2713. Kiṃ chando kimadhippāyo eko sammasi ghammani, kiṃ patthayāno kiṃ esaṃ kena atthena brāhmaṇa. 

2713. “Này vị Bà-la-môn, ngài một mình ngồi ở nơi nóng nực với mong muốn gì, với ý định gì, đang ước nguyện điều gì, đang tìm kiếm cái gì, nhằm mục đích gì?”

1. Vì cớ sao ngài ở bến sông
Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng
Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện
Chủ đích gì ngài vẫn ước mong

2714. Yathā mahāvāridharo kumbho suparināhavā, tathūpamaṃ ambapakkaṃ vaṇṇagandharasuttamaṃ. 

2714. “(Ta đã nhìn thấy) trái xoài chín, có màu sắc, mùi thơm, và hương vị tuyệt vời, trông tương tự như cái hũ đựng nước lớn, có kiểu dáng đẹp.

2. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng
Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần
Vươn cánh tay dài ta lấy quả
Ðem về nhà cất ở gian trong

2715. Taṃ vuyhamānaṃ sotena disvānāmalamajjhime,
pāṇīhi naṃ gahetvāna agyāyatanamāhariṃ.

 2715. Hỡi cô nàng có vòng eo thanh khiết, sau khi nhìn thấy trái xoài đang bị cuốn trôi bởi dòng nước, ta đã vớt lấy nó bằng hai bàn tay, rồi đã mang nó đến ngôi nhà cúng tế thần lửa.

3. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
Ta nghĩ của trời quí giá sao!
Hình dáng đẹp tươi này sánh với
Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!

2716. Tato kadalipattesu nikkhipitvā sayaṃ ahaṃ,
satthena naṃ vikappetvā khuppipāsaṃ ahāsi me.

2716. Sau đó, đích thân ta đã đặt nó xuống ở những mảnh lá chuối, rồi dùng dao cắt thành miếng. Nó đã làm tiêu tan sự đói khát của ta.

4. Ta dấu xoài trong lá chuối cây
Cắt ra từng lát với dao này
Ít oi thực phẩm, phần ăn uống
Hợp với đời người đạm bạc đây

2717. Sohaṃ apetadaratho vyantībhūto dukhakkhamo,
assādaṃ nādhigacchāmi phalesvaññesu kesupi.

2717. Ta đây không còn trạng thái đuối sức, và trái xoài chín đã hết. Ta có sức chịu đựng sự khốn khó, nhưng ta không đạt đến sự hứng thú ở các loại trái cây nào khác.

5. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng
Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:
Trong các trái nào ta kiếm được
Ta đều không thấy vị thơm ngon!

2718. Sosetvā nūna maraṇaṃ taṃ mamaṃ āvahissati,
ambaṃ yassa phalaṃ sāduṃ madhuraggaṃ manoramaṃ, yamuddhariṃ vuyhamānaṃ udadhismā mahaṇṇave.

2718. Trái xoài ấy là thứ trái cây ngon, có vị ngọt đậm đà, làm thích ý, mà ta đã vớt nó lên trong lúc nó đang trôi nổi từ đầm nước ở trong biển lớn. Chẳng lẽ sau khi không có nó để thọ dụng, nó sẽ mang lại cái chết cho ta?

6. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông
Xoài ngon ta lượm ở bên dòng
Sẽ làm ta chết, ta lo sợ
Chẳng trái cây nào ta ước mong!

2719. Akkhātaṃ te mayā sabbaṃ yasmā upavasāmahaṃ, rammaṃ patinisinnosmi puthulomāyutā puthu.

2719. Tất cả đã được ta giải thích cho nàng vì sao ta chịu đói khát, (mặc dù) ta ngồi bên cạnh dòng sông đáng yêu có nhiều loại cá.

7. Vì sao giữ giới đã trình nàng
Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng
Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá
Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng

2720. Tvaṃ ca kho me akkhāsi attānamapalāyinī,
kā vā tvamasi kalyāṇi kissa vā tvaṃ sumajjhime.

2720. Hỡi cô nàng (dạn dĩ) không trốn chạy, nàng hãy nói với ta về bản thân. Này mỹ nữ, nàng là ai? Hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, vì sao nàng đi đến đây?

8. Nay ta cầu khẩn nói cho ta
Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?
Tại sao nàng lại đến đây mà?

2721. Ruppa paṭṭapaḷimaṭṭhīva vyagghiva girisānujā,
yā santi nāriyo devesu devānaṃ paricārikā.

2721. Những người nữ trong số chư Thiên, các nàng hầu của chư Thiên, trông tựa như những dải lụa vàng bóng loáng, tựa như những chú cọp con (xinh xắn) được sanh ra ở vùng núi non.

9. Thị nữ chư Thiên đẹp tuyệt vời
Khác nào vàng óng ánh ngời soi!
Xinh như bầy hổ còn thơ dại
Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi

2722. Yāva manussalokasmiṃ rūpenatvāgatitthiyo
rūpe te sādisī natthi devesu gandhabbamanussaloke, 
phuṭṭhāsi me cārupubbaṅgi brūhi akkhāhi me nāmañca bandhave ca.

2722. Cho đến các phụ nữ được phú cho sắc đẹp ở thế giới nhân loại, người sánh bằng với nàng về sắc đẹp là không có ở giữa chư Thiên, ở các Càn-thát-bà, và ở thế giới loài người. Hỡi nàng có đôi chân đẹp, được ta hỏi, xin nàng hãy trả lời. Nàng hãy nói cho ta về danh tánh và về các thân quyến.”

10. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan
Song không ai giữa nhân Thiên ấy
Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!
Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ
Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang
Xin cho ta biết phương danh tánh
Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng

2723. Yaṃ tvaṃ patinisinnosi rammaṃ brāhmaṇa kosikiṃ, sāhaṃ bhusālayā vutthā varavārivahoghasā.

2723. “Này vị Bà-la-môn, ngài ngồi bên cạnh dòng sông Kosikī đáng yêu, còn thiếp đây sống ở trú xứ nhộn nhịp với những dòng nước triều và nước lũ.

11. Trên dòng sông nước thật xinh tươi
Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi
Bá chủ ngôi cao ta ngự trị
Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi

2724. Nānādumagaṇākiṇṇā bahūtā girikandarā,
mameva pamukhā honti abhisandanti pāvuse.

2724. Nhiều hang núi được xen lẫn với những đám cây cối khác loại tuôn chảy vào mùa mưa khiến chính thiếp trở thành dòng chảy tiên phong.

12. Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh
Che phủ rừng cây rậm lá xanh
Từ đó bao dòng tràn ngập chảy
Hòa theo với sóng nước sông mình

2725. Atho bahū vanā todā nīlavārivahandharā,
bahukā nāgacittodā abhisandanti vārinā.

2725. Và còn có nhiều nguồn nước chảy ra từ các cánh rừng mang theo dòng nước màu lục, có nhiều dòng nước đầy màu sắc của các con rồng tuôn chảy với nguồn nước (dồi dào).

13. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây
Ðưa đến Long cung lắm suối đầy
Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc
Ngập dòng bát ngát của ta này

2726. Tā ambajambulabujā nīpā tālā cudumbarā,
bahūni phalajātāni āvahanti abhiṇhaso.

2726. Các dòng nước ấy luôn luôn mang theo nhiều loại trái cây như trái xoài, trái đào đỏ, trái sa-kê, trái nīpa, trái thốt nốt, và trái sung.

14. Lệ thường trên các phụ lưu này
Nhiều trái sinh từ đủ loại cây
Ðào đỏ, chà là, sung mít vả
Với xoài, người thấy rõ ràng ngay

2727. Yaṃ kiñci ubhato tīre phalaṃ patati ambuni,
asaṃsayaṃ taṃ sotassa phalaṃ hoti vasānugaṃ.

2727. Bất cứ trái cây nào ở hai bên bờ rơi rụng xuống nước, chắc chắn rằng trái cây ấy bị cuốn trôi theo mãnh lực của dòng nước chảy.

15. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ
Rơi xuống vừa tầm với của ta
Ta bảo của trời cho chánh đáng
Danh ta, ai có thể gièm pha?

2728. Etadaññāya medhāvi puthupañña suṇohi me,
mā rocayamabhisaṅgaṃ paṭisedha janādhipa.

2728. Thưa bậc thông minh, thưa bậc có trí tuệ bao la, sau khi biết rõ điều ấy, xin ngài hãy lắng nghe thiếp. Thưa bậc quân vương, chớ vui thích sự bám víu (vào tham ái). Hãy chặn đứng điều ấy.

16. Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây
Hỡi đại vương thông tuệ, trí tài
Chớ đắm tham vào tâm dục vọng
Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai

2729. Na cāhaṃ vaddhavaṃ maññe yaṃ tvaṃ raṭṭhābhivaddhana, āceyyamāno rājisi maraṇaṃ abhikaṅkhasi.

2729. Thưa bậc làm hưng thịnh đất nước, thưa nhà vua ẩn sĩ, thiếp không nghĩ rằng việc ngài mong mỏi cái chết trong lúc còn trẻ tuổi là điều sáng suốt.

17. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn
Nay việc ngài, ta chẳng tán dương
Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ
Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng

2730. Tassa jānanti pitaro gandhabbā ca sadevakā,
ye cāpi isayo loke saññatattā yasassino, asaṃsayante jānanti vaddhabhūtā yasassino.

2730. Các bậc cha ông, các Càn-thát-bà, luôn cả chư Thiên, biết được bản tính tham ái của ngài đây, và thậm chí các vị ẩn sĩ có bản thân thu thúc, có danh tiếng ở thế gian, và những người lớn tuổi, có danh vọng, chắc chắn rằng những người ấy cũng biết.”

18. Giáo sĩ, chư thần, quý hiển linh
Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh
Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh
Dưới thế đã thành tựu hiển vinh
Quả thấy việc ngài làm trái đạo
Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh!

2731. Evaṃ viditvā vidū sabbadhammaṃ viddhaṃsanaṃ cavanaṃ jīvitassa, nācīyati tassa narassa pāpaṃ sace na ceteti vadhāya tassa.

2731. “Các bậc hiểu biết dã hiểu rõ như vậy về tất cả các thiện pháp, về sự tan rã, về sự tiêu hoại của mạng sống. Tội ác không bị tích lũy cho người nam ấy, nếu người ấy không suy nghĩ về việc giết hại kẻ khác.

19. Ai biết đời người thật mỏng manh
Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh
Không hề nghĩ đến điều sinh sát
Mà trú an trong mọi hạnh lành

2732. Isipūgasamaññāte evaṃ lokyā viditā sati,
anariya parisambhāse pāpakammaṃ jigiṃsasi.

2732. Hỡi cô nàng được tôn trọng bởi tập thể các ẩn sĩ, trong khi nàng được thể gian biết đến như vậy, nàng lại muốn tạo ra ác nghiệp ở việc chê bai không thánh thiện.

20. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh
Là bậc làm công đức sáng danh
Nay lại giao du nhiều kẻ ác
Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!

2733. Sace ahaṃ marissāmi tīre te puthu sussoṇi,
asaṃsayaṃ asiloko mayi pete āgamissati.

2733. Hỡi nữ thần có cặp mông nở nang xinh xắn, nếu như ta chết ở bờ sông của nàng, chắc chắn rằng tiếng xấu sẽ đến với nàng khi ta đã ra đi.

21. Ví ta chết cạnh bến sông nàng
Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn
Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả
Khác nào mây phủ giữa không gian!

2734. Tasmā hi pāpakaṃ kammaṃ rakkhasseva sumajjhime, mā taṃ sabbo jano pacchā pakatthāsi mayi mate.

2734. Chính vì điều ấy, hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng hãy bảo vệ hành động xấu xa (của ta trong việc ham muốn trái xoài). Chớ để sau này, khi ta đã chết, tất cả mọi người lại phỉ báng nàng.”

22. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng
Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng
Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc
Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!

2735. Aññātametaṃ avisayhasāhi attānaṃ ambaṃ ca dadāmi te taṃ, yo duccaje kāmaguṇe pahāya santiñca dhammañca adhiṭṭhitosi.

2735. “Thưa vị có sự chịu đựng việc không thể chịu đựng, điều ấy đã được biết rõ. Thiếp sẽ đích thân biếu trái xoài ấy đến ngài. Ngài đây, sau khi dứt bỏ các loại dục khó thể từ bỏ, ngài hãy duy trì sự an tịnh và thiện pháp.

 23. Ta biết ngài thầm kín ước mong
Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm
Ta cam đành phận làm tỳ nữ
Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân
Kìa ác dục từ bao thưở trước
Khó thay bỏ lạc thú phàm trần
Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh
Và trí bình an, phải giữ luôn.

2736. Yo hitvā pubbasaṃyogaṃ pacchā saṃyojane ṭhito, adhammañceva carati pāpañcassa pavaḍḍhati.

2736. Kẻ nào sau khi từ bỏ sự ràng buộc trước đây, rồi lại dính vào sự ràng buộc sau này, và còn thực hành phi pháp nữa; sự xấu xa gia tăng cho kẻ ấy.

24. Người nào đã thoát buộc ràng xưa
Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa
Phóng dật bước vào phi thánh đạo
Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.

2737. Ehi taṃ pāpayissāmi kāmaṃ appossukko bhava,
upānayāmi sītasmiṃ viharāhi anussuko.

2737. Ngài hãy đến, thiếp sẽ giúp ngài đạt được điều mong muốn. Ngài hãy ít ham muốn. Hãy để thiếp đưa ngài đi, và ngài hãy trú ở nơi (rừng xoài) mát mẻ, không còn ham muốn nữa.

25. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
Ngài sống đời an lạc biết bao!

2738. Taṃ puppharasamattehi vakkaṅgehi arindama,
koñcā mayūrā diviyā koyaṭṭhimadhusāliyā.

2738. Thưa vị thuần hóa kẻ thù, nơi ấy với những con chim bị say đắm hương vị của các bông hoa. Có các chim cò, các chim công, các chim sếu, và các chim sáo ngọt ngào thuộc cõi Trời.

26. Mây-na, cu-gáy, hạc, hồng nga,
Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
Từng đám thiên nga cao vút lượn
Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa
Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái
Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!

2739. Kūjitā haṃsapūgehi kokilettha pabodhare,
ambettha vippasūnaggā palālakhalasannibhā,
kosumbhasalalā nīpā pakkatālavilambino.

2739. Được cất tiếng kêu cùng với bầy thiên nga, các con chim cu cu làm thức giấc chốn này. Ở đây, có những cây xoài với những chùm trái trĩu nặng ở đầu cành, trông giống như những bó lúa trĩu hạt, có những cây kosumbha, cây salala, cây nīpa, và những quầy trái thốt nốt chín treo lỏng thỏng.”

27. Hoa nghệ, Ka-dam-ba rộ bông
Khác nào rơm rạ ở trên đồng
Chà là, thốt nót, nồng nàn chín
Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm
Và giữa cây cành đầy trĩu trái
Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!

2740. Mālī tiriṭī kāyūrī aṅgadī candanassado,
rattiṃ tvaṃ paricāresi divā vedesi vedanaṃ.

2740. “Là người có vòng hoa, có khăn đội đầu, có vòng đeo tay, có thoa trầm hương, ông hưởng thụ vào ban đêm, và cảm nhận thọ khổ vào ban ngày.

28. Suốt đêm, quán đảnh tiệc liên hoan
Vương miện trên mày lại được mang
Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí
Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng

2741. Soḷasitthisahassāni yā temā paricārikā,
evaṃ mahānubhāvosi abbhuto lomahaṃsano.

2741. Mười sáu ngàn phụ nữ này là những người hầu hạ của ông. Như vậy, ông có uy quyền lớn lao, ông thật phi thường, có sự dựng đứng lông.

29. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài
Thần lực ngài kia thật đại tài!
Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi
Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!

2742. Kiṃ kammamakari pubbe pāpaṃ attadukhāvahaṃ, yaṃ karitvā manussesu piṭṭhimaṃsāni khādasi.

2742. Ông đã tạo nghiệp gì xấu xa trong đời quá khứ khiến nó đem lại khổ đau cho bản thân? Sau khi đã làm nghiệp gì ở thế giới loài người khiến ông phải ăn các miếng thịt ở lưng?”

30. Ngài đã làm sao phải đọa đày?
Tội gì ngài hối tiếc ngày nay?
Sao từ lưng nọ nay ngài phải
Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?

2743. Ajjhenāni paṭiggayha kāmesu gathito ahaṃ,
acariṃ dīghamaddhānaṃ paresaṃ ahitāyahaṃ.

2743. “Sau khi tiếp thu các môn học, tôi bị tham đắm ở các dục. Tôi đã hành xử điều bất lợi đến những người khác trong một thời gian dài.

31. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh
Song ác nghiệp giam hãm đắm mình
Việc ác đã làm cho bạn hữu
Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh

2744. Yo piṭṭhimaṃsiko hoti evaṃ ukkacca khādati,
yathāhamajja khādāmi piṭṭhimaṃsāni attano ”ti.

2744. Hôm nay tôi ngấu nghiến những miếng thịt lưng của chính mình như thế nào, thì kẻ nói xấu sau lưng người khác sẽ phải rứt ra (những miếng thịt lưng) rồi nhai tương tự như thế ấy.”

 32. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân
Cứ thích rình mò phá tiếng thơm
Phải móc thịt mình ăn lại mãi
Như ta việc ấy hiện đang làm!

Câu chuyện 511

Kiṃchandajātakaṃ.

***

Bổn Sanh Mong Muốn Gì. [511]

***



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada