2776. Cirassaṃ vata me udapādi ajja bhakkho mahā sattamibhattakāle, kutosi ko vāsi tadiṅgha brūhi
ācikkha jātiṃ vidito yathāsi. 

2776. “Quả thật đã lâu lắm mới có một bữa ăn thịnh soạn sanh lên cho ta hôm nay, vào bữa ăn lần thứ bảy. Ngươi từ đâu đến? Hoặc ngươi là ai? Nào, hãy nói ra điều ấy. Hãy khai báo dòng dõi như ngươi đã được biết.”

1. Kìa! Bảy ngày qua chịu đói lòng
Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng
Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy?
Ta muốn biết tên họ, giống dòng.

2777. Pañcālarājā migavaṃ paviṭṭho jayaddiso nāma yadissuto te, carāmi kacchāni vanāni cāhaṃ
pasadimaṃ khāda mamajja muñca. 

2777. “Trẫm là vua xứ Pañcāla tên Jayaddisa đang đi săn thú, nếu ngươi đã được nghe tin. Trẫm lang thang ở các đầm lầy và các khu rừng. Hôm nay, ngươi hãy ăn thịt con hươu này và hãy thả trẫm ra.”

2. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua
Của xứ Pãn-ca, quốc độ ta!
Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
Xin dùng hươu nọ thả ta ra.

2778. Seneva tvaṃ paṇasi sassamāne mameso bhakkho pasado yaṃ vadesi, taṃ khādiyāna pasadaṃ jighaññaṃ khādissaṃ pacchā na vilāpakālo. 

2778. “Trong khi bị hãm hại, ngài đánh đổi mạng sống bằng chính vật sở hữu của mình. Con hươu này sẽ là thức ăn của ta là điều ngài nói. Ta sẽ ăn ngài là vật nên ăn (trước), còn con hươu kém ngon hơn ta sẽ ăn sau. Giờ không phải là lúc nói nhảm.”

3. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng
Mồi kia ngon thật đấy Quân vương
Ta xơi ngài trước và không bỏ
Thú nếm thịt hươu: chớ nói quàng!

2779. Na catthi mokkho mama vikkayena gantvāna pacchā gamanāya paṇhe, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ. 

2779. “Không có việc trốn tránh đối với sự đánh đổi của trẫm. Trẫm ra đi rồi sau đó trở lại vào sáng sớm ngày mai. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, trẫm sẽ quay trở lại.”

4. Vì ta chẳng thuộc mạng an toàn
Ðược thả như ta khẩn thiết van
Thì hãy cho ta tròn hứa cũ
Ta đà giao ước Bà-la-môn
Sáng mai cứu được lời danh dự
Rồi sẽ trở về với quỷ nhân.

2780. Kiṃ kammajātaṃ anutappatī taṃ pattaṃ samīpaṃ maraṇassa rāja, ācikkha me taṃ api sakkuṇemu anujānituṃ āgamanāya paṇhe. 

2780. “Này đức vua, việc gì khiến ngài lo lắng, khi ngài đã đến bên cạnh cái chết? Hãy nói việc ấy với ta, thậm chí ta có thể cho phép ngài quay lại vào sáng sớm ngày mai.”

5. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng
Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương
Nói thật cho ta rồi có thể
Ta bằng lòng thả một ngày ròng.

2781. Katā mayā brāhmaṇassa dhanāsā taṃ saṅgaraṃ paṭimokkhaṃ na muttaṃ, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ. 

2781. “Sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi trẫm, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, trẫm sẽ bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi sẽ quay trở lại.”

6. Ta hứa lời cùng một đạo nhân
Nợ kia chưa trả, hứa cho xong
Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứ
Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông.

2782. Yaṃ te katā brāhmaṇassa dhanāsā taṃ saṅgaraṃ paṭimokkhaṃ na muttaṃ, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajassu. 

2782. “Về sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi ngài, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, ngài hãy bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi hãy quay trở lại.”

7. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân
Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong
Mong tròn nguyện ước thanh danh cứu
Rồi trở về đây buổi rạng đông.

2783. Mutto ca so purisādassa hatthā gantvā sakaṃ mandiraṃ kāmakāmī, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya āmantayī putta malīnasattaṃ. 

2783. Và vị vua ấy đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người. Vị có sự đeo đuổi ước muốn, sau khi di đến cung điện của mình, đã bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi đã nói với hoàng tử Alīnasatta rằng:

8. Thoát ác quỷ kia, lại trở về
Nhà yêu, mộng nước đẹp tràn trề
Với La-môn bạn, không sai hứa
Song dặn A-lin quý tử kia.

2784. Ajjeva rajjaṃ abhisecayassu dhammañca raṭṭhesu janesu cāpi, adhammakāro ca te māhu raṭṭhe
gacchāmahaṃ porisādassa ñatte.

2784. “Nội trong ngày hôm nay, con hãy làm lễ đăng quang vương quyền và luật pháp ở trong các xứ sở và luôn cả ở nơi các người dân. Và con chớ có các hành động bất công trong xứ sở, trẫm sẽ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người.”

9. Vương nhi nay nhận chức Quân vương
Cai trị bạn thù thật chính chân
Ðừng để bất công làm hại nước
Cha đành nộp mạng chốn hung thần.

2785. Kiṃ kamma kubbaṃ tava deva pāde nārādhayiṃ tadicchāmi sotuṃ, yamajja rajjamhi udassaye tvaṃ
rajjampi na iccheyyaṃ tayā vinā ahaṃ.

2785. “Tâu phụ vương, con đã không làm cho phụ vương hài lòng trong khi làm công việc gì dưới quyền của phụ vương? Để rồi hôm nay phụ vương sẽ đưa con lên làm vua, con mong được nghe về điều ấy. Con không mong muốn ngay cả vương quyền, nhưng thiếu vắng phụ vương.”

10. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân
Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng
Cha phải đưa con lên kế vị
Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng.

2786. Na kammunā vā vacasāva tāta
aparādhitohaṃ tuviyaṃ sarāmi,
sandhiñca katvā purisādakena
saccānurakkhī punahaṃ gamissaṃ. 

2786. “Này con thương, vào lúc này trẫm không nhớ đến lỗi lầm gì do hành động hay do chính lời nói của con. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi thực hiện điều cam kết với kẻ ăn thịt người, trẫm sẽ quay trở lại.”

11. Này con, cha chẳng thể tìm ra
Một ác ngôn hay một nghiệp tà
Song nợ thanh danh, giờ trả trọn
Còn lời nguyền giữ với yêu ma.

2787. Ahaṃ gamissāmi idheva hohi natthi tato jīvato vippamokkho, sace tuvaṃ gacchasiyeva rāja ahmpi gacchāmi ubho na homa. 

2787. “Con sẽ đi, phụ vương hãy ở lại tại nơi này. Không có sự phóng thích đối với người còn sống từ nơi kẻ ấy. Tâu phụ vương, nếu phụ vương đi, con cũng đi nữa. Hãy để cả hai không còn tồn tại.”

12. Cha ở lại, đây con sẽ đi
Trở về an ổn, có gì mong
Nếu cha đi nữa, con theo gót
Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi!

2788. Addhā hi tāta satānesa dhammo maraṇā ca me dukkhataraṃ tadassa, kammāsapādo taṃ yadā pacitvā
pasayha khāde bhidā rukkhasūle. 

2788. “Này con thương, quả đúng thế, điều này là bản thể của các hiền nhân. Việc ấy đối với trẫm còn khổ sở hơn là cái chết, là vào lúc gã Kammāsapāda xuyên thủng con ở nơi cọc gỗ, nướng chín, rồi dùng bạo lực nhai ngấu nghiến.”

13. Vương tử , con theo đúng đạo trời
Song cha mất hết thú yêu đời
Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ
Nướng thịt con ăn trọn cả đời.

2789. Pāṇena te pāṇamahaṃ nimissaṃ mā tvaṃ agā porisādassa ñatte, etañca te pāṇamahaṃ nimissaṃ
tasmā mataṃ jīvitassa varemi.

2789. “Con có thể trao đổi mạng sống của phụ vương bằng mạng sống (của con). Phụ vương chớ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người. Và con có thể trao đổi mạng sống này cho phụ vương, vì điều ấy, con chọn cái chết cho sự sống còn (của phụ vương).”

14. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh
Vì phụ vương, con nguyện bỏ mình
Hơn nữa con tràn trề hỷ lạc
Ðược đem đời hiến sinh thành.

2790. Tato have dhitimā rājaputto vandittha mātucca pitucca pāde, dukhinissa mātā nipatī pathabyā pitassa paggayha bhujāni kandati. 

2790. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã đảnh lễ hai bàn chân của mẫu hậu và phụ vương. Người mẹ, khổ đau, đã ngã quỵ xuống đất, còn người cha đã đưa hai cánh tay lên, khóc lóc.

15. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt
Cúi đầu ngài đảnh lễ song thân.

16. Phụ vương khóc lớn, giơ tay cản,
Hiền mẫu buồn thương, ngã lịm dần.

2791. Taṃ gacchantaṃ tāva pitā viditvā parammukho vandati pañjalīko, somo ca rājā varuṇo ca rājā pajāpatī candimā sūriyo ca, etehi gutto purisādakamhā
anuññāto sotthi paccehi tāta. 

2791. Cho đến lúc biết được người con ấy đang bước đi, người cha, với mặt quay hướng khác, chắp tay lên, đảnh lễ các vị: Vua Soma, Vua Varuṇa, Thần Pajāpatī, Mặt Trăng, và Mặt Trời. “Này con thương, được các vị này bảo vệ, được cho phép từ kẻ ăn thịt người, con hãy trở về bình yên.”

17. Khi hình thái tử khuất mờ dần
Trước mắt thảm sầu của phụ thân
Cầu nguyện chư thần , tay chắp khấn
Va-rù-na với So-ma vương
Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
Bảo vệ hoàng nhi được vạn an
Nhờ các thần linh này, thái tử
Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng.

2792. Yaṃ daṇḍakāraññagatassa mātā romassakā sotthānaṃ suguttā tante ahaṃ sotthānaṃ karomi
etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi putta.

2792. “(Có câu chuyện) một người mẹ khéo được bảo vệ đã tạo ra sự bình yên cho Roma (con mình), là kẻ đã đi vào khu rừng Daṇḍaka; vậy hãy để mẹ tạo ra sự bình yên ấy cho con; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này con trai, được cho phép, con hãy trở về bình yên.”

18. Như mẹ Ra-ma đẹp dáng người
Cứu con nàng đã bặt tăm hơi
Khi vào rừng rậm Dam-da ấy
Con trẻ ta mong giải thoát thôi
Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện
Chư thần cho trở lại an vui.

2793. Āvī raho vāpi manopadosaṃ nāhaṃ sare jātumalīnasatte, etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi bhāta. 

2793. “Tôi nhớ một cách chắc chắn là tôi đã không có ác ý nào đối với anh trai Alīnasatta (của tôi), dầu là lộ liễu hay kín đáo; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này anh trai, được cho phép, anh hãy trở về bình yên.”

19. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì
Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che
Chứng thực lời này, con nguyện ước
Chư thần mang thái tử quay về.

2794. Yasmā ca me anadhimanosi sāmi nacāpi me manasā appiyosi, etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi sāmi.

2794. “Thưa tướng công, bởi vì chàng không có ý phụ bạc thiếp, và thiếp cũng không có ý nghĩ không yêu thương chàng; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Thưa tướng công, được cho phép, tướng công hãy trở về bình yên.”

20 Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân
Chứng thực lời này xin ước nguyện
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân.

2795. Brahā ujū cārumukho kutosi na maṃ pajānāsi vane vasantaṃ, luddañca maṃ ñatvā purisādakoti
ko sotthimājānamidhāvajeyya. 

2795. “Ngươi cao to, ngay thẳng, có khuôn mặt khôi ngô, ngươi từ nơi nào đến? Ngươi không biết lão đang cư ngụ ở khu rừng hay sao? Sau khi biết được lão là kẻ hung bạo có biệt hiệu ‘kẻ ăn thịt người,’ người nào còn quan tâm đến sự bình yên, sao lại có thể đi đến nơi này?”

21. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam
Có biết rừng này của quỷ chăng?
Ai đến thật xem thường tính mạng
Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang.

2796. Jānāmi ludda purisādako tvaṃ na taṃ na jānāmi vane vasantaṃ, hañca puttosmi jayaddisassa mamajja khāda pituno pamokkhā. 

2796. “Này kẻ hung bạo, ta biết ngươi là kẻ ăn thịt người. Không phải ta không biết ngươi đang cư ngụ ở khu rừng. Và ta là con trai của vua Jayaddisa. Vì việc giải thoát cho người cha, nên hôm nay, ngươi hãy ăn thịt ta.”

22. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn
Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang
Ta là đích tử Ja-ya đế,
Ăn thịt rồi , thả phụ vương.

2797. Jānāmi puttoti jayaddisassa tathāhi vo mukhavaṇṇo ubhinnaṃ, sudukkaraññeva kataṃ tavedaṃ yo mattumicche pituno pamokkhā. 

2797. “Lão biết là ‘con trai’ của Jayaddisa, bởi vì khuôn mặt và vóc dáng của cả hai người các ngươi là giống nhau. Việc đã làm này của ngươi quả là việc làm vô cùng khó khăn, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha.”

23. Ta biết con trai chúa Ja-ya
Dáng chàng để lộ việc kia mà
Thật là gian khổ cho chàng quá
Phải chết vì thay mạng của cha.

2798. Na dukkaraṃ kiñcimahettha maññe yo mattumicche pituno pamokkhā, mātucca hetu paralokagamyā sukhena saggena ca sampayutto. 

2798. “Ta nghĩ rằng bất cứ việc gì ở đây không phải là việc khó làm, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha và vì nguyên nhân của người mẹ, (người ấy) sau khi đi đến thế giới khác, sẽ đạt được hạnh phúc và cõi Trời.

24. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng
Ðược chết vì ân phước phụ thân
Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng
Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung.

2799. Ahañca kho attano pāpakiriyaṃ āvī raho cāpi sare na jātu, saṅkhātajāti maraṇohamasmi
yatheva me idha tathā parattha. 

2799. Và thật vậy, ta nhớ một cách chắc chắn rằng bản thân ta không có bất cứ hành động xấu xa nào, dầu là lộ liễu hay kín đáo. Ta bị tạo tác bởi sanh và tử. Ở kiếp này, của ta là như thế nào thì ở kiếp sau sẽ là như vậy.

25. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì
Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che
Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ
Dù đây, hay các cõi sau về.

2800. Khādajja maṃdāni mahānubhāva karassu kiccāni imaṃ sarīraṃ, rukkhassa vāte papatāmi aggā chādayamāno mayhaṃ tvamadesi maṃsaṃ.

2800. Này lão có đại năng lực, lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này. Lão hãy làm các việc cần phải làm với thân xác này. Hay là ta rơi xuống từ chóp đỉnh của thân cây cho lão. Trong khi hứng thú, lão hãy ăn phần thịt của ta.”

 26. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân
Phải làm công việc ấy cho xong
Ta buông mình xuống trên cao chết
Người cứ ăn ta, thỏa nguyện lòng.

2801. Idañca te ruccati rājaputta cajāsi pāṇaṃ pituno pamokkhā, tasmātiha tvaṃ taramānarūpo sambhañja kaṭṭhāni jalehi aggiṃ. 

2801. “Này hoàng tử, và việc này được ngươi ưa thích. Ngươi từ bỏ mạng sống vì việc giải thoát cho người cha. Vì thế, ở đây ngươi có vẻ gấp gáp. Ngươi hãy bẻ gãy các nhánh củi rồi đốt lên ngọn lửa.”

17. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân
Thái tử, đem đời cứu phụ vương
Ta bảo chàng rời ngay bước vội
Tìm gom củi đốt lửa than hừng.

2802. Tato have dhitimā rājaputto dārū samāhatva mahantamaggiṃ, ādīpayitvā paṭivedayittha
ādīpitodāni mahāyamaggi. 

2802. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã gom lại các khúc gỗ và đốt cháy ngọn lửa lớn, rồi đã thông báo rằng: ‘Bây giờ, ngọn lửa lớn này đã được đốt cháy.’

 27. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng
Và chất cao lên một cái giàn
Và thét vừa châm: "Bày tiệc sẵn!
Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!"

2803. Khādajja maṃ dāni pasayhakārī kiṃ maṃ muhuṃ pekkhasi haṭṭhalomo, tathā tathā tuyhamahaṃ karomi yathā yathā maṃ chādayamāno adesi. 

2803. “Lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này, bằng hành động bạo lực. Việc gì mà lão lén nhìn ta, (sửng sốt) có lông dựng đứng? Ta làm cho lão thế này thế nọ để cho lão hứng thú ăn thịt ta.”

28. Ðừng đứng nhìn ta , dáng sửng sờ
Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta
Khi đang còn sống ta trù tính
Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ.

2804. Ko tādisaṃ arahati khāditāye dhamme ṭhitaṃ saccavādiṃ vadaññuṃ, muddhāpi tassa viphaleyya sattadhā yo tādisaṃ saccavādiṃ adeyya. 

2804. “Ai xứng đáng để ăn thịt người vững vàng về đạo đức, có lời nói chân thật, rộng lượng như thế ấy? Kẻ nào ăn thịt người có lời nói chân thật như thế ấy, thậm chí cái đầu của kẻ ấy cũng có thể vỡ tan thành bảy mảnh.”

29. Một hiền nhân, chánh trực, công bằng
Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn
Hoặc kẻ nào ăn người, ắt hẳn
Ðầu kia tan nát bảy phần chăng.

2805. Idaṃ hi so brāhmaṇaṃ maññamāno
saso avāsesi sake sarīre, teneva so candimā devaputto
sasatthuto kāmaduhajja yakkha.

2805. “Trong khi nghĩ rằng: ‘Người này là Bà-la-môn,’ con thỏ ấy đã quyết định bố thí thân thể của mình; chính vì thế, vị Thiên tử Mặt Trăng ấy, được ngợi khen về (hình bóng) con thỏ, ngày nay là vị Dạ-xoa có nguồn ban phát các điều mong muốn.”

30. Ðế Thiên giả dạng một La-môn
Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng
Từ đó mặt trăng in dáng thỏ
Ta chào nguyệt diện: "Dạ xoa thần!"

2806. Cando yathā rāhumukhā pamutto virocate paṇṇaraseva bhānumā, evaṃ tuvaṃ porisādā pamutto
viroca kampilla mahānubhāva, āmodayaṃ pitaraṃ mātarañca sabbo ca te nandatu ñātipakkho. 

2806. “Giống như mặt trăng được thoát khỏi miệng của thần Rāhu (nguyệt thực) chiếu sáng vào ngày rằm, tựa như mặt trời, tương tự như vậy, này vị hoàng tử có đại năng lực, được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, ngài hãy chiếu sáng xứ sở Kampilla. Trong lúc làm cha và mẹ hoan hỷ, ngài hãy để cho toàn bộ nhóm thân quyến của ngài vui mừng.”

31. Như trăng thoát vuốt La thần
Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang
Ngài, chúa Kam-pi anh dũng đã
Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng
Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy
Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang
Phụ mẫu thân yêu , ngài cống hiến
Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan.

2807. Tato have dhitimā rājaputto katañjalī pariyagā porisādaṃ, anuññāto sotthi sukhī arogo paccāgamā kampillamalīnasatto. 

2807. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã chắp tay lại, đi vòng quanh kẻ ăn thịt người. Được cho phép, hoàng tử Alīnasatta đã trở về lại thành Kampilla bình yên, hạnh phúc, khỏe mạnh.

32. A-lin thái tử anh hùng
Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn
Thêm lần thoát nạn lên đàng
Về Kam-pi xứ, an toàn tấm thân.

2808. Taṃ negamā jānapadā ca sabbe hatthārohā rathikā pattikā ca, namassamānā pañjalikā upāgamuṃ
namatthu te dukkarakārakosī ”ti. 

2808. Tất cả các thị dân và dân chúng cỡi ngựa, đi xe, và đi bộ, đã đến gần vị hoàng tử ấy, chắp tay, bày tỏ sự tôn kính: ‘Kính lễ đến ngài. Ngài là người làm công việc khó khăn.’”

33. Từ thành thị đến thôn trang
Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân
Kìa! Ðồng nô nức hô vang
Uy danh thái tử can tràng hùng anh
Tượng, xa ngất nghểu đăng trình
Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn.

Câu chuyện 513

Jayaddissajātakaṃ.

***

Bổn Sanh Vua Jayaddisa. [513]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada