23. Bậc trí khi xem việc ác làm
Khổ đau bắt rễ tự lòng tham,
Ðoạn trừ tham dục và dây trói,
Phát nguyện sống đời thanh tịnh tâm.

2135. Abbhuto vata lokasmiṃ uppajji lomahaṃsano, dibbo ratho pāturahū vedehassa yasassino.

2135. “Thật là phi thường ở thế gian, việc dựng đứng lông đã sanh khởi; Thiên xa đã hiện ra cho vị vua danh tiếng của xứ Videha!”

1. Việc lạ trên trần đã được xem
Làm cho dựng đứng tóc người lên:
Vì mời Ðại đế Vi-đề quốc,
Phái xuống thiên xa tự cõi thiên.

2136. Devaputto mahiddhiko mātali devasārathi, nimantayittha rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ.

2136. Vị Thiên tử có đại thần lực Mātali, người điều khiển Thiên xa, đã thỉnh mời đức vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha.

2. Thiên sứ Mà-ta-li đại cường,
Vị thần điều ngự ấy vừa mang
Lời truyền đến tận Vi-đề quốc
Ngay tại kinh thành triệu quốc vương:

2137. Ehimaṃ rathamāruyha rājaseṭṭha disampati, deva dassanakāmā te tāvatiṃsā sa-indakā. saramānā hi te devā sudhammāyaṃ samacchare.

2137. “Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, xin bệ hạ hãy đến, hãy bước lên cỗ xe này. Tâu bệ hạ, chư Thiên ở cõi Trời Tam Thập với cả Thiên Chủ Inda có ý muốn nhìn thấy bệ hạ. Bởi vì trong khi tưởng nhớ đến bệ hạ, chư Thiên ngồi chung ở giảng đường Sudhammā.”

3. "Xin tấu Ðại vương, bậc Thánh quân,
Ngự trên xa giá để theo thần,
In-dra Thiên chủ cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới lẫy lừng,
Chư vị giờ này đang hội họp
Và đồng mơ tưởng đến hiền nhân".

2138. Tato ca rājā sādhīno pamukho rathamāruhi, sahassayuttaṃ abhiruyha agā devāna santike,taṃ devā paṭinandiṃsu disvā rājānamāgataṃ.

2138. Và sau đó, đức vua Sādhīna, vị lãnh tụ, đã bước lên cỗ xe. Sau khi ngự lên cỗ xe thắng một ngàn ngựa, đức vua đã đi đến chỗ ngụ của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy đức vua đang tiến đến, chư Thiên đã đón mừng ngài.

4. Ðại đế Sà-dhì ngước mắt lên,
Và liền ngự giá chiếc xe tiên,
Thần xa được cả ngàn thiên mã
Ðồng kéo ngài lên đến cõi thiên.

5. Chư Thiên chiêm ngưỡng đấng anh quân,
Thượng khách lên chơi, vội đón mừng:

2139. Svāgataṃ te mahārāja atho te adurāgataṃ, nisīdadāni rājisi devarājassa santike.

2139. “Tâu đại vương, chào mừng bệ hạ, và việc ngự đến không khó nhọc của bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ vương, giờ đây xin thỉnh bệ hạ ngồi xuống kề bên vị Thiên Vương.” "Ðại đế!" đồng hô lời chúc tụng,
"Thật là hạnh ngộ cuộc tao phùng!
Trên ngai vàng cạnh ngai Thiên chủ
An tọa xin mời đấng thánh nhân!"

2140. Sakkopi paṭinandittha vedehaṃ mithilaggahaṃ, nimantayī ca kāmehi āsanena ca vāsavo.

2140. Thiên Chủ Sakka cũng đã đón mừng vị vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha, và Thiên Chủ Vāsava đã thỉnh mời với các dục và chỗ ngồi.

6. Sak-ka chào đón chúa Vi-đề
Ngự trị kinh thành tại Mỹ-thi,
Thiên chủ ban ngài ngàn lạc thú,
Thỉnh ngài an tọa thật uy nghi:

2141. Sādhu khosi anuppatto āvāsaṃ vasavattinaṃ, vasa devesu rājisi sabbakāmasamiddhisu, tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.

2141. “Thật tốt đẹp thay bệ hạ đã ngự đến chỗ trú ngụ của những vị có quyền lực. Tâu vị ẩn sĩ vương, bệ hạ hãy sống giữa chư Thiên có sự thành đạt tất cả các dục. Bệ hạ hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”

7. "Giữa các đế vương ở cõi trần
Chào mừng Thánh thượng đến thiên cung,
Ðại vương an trú cùng Thiên chúng,
Ðược phỉ ước nguyền đúng lệnh ban,
Xin hưởng lạc thiên đường bất tận
Trên trời Ðao lợi, cảnh thiên đàng!"

2142. Ahaṃ pure saggagato ramāmi naccehi gītehi ca vāditehi, sodāni ajja na ramāmi sagge āyuṃ nu khīṇo maraṇaṃ nu santike udāhu mūḷhosmi janindaseṭṭha.

2142. “Trước đây, trẫm đã đi đến cõi Trời, vui thích với các điệu vũ, với các lời ca, và với các điệu nhạc. Giờ đây, hôm nay, trẫm đây không vui thích ở cõi Trời. Thưa vị chúa tối thượng của loài người. Phải chăng tuổi thọ của trẫm đã cạn kiệt, cái chết đã gần kề, hay là trẫm bị mê mờ?”

8. Ta hưởng, từ khi đến ngọc đường,
Ðàn ca, vũ khúc, nhạc du dương.
Nay ta chẳng thấy niềm hoan lạc,
Lâm mạng chung thời đến phải chăng?
Hay chính là vì lòng ám độn,
Làm ta sợ hãi, tấu Thiên hoàng?

2143. Nacāyu khīṇaṃ maraṇaṃ te dūre nacāpi mūḷho naraviriya seṭṭha, tavañca puññāni parittakāni yesaṃ vipākaṃ idha vedayittho.

2143. “Tâu vị tinh tấn tối thượng của loài người, không phải tuổi thọ của bệ hạ đã cạn kiệt, cái chết của bệ hạ hãy còn xa, và cũng không phải bệ hạ bị mê mờ. Các phước báu của bệ hạ là ít ỏi, và bệ hạ đã thọ hưởng quả thành tựu của chúng ở nơi này.

9. Ðời ngài chưa hết, chẳng lâm chung,
Ngài chẳng cuồng si, hỡi Ðại nhân,
Song thiện nghiệp ngài nay đã tận,
Giờ công đức trước hưởng xong phần.

2144. Vasa devānubhāvena rājaseṭṭha disampati, tāvatiṃsesu devesu bhuñja kāme amānuse.

2144. Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, bệ hạ hãy sống với năng lực của chư Thiên, hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”

10. Song cứ ở đây, hỡi Ðại vương!
Bởi quyền tối thượng của ta ban:
Hưởng đi thiên lạc cùng Thiên chúng
Tam thập tam thiên giới trú an.

2145. Yathā yācitakaṃ yānaṃ yathā yācitakaṃ dhanaṃ, evaṃ sampadamevetaṃ yaṃ parato dānapaccayā.

2145. “Cỗ xe giống như vật vay mượn, tài sản giống như vật vay mượn, tương tự như vậy, chính việc thành đạt này là do duyên ban phát từ người khác.

11. Như lúc thiên xa đã giáng trần,
Hoặc khi phước lộc được dành phần,
Chính là thọ hưởng niềm thiên lạc
Do bởi bàn tay khác thưởng ân.

2146. Nacāhametaṃ icchāmi yaṃ parato dānapaccayā, sayaṃ katāni puññāni tamme āveṇikaṃ dhanaṃ.

2146. Và trẫm không thích điều ấy, là việc do duyên ban phát từ người khác. Các phước báu đã được tự mình tạo ra, tài sản ấy là dành riêng cho trẫm.

12. Ta chẳng cầu mong nhận phước phần
Do bàn tay kẻ khác thi ân,
Chính nhờ thiện nghiệp phần ta tạo,
Thiện sự riêng ta đứng vững chân.

2147. Sohaṃ gantvā manussesu kāhāmi kusalaṃ bahuṃ, dānena samacariyāya saṃyamena damena ca, yaṃ katvā sukhito hoti na ca pacchānutappati.

2147. Trẫm đây, sau khi đi đến cõi người, sẽ làm nhiều việc thiện với việc bố thí, với việc thực hành bình đẳng, với việc tự chế ngự, và với việc rèn luyện. Sau khi làm điều ấy, trẫm được an lạc và sau này không bị ân hận.”

13. Ta sẽ ra đi tạo việc lành,
Phát ban cả nước, khắp quần sinh,
Tuân theo giới hạnh và tu tập,
Ðiều phục thân tâm, quyết thực hành,
Người biết làm vầy là hạnh phúc,
Chẳng ăn năn hối tiếc phần mình.

2148. Imāni tāni khettāni imaṃ nikkhaṃ sukuṇḍalaṃ, imā tā haritā nūpā imā najjo savantiyo.

2148. “Những ruộng đồng này đây, con kênh đào khéo uốn quanh này, những đầm cỏ xanh mướt này đây, những con sông, những dòng suối này.

14. Lãnh thổ là đây, tổ quốc ta
Máng tròn dẫn nước suối băng qua
Cỏ xanh bao phủ đầy nơi chốn
Khe nhỏ, lạch ngòi vẫn chảy ra

2149. Imā tā pokkharaṇiyo rammā cakkavākūpakūjitā, mandālakehi sañchannā padumuppalakehi ca, yassimāni mamāyiṃsu kinnu te disataṃ gatā.

2149. Những hồ sen đáng yêu này đây với những con ngỗng đỏ kêu ríu rít, được bao phủ bởi những loài thủy thảo và bởi những hoa sen hồng sen xanh. Những người đã yêu mến những nơi này của trẫm, vậy họ đã đi đến phương trời nào?

15. Các hồ diễm lệ lắng nghe vang
Khi đám hồng nga réo gọi đàn
Bao đóa sen xanh chen lẫn trắng,
Cây hình đá biến mọc lan tràn
Song người yêu cánh cùng ta trước,
Nay ở đâu, lòng ta muốn hỏi han?

2150. Tānīdha khettāni so bhūmibhāgo te ārāmā te vana me pacārā, tameva mayhaṃ janataṃ apassato suññāva me nārada khāyate disā.

2150. Ở đây, những đồng ruộng ấy, khoảnh đất kia, những khu vườn nọ, các khu rừng ấy, những vùng phụ cận này, trẫm không nhìn thấy chính những người dân ấy của trẫm. Này Nārada, hướng này đối với trẫm hình như hoàn toàn rỗng không.

16. Đây là điền thổ ruộng cùng nương,
Đồng lúa lạc viên , chính cố hương,
Song chẳng thấy đâu người quyến thuộc,
Tưởng chừng sa mạc quá thê lương!

2151. Diṭṭhā mayā vimānāni obhāsentā catuddisā, sammukhā devarājassa tidasānañca sammukhā.

2151. Trẫm đã nhìn thấy các cung điện chiếu sáng bốn phương, đã diện kiến vị Thiên Vương, và đã diện kiến chư Thiên ở cõi Tam Thập.

17. Ta đã nhìn cung điện cõi trời
Huy hoàng chiếu sáng khắp muôn nơi,
Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi
Thiên chủ cùng ta diện kiến rồi.

2152. Vutthaṃ me bhavanaṃ dibbaṃ yuttā kāmā amānusā, tāvatiṃsesu devesu tibbakāma samiddhisu.

2152. Trẫm đã sống ở cung Trời, đã được cung phụng các dục không thuộc về nhân loại, ở giữa chư Thiên cõi Tam Thập có sự thành đạt các dục tuyệt trần.

18. Ta hưởng bao hoan lạc tuyệt trần,
Ngôi nhà thiên giới để riêng phần
Tràn đầy tất cả điều tâm nguyện
Tam thập tam thiên của Ngọc Hoàng.

2153. Sohaṃ etādisiṃ disvā puññāyamhi idhāgato, hammameva carissāmi nāhaṃ rajjena atthiko.

2153. Trẫm đây, sau khi đã nhìn thấy như thế, đã đi đến nơi này vì việc phước thiện. Trẫm sẽ thực hành mỗi thiện pháp, trẫm không có ham muốn với vương quyền.

19. Ta ngắm xong và đã tái hồi
Để thi hành thiện sự mà thôi
Và ta sẽ sống đời thanh tịnh,
Ta chẳng màng gì đến chiếc ngôi.

2154. Adaṇḍāvacaraṃ maggaṃ sammāsambuddhadesitaṃ, taṃ maggaṃ paṭipajjissaṃ yena gacchanti subbatā ”ti.

11. Sādhinajātakaṃ.

2154. Trẫm sẽ thực hành đạo lộ đưa đến sự bình an, đạo lộ ấy đã được các bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, đạo lộ mà những vị có sự hành trì tốt đẹp đang đi.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada