đã chạy theo tám hướng ở xung quanh, làm cho lá cỏ và cây cối bị nát vụn.
24. Voi bị thương gầm rống thảm thương,
Cả đoàn đáp lại cũng gầm vang,
Ngàn cây nghiêng ngã giày tan cỏ,
Tán loạn đàn voi chạy thẳng đường.
2833. Vadhissametanti parāmasanto kāsāvamaddakkhi dhajaṃ isīnaṃ, dukkhena puṭṭhassudapādi saññā
arahaddhajo sabbhi avajjharūpo.
2833. (Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ giết chết kẻ này,’ trong lúc chạm vào (gã thợ săn), con voi đã nhìn thấy tấm vải màu ca-sa, biểu hiệu của các ẩn sĩ. Sự nhận biết đã sanh khởi đến con voi bị xúc chạm bởi khổ đau rằng: ‘Biểu hiệu của các bậc A-la-hán, theo các bậc sáng suốt, là không được xâm phạm.’
25. Voi chúa đã gần giết địch nhân
Vì chứng đau đớn hóa điên cuồng,
Nhưng kìa! Ðôi mắt ngài vừa gặp
Biểu tượng thanh cao, chiếc áo vàng,
Bộ áo tu hành bất khả phạm,
Ấy điều suy nghĩ của hiền nhân.
2834. Anikkasāvo kāsāvaṃ yo vatthaṃ paridahessati,
apeto damasaccena na so kāsāvamarahati.
2834. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.
26. Người nào vấy phải tội đầy thân,
Chẳng chế ngự mình, thiếu thật chân,
Dù chiếc hoàng y, mình nó mặc,
Chẳng hòng mong đạt tịnh thanh tâm.
2835. Yo ca vantakasāvassa sīlesu susamāhito,
upeto damasaccena sa ve kāsāvamarahati.
2835. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.
27. Còn kẻ thoát ra mọi lỗi lầm
Ðầy lòng chân thật, tự điều tâm,
Vững lòng cương quyết theo công chánh,
Xứng đáng y vàng khoác tấm thân.
2836. Samappito puthusallena nāgo aduṭṭhacitto luddakaṃ ajjhabhāsi, kimatthayaṃ kissa vā samma hetu mamaṃ vadhī kassa vāyaṃ payogo.
2836. Bị mũi tên lớn đâm vào, con voi, với tâm không sân hận, đã nói với gã thợ săn rằng: “Này bạn, bạn đang ước nguyện điều gì? Cái chết của ta là vì nguyên nhân gì? Kế hoạch này là của ai?”
28. Voi trúng tên tàn bạo quỵ chân,
Trong lòng bình thản, hỏi cừu nhân:
"Ðích gì khi giết nhằm ta thế,
Cho biết ai xúi giục, bạn thân?"
2837. Kāsissa rañño mahesī bhadante sā pūjitā rājakule subhaddā, taṃ addasā sā ca mamaṃ asaṃsi dantehi atthoti ca maṃ avoca.
2837. “Thưa ngài, chánh hậu của đức vua xứ Kāsi, nàng Subhaddā ấy được tôn vinh ở gia đình hoàng tộc. Bà ấy đã nhìn thấy ngài và đã giải thích cho tôi, rồi đã nói với tôi rằng: ‘Có nhu cầu với những cái ngà.’”
29. Ái hậu Kà-si bậc đại quân,
Su-bhad-dà, bảo đã từng trông
Dáng ngài trong mộng, và vì thế:
"Ta muốn ngà kia, hãy kiếm dâng!".
2838. Bahū hi me dantayugā uḷārā ye me pitūnañca pitāmahānaṃ, jānāti sā kodhanā rājaputtī vadhatthikā veramakāsi bālā.
2838. “Các cặp ngà cao quý này của các cha ông của ta là rất nhiều. Bà hoàng hậu ấy biết, nhưng vì sân hận, ngu dốt, có ý định giết hại, nên đã gây ra việc thù hằn.
30. Kho báu ta mang ở bộ ngà,
Hình hài di tích của ông cha,
Ðiều này ác phụ am tường quá,
Nên kẻ khốn nhằm đoạt mạng ta.
2839. Uṭṭhehi tvaṃ ludda kharaṃ gahetvā dante ime chinda purā marāmi, vajjāsi taṃ kodhanaṃ rājaputtiṃ
nāgo hato handa imassa dantā.
2839. Này thợ săn, ngươi hãy đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và hãy cắt những cái ngà này trước khi ta chết. Ngươi có thể nói với hoàng hậu về sự sân hận ấy rằng: ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’”
31. Trước khi ta chết, thợ săn ôi,
Cưa lấy bộ ngà của chúa Voi,
Bảo ác phụ kia mừng mãn nguyện,
"Ðây ngà, Bạch tượng đã lìa đời!"
2840. Uṭṭhāya so luddo kharaṃ gahetvā chetvāna dantāni gajuttamassa, vaggū subhe appaṭime pathabyā
ādāya pakkāmi tato hi khippaṃ.
2840. Gã thợ săn ấy đã đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và cắt những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, sau đó, cầm lấy chúng rồi vội vã rời khỏi nơi ấy.
32. Rồi thợ săn cưa lấy bộ ngà
Từ hàm Bạch tượng tối cao ra,
Sáng ngời, bảo vật vô song ấy,
Gã bước nhanh chân trở lại nhà.
2841. Bhayadditā nāgavadhena aṭṭā ye te nāgā aṭṭha disā vidhāvuṃ, adisva posaṃ gajapaccamittaṃ
paccāgamuṃ yena so nāgarājā.
2841. Bị hốt hoảng bởi nỗi sợ hãi, bị khổ đau bởi cái chết của con voi chúa, các con voi ấy đã chạy tản mác tám phương. Sau khi không nhìn thấy con người thù địch của loài voi, chúng quay trở lại nơi con voi chúa ấy.
33. Kinh hãi nhìn Vương tượng bỏ thân,
Ðàn voi vùng tán loạn, hoang mang,
Chẳng tìm thấy vết cừu nhân ác,
Trở lại nhìn vua ngã xuống đàng.
2842. Te tattha kanditvā roditva nāgā sīse sake paṃsukaṃ okiritvā, agamaṃsu te sabbe sakaṃ niketaṃ purakkhatvā mahesiṃ sabbabhaddaṃ.
2842. Các con voi ấy than van, khóc lóc tại nơi ấy. Sau khi rắc bụi tro xuống ở trên đầu của mình, tất cả các con voi ấy đã đi về chỗ trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.
34. Ðàn voi khóc lóc lẫn kêu gào,
Tất cả chất tro đội đỉnh đầu,
Chầm chậm trở về nơi cư trú,
Theo sau hoàng hậu mãi thanh cao.
2843. Ādāya dantāni gajuttamassa vaggū subhe appaṭime pathabyā, suvaṇṇarājīhi samantamodare
so luddako kāsipuraṃ upāgami, upānesi so rājakaññāya dante nāgo hato handa imassa dantā.
2843. Sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng; chúng chiếu sáng ở xung quanh với những tia sáng màu hoàng kim. Gã thợ săn ấy đã đi đến thành Kāsi. Gã ấy đã dâng các cái ngà đến vị hoàng hậu (tâu rằng): ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’
35. Thẳng đến Kà-si, gã thợ săn,
Vô song tặng vật, gã vừa mang:
Bộ ngà của chúa Voi ngời chiếu
Làm mọi tâm hoan với ánh vàng;
2844. Disvāna dantāni gajuttamassa bhattuppiyassa purimāya jātiyā, tattheva tassā hadayaṃ aphāli
teneva sā kālamakāsi bālā.
2844. Sau khi nhìn thấy những cái ngà của con voi tối thượng, của người chồng yêu quý trong kiếp sống trước. Ngay tại nơi ấy, trái tim của nàng ấy đã vỡ tan. Chính vì điều ấy, người đàn bà ngu si ấy đã từ trần.
36. Bà hoàng vừa chợt thấy đôi ngà,
Chúa thượng dấu yêu thuở đã qua,
Lòng quá đau thương liền vỡ nát,
Vì ngài, kẻ ngốc hóa ra ma.
2845. Sambodhipatto ca mahānubhāvo sitaṃ akāsi parisāya majjhe, pucchiṃsu bhikkhū suvimuttacittā
nākāraṇe pātukaronti buddhā.
2845. Và bậc đã đạt đến quả vị Toàn Giác, có đại thần lực, đã nở nụ cười ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu có tâm khéo được giải thoát đã thắc mắc rằng: “Chư Phật biểu lộ (nụ cười) không phải không có nguyên nhân.”
37. Khi Ðại trí nhân đủ lực thần,
Mỉm cười trước mắt các hiền Tăng,
Tức thì Thánh chúng liền suy nghĩ:
"Chư Phật chẳng cười chuyện bỗng dưng!".
2846. Yamaddasātha dahariṃ kumāriṃ kāsāva vatthaṃ anagāriyaṃ carantiṃ, sā kho tadā rājakaññā ahosi
ahaṃ tadā nāgarājā ahosiṃ.
2846. “Người thiếu nữ trẻ tuổi khoác tấm vải màu ca-sa đang sống không nhà mà các ngươi nhìn thấy, vào lúc bấy giờ, nàng ấy đã là công chúa (sau trở thành chánh hậu), còn Ta khi ấy đã là con voi chúa.
38. Ngài bảo: "Các ông thấy nữ nhi
Làm Sa-di ấy, khoác hoàng y,
Xưa là hoàng hậu, và Ta nữa,
Ngài tiếp, "là Voi chúa mất đi".
2847. Ādāya dantāni gajuttamassa vaggū subhe appaṭime pathabyā, yo luddako kāsipuraṃ upāgami
so kho tadā devadatto ahosi.
2847. Gã thợ săn, sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, rồi đã đi đến thành Kāsi, lúc bấy giờ, Devadatta đã là gã ấy.”
39. Kẻ ác cưa ngà báu trắng tinh,
Vô song dưới thế, ánh quang minh,
Ðem về thành phố Ba-la-nại
Nay chính Ðề-bà-đạt đích danh".
2848. Anāvasūraṃ cirarattasaṃsitaṃ uccāvacaṃ caritamidaṃ purāṇaṃ, vītaddaro vītasoko visallo
sayaṃ abhiññāya abhāsi buddho.
2848. Là bậc đã xa lìa sự lo lắng, bậc đã xa lìa sự sầu muộn, bậc không còn mũi tên, đức Phật, sau khi tự mình biết rõ, đã nói về hạnh kiểm cao thượng và thấp hèn này trong thời quá khứ đã được trải qua thời gian dài lâu, nhưng còn chưa phai nhạt.
40. Phật-đà với trí tuệ riêng Ngài
Kể lại chuyện xưa ấy thật dài,
Đủ mọi nỗi buồn đau thống thiết,
Dù Ngài đã thoát hết bi ai.
2849. Ahaṃ vo tena kālena ahosiṃ tattha bhikkhavo,
nāgarājā tadā hosiṃ evaṃ dhāretha jātakanti.
2849. Này các tỳ khưu, vào lúc ấy, Ta đã ở nơi ấy (hồ nước Chaddanta). Khi ấy, Ta đã là con voi chúa. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như thế ấy.
41. "Ngày xưa Bạch tượng chính Ta đây,
Làm chúa Voi đông đảo cả bầy,
Như vậy, chư Tăng, ta muốn bảo
Các ông hiểu rõ Tiền thân này".
Chaddantajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Voi Chúa Chaddanta. [514]
***
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada