20. Đạo này không dẫn đến đau buồn,
Chánh Đạo mà chư Phật chỉ đường;
Đường đó giờ đây ta tiến bước
Là đường bậc Thánh vẫn theo luôn.
2155. Rājā avoca vidhuraṃ dhammakāmo yudhiṭṭhilo, brāhmaṇe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2155. Đức vua yêu thích thiện pháp Yudhiṭṭhila đã nói với Vidhura rằng: “Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, –
1- Chúa thượng Yu-dhi thật chánh chân
Một hôm hỏi ý bậc hiền nhân:
"Vi-dhù, tìm các La môn thiện
Những bậc hiền nhân trí tuệ tràn.
2156. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2156. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng như vầy, thiện hữu,
Để ngày sau hái qủa an toàn.
2157. Dullabhā brāhmaṇā deva sīlavanto bahussutā, viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.
2157. “Tâu bệ hạ, khó có được những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.
3- Thật khó tìm Hiền thánh thế này
La-môn trí đức đủ như vầy,
Những người giữ trọn tâm ly dục
Để thọ hưởng phần phẩm thực đầy.
2158. Dasa khalu mahārāja yā tā brāhmaṇajātiyo, tesaṃ vibhaṅgaṃ vicayaṃ vitthārena suṇohi me.
2158. Tâu đại vương, thật vậy, có mười hạng là dòng dõi Bà-la-môn. Xin bệ hạ hãy lắng nghe sự phân tích và xếp loại về họ một cách chi tiết của thần.
4- Giữa đời mười loại Bà la môn,
Xin hãy lắng nghe, tấu Đại Vương,
Trong lúc hạ thần phân biệt họ,
Thần xin nói rõ họ hoàn toàn:
2159. Pasibbake gahetvāna puṇṇe mūlassa saṃvute, osadhiyo ganthenti nahāyanti japanti ca.
2159. Các vị mang các túi xách chứa đầy rễ cây được buộc lại, tổng hợp các phương thuốc, làm công việc tắm rửa, và lẩm nhẩm chú thuật.
5- Vài người mang túi xách trên lưng,
Củ, rễ chất đầy buộc thật căng,
Những kẻ góp gom cây cỏ thuốc
Tắm mình, tụng chú thuật, bùa thần.
2160. Tikicchakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2160. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thầy thuốc, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
6-Bọn họ như thầy thuốc, Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
2161. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2161. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác cũng có giới hạnh, có kiến thức, –
7- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vidhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2162. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2162. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
8- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2163. Kiṃkiṇikāyo gahetvāna ghosenti puratopi te, pesanānipi gacchanti rathacariyāsu sikkhare.
2163. Các vị ấy cầm lấy cái cồng và đi phía trước khua vang. Các vị còn chuyển tin nhắn, học tập về các cách điều khiển cỗ xe.
9- Bọn người đi trước lại mang chuông,
Trong lúc vừa đi họ réo vang,
Họ biết lái xe đầy khéo léo,
Thư từ thông điệp họ đều mang
2164. Paricārakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2164. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người hầu, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
10-Họ chẳng khác nào đám dịch nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
2165. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2165. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
11- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2166. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2166. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
12- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2167. Kamaṇḍaluṃ gahetvāna vaṃkadaṇḍañca brāhmaṇā, paccupessanti rājāno gāmesu nigamesu ca, nādinne vuṭṭhahissāma gāmamhi ca vanamhi ca.
2167. Các vị Bà-la-môn cầm lấy bầu nước uống và cây gậy cong, rồi tiếp cận các vị vua ở các thôn làng và các thị trấn (nói rằng): ‘Ở trong làng và ở trong rừng, khi chưa được bố thí, chúng tôi sẽ không đứng lên.’
13- Với bình nước uống gậy cong cong,
Họ chạy theo kịp quốc vương,
Qua các thôn làng cùng thị trấn,
Trong khi theo đuổi lại ca rằng:
" Ta không đi nữa, dù rừng, phố,
Cho đến khi Hoàng thượng cúng dường".
2168. Niggāhakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2168. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người thâu thuế, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
14- Họ quấy rầy các thuế nhân,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
2169. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2169. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
15- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2170. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2170. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
16- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2171. Parūḷhakacchanakhalomā paṅkadantā rajassirā, okiṇṇā rajareṇūhi yācakā vicaranti te.
2171. Những vị có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, được phủ đầy những bụi bặm, các vị ấy là những hành khất đi lang thang.
17- Móng dài, lông rậm cả tay chân,
Tóc bện và hôi thối miệng răng,
Bụi bặm bám đầy người bẩn thỉu,
Họ đi đường tựa bọn xin ăn.
2172. Khāṇughātasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2172. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người đào bứng gốc cây, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
18- Là bọn tiều phu! Tấu Đại vương!
Cũng đều được gọi Bà la môn
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
2173. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, aññepi vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2173. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
19- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2174. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2174. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
20- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2175. Harīṭakaṃ āmalakaṃ ambaṃ jambuvibhīṭakaṃ, labujaṃ dantapoṇāni beluvā badarāni ca.
2175. 2176. “Tâu quân vương, các vị bán các loại loại hàng hóa có giá trị cao thấp khác nhau như là: trái harīṭaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái sa-kê, các cây chà răng, trái beluva, các trái táo, trái rājāyatana, mía và mật đường, ống xông khói, mật ong và thuốc nhỏ mắt.
21- Am-lạc, Vil-va, đào đỏ hồng,
La-buj, xoài chín, vật chùi răng,
2176. Rājāyatanaṃ ucchupuṭaṃ dhūmanettaṃ madhu-añjanaṃ, uccāvacāni paṇiyāni vipaṇenti janādhipa.
Thuốc cao, ván, điếu, đường, ong mật,
Nhiều thứ còn kia, họ bán hàng.
2177. Vāṇijakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2177. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thương buôn, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
22- Chúa thượng, khác nào bọn lái buôn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận,
Ta có nên tìm hạng ấy chăng?
2178. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brāhmaṇā, sīlavante bahussute.
2178. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
23- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2179. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2179. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
24- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
247. Kasi-vāṇijjaṃ kārenti, posayanti ajeḷake; Kumāriyo pavecchanti, vivāhantāvahanti ca.
Ở các văn bản Pāḷi của Miến Điện, Thái Lan, và PTS của Anh Quốc còn có thêm một hạng Bà-la-môn nữa ở chỗ này; như thế thì số lượng các hạng Bà-la-môn sẽ là 11, thay vì 10 như ở Tạng của Sri Lanka. Phần Pāli ở bên cạnh được thêm vào từ Tạng Miến Điện (Tạng Thái và Tạng của PTS cũng tương tự như thế).
25- Những người làm ruộng hoặc đi buôn
Nuôi lắm đàn dê ở trại chuồng,
Trao đổi cưới xin làm sính lễ,
Bán bầy con gái, để mua vàng.
248. Samā ambaṭṭhavessehi, tepi vuccanti brāhmaṇā; Akkhātā te mahārāja, tādise nipatāmase.
26- Giống bọn con lai đám tiện dân,
Cũng đều được gọi Bà La Môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
249. Apetā te ca brahmaññā, (Iti rājā korabyo) Na te vuccanti brāhmaṇā; Aññe vidhura pariyesa, sīlavante bahussute.
27- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
250. Virate methunā dhammā, ye me bhuñjeyyu bhojanaṃ; Dakkhiṇaṃ samma dassāma, yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
28- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2180. Nikkhantabhikkhaṃ bhuñjanti gāmesveke purohitā, bahū te paṭipucchanti aṇḍacchedā nilañchakā, pasūpi tattha haññanti mahisā sūkarā ajā.
2180. Một số viên quan tế tự thọ dụng bữa ăn ngoại lệ ở các ngôi làng, Nhiều người hỏi các vị ấy (về chiêm tinh, bói toán). Các vị là những người thiến và đóng dấu các con thú. Tại nơi ấy, thậm chí các con thú như trâu, heo rừng, dê bị giết chết.
29- Bọn thầy cúng tế, đoán điềm hên,
Thiến, lựa bò, dê để lấy tiền,
Dân chúng mời về, thường ở lại,
Có đầy thực phẩm được dâng lên,
Nơi kia bò cái, bê, bò thiến,
Dê, lợn đều đem giết lắm phen.
2181. Goghātakasamācārā tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2181. Tâu bệ hạ, các vị ấy, có hành vi giống như các đồ tể, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
30- Bọn họ như hàng thịt hạ tầng,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
2182. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2182. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
31- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2183. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2183. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
32- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2184. Asicammaṃ gahetvāna khaggaṃ paggayha brāhmaṇā, vessapathesu tiṭṭhanti satthaṃ abbāhayantipi.
2184. Sau khi cầm lấy thanh gươm và mộc che, các vị Bà-la-môn đã giơ cao thanh kiếm, đứng ở các con đường của thương buôn, rồi còn hộ tống đoàn xe nữa.
33- Bọn mang gươm, giáo, mộc che mình,
Tay lại cầm rìu tựa chiến binh,
Họ đứng trước đoàn thương khách nọ,
Sẵn sàng hướng dẫn đám du hành.
2185. Samā gopanisādehi tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2185. Tâu bệ hạ, các vị ấy, tương đương với những kẻ giữ bò hay những người man rợ, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
34- Như mục phu, quân cướp bạo gan,
Cũng đều được gọi Bà la môn ,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
2186. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2186. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
35- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2187. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2187. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
36- Những người đoạn ác nghiệp, ly tham,
Ao ước chư hiền thọ thức ăn,
Trẫm nguyện cúng dường người đức độ,
Chính mình sau hái quả an toàn.
2188. Araññe kuṭikaṃ katvā kūṭāni kārayanti te, sasabiḷāre bādhenti āgodhā macchakacchapaṃ.
2188. “Sau khi làm căn chòi nhỏ ở trong rừng, họ cho làm những cái bẫy và đánh bắt các con thỏ, mèo rừng, kỳ đà, cá, và rùa.
37- Có bọn xây lều đặt bẫy giăng,
Bất kỳ nơi chốn ở trong rừng,
Bắt loại tôm, cá, cùng rùa, trạnh,
Mèo, thỏ, cắc kè, mọi thú hoang.
2189. Luddakā te mahārāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2189. Tâu bệ hạ, họ là những người thợ săn, các vị ấy cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
38- Tâu Đại vương, đây chính thợ săn,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
2190. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2190. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
39- Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2191. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2191. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
40-Chư vị đoạn tham dục, ác hạnh,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng chư hiền giả,
Để chính mình sau gặt quả lành.
2192. Aññe dhanassa kāmāhi heṭṭhāmañce pasakkhitā, rājāno upari nahāyanti somayāge upaṭṭhite.
2192. Những vị khác với sự mong muốn về tài sản, đã nằm dài bên dưới gầm giường, và các vị vua tắm ở bên trên vào lúc lễ tế Soma được chuẩn bị.
41- Lại có bọn ham chuộng bạc vàng,
Chịu nằm xuống dưới chiếu vương sang,
Để vua tắm rửa trên đầu họ,
Trong lễ So-ma rảy tế đàn.
2193. Malamajjakasamā rāja tepi vuccanti brāhmaṇā, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2193. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các người thợ cạo, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
42- Thợ cạo khác gì? Tấu Đại vương,
Cũng đều được gọi Bà la môn,
Nay ngài biết loại này tường tận
Ta có nên tìm loại ấy chăng?
2194. Apetā te brahmaññā (iti rājā koravyo) na te vuccanti brahmaṇā, aññe vidhura pariyesa sīlavante bahussute.
2194. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
43-Họ không chân chánh với danh xưng,
Phạm hạnh thanh cao, họ diệt vong,
Hãy kiếm, Vi-dhù, nhiều vị khác,
Tràn đầy trí tuệ với hiền lương.
2195. Virate methunā dhammā ye me bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ, dakkhiṇaṃ samma dassāma yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
2195. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
44- Chư vị đoạn tham dục, ác hành,
Để dùng thực phẩm của triều đình,
Trẫm nguyện dâng cúng người như vậy,
Để chính mình sau gặt quả lành.
2196. Atthi brāhmaṇā deva sīlavanto bahussutā, viratā methunā dhammā ye te bhuñjeyyuṃ bhojanaṃ.
2196. “Tâu bệ hạ, có những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, những vị ấy có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.
45-Song các La môn , Tấu Đại vương,
Những người đại trí tuệ, hiền lương,
Đoạn trừ mọi ác hạnh, tham dục,
Để thọ thức ăn được cúng dường.
2197. Ekañca bhattaṃ bhuñjanti na ca majjaṃ pivanti te, akkhātā te mahārāja tādise nipatāmase.
2197. Các vị ấy ăn một bữa và không uống chất say. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
46- Chư vị chỉ dùng một bữa ăn,
Chẳng bao giờ đụng rượu men nồng,
Đại vương biết rõ người như vậy,
Ta có nên tìm các vị không?
2198. Ete kho brāhmaṇā vidhura sīlavanto bahussutā, ete vidhura pariyesa khippañca te nimantayā ”ti.
12. Dasabrāhmaṇajātakaṃ.
2198. “Này Vidhura, các vị Bà-la-môn này chắc chắn là có giới hạnh, có kiến thức. Này Vidhura, hãy tức tốc tìm kiếm các vị này và hãy thỉnh mời các vị ấy.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada