47- Quốc sư đem hết các La môn,
Thanh tịnh tràn đầy, trí chánh chơn,
Mời các Ngài, ngay Hiền sĩ hỡi,
Chần chờ gì nữa? Hãy lên đường!

2199. Sukhumālarūpaṃ disvāna raṭṭhā vivanamāgataṃ, kūṭāgāravarūpetaṃ mahāsayanamupāsitaṃ.

2199. “Tôi đã nhìn thấy vị có vóc dáng thanh tao, từ vương quốc đã đi đến vùng đất khô cằn, là người được sở hữu ngôi nhà mái nhọn cao quý, được cung phụng giường nằm cao sang.

1- Ta trông ngài xứng đáng ngôi cao,
Ngài đến từ cung điện xứ nào,
Sa mạc vùng này hoang vắng quá,
Dáng hình ngài quá thật thanh tao.

2200. Tassa te pemakenāhaṃ adāsiṃ baddhamodanaṃ, sālīnaṃ vicitaṃ bhattaṃ suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2200. Vì lòng yêu mến bệ hạ đây, thần đã dâng bệ hạ bữa cơm thượng hạng, được nấu với gạo sālī đã đãi sạch, tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

2- Vì mến thương ngài, ta đã dâng,
Cao lương khéo chọn lựa vừa ăn:
Món cơm kia được tài người khéo
Nấu đổ lên trên món thịt hầm.

2201. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha brāhmaṇassa apāpayi, attānaṃ anasitvāna koyaṃ dhammo namatthu te.

2201. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, bệ hạ đã bảo trao đến vị Bà-la-môn. Bệ hạ đã không ăn cho mình. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của bệ hạ?”

3- Thực phẩm ngài cầm lại chẳng ăn,
Ngài đem tặng vị Bà la môn,
Lòng đầy cung kính, nay xin hỏi:
Việc mới làm mang ý nghĩa chăng?

2202. Ācariyo brāhmaṇo mayhaṃ kiccākiccesu vyāvaṭo, garu ca āmantanīyo dātumarahāmi bhojanaṃ.

202. “Vị Bà-la-môn là thầy dạy học của trẫm, quán xuyến các công việc lớn nhỏ. Và vị thầy là nên được mời thỉnh; trẫm nên dâng bữa ăn (đến vị thầy).”

4- Sư trưởng ta đây thật nhiệt thành,
Việc dù lớn nhỏ vẫn thi hành,
Nên ta phải tặng phần cơm cúng,
Xứng đáng Quốc sư, quá thật tình.

2203. Brāhmaṇaṃdāni pucchāmi gotamaṃ rājapūjitaṃ, rājā te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2203. “Giờ đây, tôi xin hỏi Bà-la-môn Gotama, vị được đức vua tôn vinh. Đức vua đã ban đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

5- Dù vua cũng trọng Bà la môn
Xin nói, sao ngài lại chẳng ăn,
Một đĩa cao lương tài nấu khéo,
Người đổ đầy trên món thịt ngon?

2204. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha isissa bhojanaṃ adā, akhettaññūsi dānassa koyaṃ dhammo namatthu te.

2204. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài đã dâng bữa ăn đến vị ẩn sĩ. Ngài là người nhận biết bản thân không phải là thửa ruộng cho sự bố thí. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”

6- Ngài chẳng hiểu thông nghĩa cúng dường,
Song ngài đem tặng vị hiền nhân,
Với lòng kính trọng, nay xin hỏi,
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

2205. Bharāmi putte dāre ca gharesu gathito ahaṃ, bhuñje mānusake kāme anusāsāmi rājino.

2205. “Ta cưu mang các con và các người vợ. Ta bị trói buộc vào các căn nhà. Ta có thể hưởng thụ các dục của con người. Ta chỉ dạy cho các vị vua.

7- Ta có gia đình với vợ con,
Ta thường cư trú tại gia môn,
Dục tham vua chúa ta điều phục,
Tham dục riêng ta vẫn đám hồn.

2206. Āraññakassa isino cirarattaṃ tapassino, vaddhassa bhāvitattassa dātumarahāmi bhojanaṃ.

2206. Ta nên dâng bữa ăn đến bậc ẩn sĩ sống ở rừng, vị có sự khắc khổ thời gian dài, bậc trưởng thượng, có bản thân đã được tu tập.”

8- Vói người khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Xưa ở trong rừng vẫn trú thân,
Già cả, thực hành theo giáo lý,
Nên ta cầm thực phẩm đem dâng.

2207. Isiñcadāni pucchāmi kisaṃ dhamanisanthataṃ, parūḷhakacchanakhalomaṃ paṅkadantaṃ rajassiraṃ.

2207. “Và giờ đây, tôi xin hỏi bậc ẩn sĩ gầy ốm, nổi đầy gân, có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi.

9- Nay ta xin hỏi bậc hiền nhân,
Ở dưới da ngài lộ rõ gân,
Vói móng mọc dài, đầu tóc rối,
Cái đầu dơ bẩn lẫn hàm răng.

2208. Eko araññe viharasi nāvakaṅkhasi jīvitaṃ, bhikkhu kena tayā seyyo yassa tvaṃ bhojanaṃ adā.

2208. Ngài sống một mình trong rừng, không mong mỏi về cuộc sống. Vị tỳ khưu là tốt hơn ngài về điều gì mà ngài đã dâng bữa ăn đến vị ấy?”

10- Ngài chẳng màng đời sống thế gian,
Hỡi người đơn độc trú rừng hoang,
Tôn sư nay có gì ưu thắng,
Mà phải đem lương thực cúng dâng?

2209. Khaṇantālukalambāni biḷālītakkaḷāni ca, dhunaṃ sāmākanīvāraṃ saṅghāriyaṃ pasāriyaṃ.

2209. “Ta đào các khoai mỡ và củ cải, các củ biḷālī và củ takkaḷa. Ta đập giũ các hạt kê, lúa dại, gom lại rồi trải ra phơi khô.

11- Ta đào củ cải, tỏi, hành hoang,
Cỏ, lá, bạc hà, vẫn kiếm luôn,
Nhặt hạt cải đen, rung lúa dại,
Trải ra phơi nắng thật khô dòn.

2210. Sākaṃ bhisaṃ madhuṃ maṃsaṃ padarāmalakāni ca, tāni āhatva bhuñjāmi atthi me so pariggaho.

2210. Về rau cải, củ sen, mật ong, thịt thừa của thú rừng, táo rừng, và trái āmalaka, ta mang về các thứ ấy và thọ dụng. Đối với ta, có sự bám víu ấy.

12- Ngó sen, dược thảo, táo, chà là,
Am-lạc, mật ong, miếng thịt thừa,
Là của ta dành phần kiếm được,
Rồi làm thành món hợp cho ta.

2211. Pacanto apacantassa amamassa akiñcano, anādānassa sādāno dātumarahāmi bhojanaṃ.

2211. Là người nấu thức ăn, có vật sở hữu, còn chấp thủ, ta nên dâng bữa ăn đến vị không nấu, không có trạng thái chấp là của ta, không còn chấp thủ.”

13- Ngài không, lão nấu, lão nhiều hàng,
Ngài chẳng có chi, lão buộc ràng,
Thế sự bao điều, ngài giải thoát,
Món cơm ngài hưởng đúng công bằng.

2212. Bhikkhuñcadāni pucchāmi tuṇhīmāsīna subbataṃ, isi te bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2212. “Và giờ đây, tôi xin hỏi vị tỳ khưu đang ngồi im lặng, là bậc có sự hành trì tốt đẹp. Vị ẩn sĩ đã dâng đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

14- Xin hỏi, ngồi kia bậc Trí hiền,
Mọi nguồn dục vọng thảy nằm yên,
Món cơm nấu khéo đầy ngon ngọt,
Có kẻ đem phần thịt đổ lên.

2213. Taṃ tvaṃ bhattaṃ paṭiggayha tuṇhī bhuñjasi ekako, nāññaṃ kañci nimantesi koyaṃ dhammo namatthu te.

2213. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài im lặng thọ dụng một mình. Ngài không mời mọc bất cứ người nào khác. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”

15- Ngài nhận và ngon miệng uống ăn,
Chẳng mời ai đến để chia phần,
Đầy lòng kính trọng, nay xin hỏi:
Việc ấy ngài làm có nghĩa chăng?

2214. Na pacāmi na pācemi na chindāmi na chedaye, taṃ maṃ akiñcanaṃ ñatvā sabbapāpehi ārataṃ.

2214. “Ta không nấu, không bảo người khác nấu, ta không cắt gọt, không bảo người khác cắt gọt; ta đã nhận biết ta đây không còn bất cứ ô nhiễm nào, đã được lánh xa tất cả các điều ác xấu.

16- Không nấu, cũng không bảo nấu dùm,
Nay không làm hại, trước không làm,
Vị kia biết rõ ta không của,
Ta quyết đoạn trừ mọi dục tham.

2215. Vāmena bhikkhamādāya dakkhiṇena kamaṇḍaluṃ, isi me bhattaṃ pādāsi suciṃ maṃsūpasecanaṃ.

2215. Sau khi cầm vật thực bằng tay trái, bình nước bằng tay phải, vị ẩn sĩ đã dâng đến ta bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.

17- Tay phải vị kia nắm chiếc bình,
Thức ăn cầm phía trái bên mình,
Cho ta món thịt hầm người đặt,
Trên bát cơm ngon thật tốt lành.

2216. Ete hi dātumarahanti samamā sapariggahā, paccaṇīkamahaṃ maññe yo dātāraṃ nimantaye.

2216. Chính những vị này nên bố thí, những người có trạng thái chấp là của ta, có sở hữu. Ta nghĩ rằng người nào mời thỉnh thí chủ là việc làm trái khuấy.”

18- Chúng nhiều tài sản, lắm kim ngân,
Bổn phận là đem của phát phân,
Ai bảo người cho cũng thọ hưởng,
Ấy là thù địch, chớ phân vân.

2217. Atthāya vata me ajja idhāgañji rathesabho, ito pubbe na pajānāmi yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.

2217. “Quả thật vì lợi ích của ta mà hôm nay đấng thủ lãnh xa binh đã đi đến nơi này. Trước đây, ta không biết được vật đã được bố thí ở nơi nào có quả báo lớn.

19- Thật là ta được một duyên may
Hạnh ngộ quân vương ngự tới rày,
Thuở trước ta không hề biết rõ,
Cúng dường mang phước quá tràn đầy.

2218. Raṭṭhesu giddhā rājāno kiccākiccesu brāhmaṇā, isī mūlaphale giddhā vippamuttā ca bhikkhavo ”ti.

13. Bhikkhāparamparajātaka.

2218. Các vị vua bị tham đắm vào các quốc độ, các vị Bà-la-môn vào các công việc lớn nhỏ, các vị ẩn sĩ bị tham đắm vào các rễ và trái cây, còn các vị tỳ khưu được giải thoát hoàn toàn.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada