16. Ta không quỳ, bởi quá kiêu căng
Ở trước chân Ngài, chẳng hỏi han,
Vì thế, ta nương vào giới hạnh,
Ðể kiêu căng ấy chẳng đeo gần.

2075. Sace hi tyāhaṃ dhanahetu gahito mā maṃ vadhi jīvagāhaṃ gahetvā,rañño ca maṃ samma upenti nehi maññe dhanaṃ lacchasi napparūpaṃ.

2075. “Quả thật, nếu ta đã bị ông bắt vì nguyên nhân tài sản, thì chớ gây thương tích cho ta sau khi đã bắt sống. Này ông bạn, ông hãy đưa ta về gặp đức vua. Ta nghĩ ông sẽ nhận được tài sản không phải là ít.”

1. Bắt ta, bạn sẽ được ngàn vàng,
Bắt sống, xin đừng bắn bị thương,
Van bạn đem ta về chúa thượng,
Chắc ngài sẽ thưởng thật giàu sang.

2076. Na me ayaṃ tumhe vadhāya ajja samāhito cāpavare khurappo,pāsañca tyāhaṃ adhipātayissaṃ yathā sukhaṃ gacchatu morarājā.

2076. “Mũi tên này của tôi đã được đặt vào cây cung cao quý không phải để giết chết Công ngày hôm nay. Tôi sẽ phá vỡ cái bẫy ở chân Công. Này vua của loài công, Công hãy ra đi một cách thoải mái.”

2. Trên cung, ta chẳng ráp tên này
Ðể bắn chim, Công chúa, ở đây
Ta muốn cắt dây thòng lọng ấy
Ðể chim tùy ý, hãy xa bay!

2077. Yaṃ satta vassāni mamānubandhi rattindivaṃ khuppipāsaṃ sahanto, atha kissa maṃ pāsavasūpanītaṃ pamuttave icchasi bandhanasmā.

2077. “Ông đã theo đuổi ta bảy năm, chịu đựng đói khát đêm ngày. Giờ ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta?

3. Bảy năm theo đuổi, thợ săn này,
Ðói khát, bạn cam chịu tháng ngày,
Bạn muốn gì, nay ta mắc bẫy,
Vì sao muốn thả để ta bay?

2078. Pāṇātipātā virato nusajja abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ, yaṃ maṃ tuvaṃ pāsavasūpanītaṃ pamuttave icchāsi bandhanasmā.

2078. Khi ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta. Phải chăng hôm nay ông kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ông ban phát cho tất cả chúng sanh?”

4. Hiển nhiên mọi vật được an lành,
Bạn nguyện từ đây bỏ sát sinh,
Mắc bẫy thân ta, tuy thế bạn
Muốn ta được thả để bay nhanh!

2079. Pāṇātipātā viratassa brūhi abhayañca yo sabbabhūtesu deti, pucchāmi taṃ morarājetamatthaṃ ito cuto kiṃ labhate sukhaṃ so.

2079. “Xin Công hãy nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Này vua của loài công, tôi hỏi Công ý nghĩa này: Sau khi từ đây chết đi, người ấy đạt được sự an vui gì?

5. Khi người từ bỏ sát quần sinh,
Nhờ nó, muôn loài thoát hãi kinh,
Phước đức nào đời sau sẽ đến,
Việc này, Khổng tước đáp cho mình.

2080. Pāṇātipātā viratassa brūmi abhayañca yo sabbabhūtesu deti, diṭṭheva dhamme labhate pasaṃsaṃ saggañca so yāti sarīrabhedā.

2080. “Ta nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự khen ngợi, và người ấy đi đến cõi trời khi cơ thể rã tan.”

6. Nhờ nó muôn loài thoát hãi kinh
Khi người thề chẳng sát quần sinh,
Ðời này nó được nhiều ca ngợi,
Thiên giới, đời sau hưởng phước lành.

2081. Na santi devā iccāhu eke idheva jīvo vibhavaṃ upeti, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattañca vadanti dānaṃ, tesaṃ vaco arahataṃ saddahāno tasmā ahaṃ sakuṇe bādhayāmi.

2081. “Một số vị (Sa-môn và Bà-la-môn) đã nói rằng: ‘Chư Thiên không hiện hữu. Cuộc sống ở tại nơi này đi đến sự tiêu tan. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy cũng đi đến sự tiêu tan.’ Họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si. Có sự tin tưởng vào lời nói của các bậc A-la-hán ấy, vì thế, tôi đánh bắt các con chim.”

7. Nhiều người nói chẳng có Thiên thần,
Cực lạc, đời này có thể mang;
Sinh quả dữ lành ngay hiện tại;
Vì nhiều bậc Thánh đã cho rằng:
Thi ân là việc đầy ngu xuẩn,
Vì thế tôi thường đánh bẫy săn
Chim thú, giờ đây tôi muốn hỏi:
Lời kia xứng đáng để tin chăng?

2082. Cando ca suriyo ca ubho sudassanā gacchanti obhāsayamantalikkhe, imassa lokassa parassa vā te kathannu te āhu manussaloke.

2082. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới này hay thế giới khác? Vậy ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng như thế nào?”

8. Ðôi vầng nhật nguyệt rõ ràng ràng
Ði khắp trời cao tỏa sáng quang;
Người gọi là gì nơi hạ giới,
Thuộc về cõi khác hoặc trần gian?

2083. Cando ca suriyo ca ubho sudassanā gacchanti obhāsayamantalikkhe, parassa lokassa na te imassa evāti te āhu manussaloke.

2083. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới khác, không thuộc về thế giới này. Ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng là: ‘Chư Thiên.’”

9. Rõ ràng nhật nguyệt thấy đôi vầng
Ði khắp trời cao, tỏa ánh quang;
Chúng chẳng thuộc về nơi hạ giới,
Mà về cõi khác: miệng người trần.

2084. Ettheva te nihatā hīnavādā ahetukā ye na vadanti kammaṃ, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattaṃ ye ca vadanti dānaṃ.

2084. “Ngay ở nơi này, những vị (Sa-môn và Bà-la-môn) ấy là có học thuyết hạ liệt, bị đánh giá thấp. Những kẻ chủ trương vô nhân không nói về nghiệp. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy là không có.’ Và họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si.”

10. Vậy chúng đều sai lạc cả bầy,
Những người gian dối nói như vầy!
Chẳng vì duyên cớ gì đi nữa
Lại bảo chỉ riêng thế giới này
Mang nghiệp quả lành hay quả dữ,
Còn xem bố thí việc ngu thay!

2085. Addhā hi saccaṃ vacanaṃ tavetaṃ kathaṃ hi dānaṃ aphalaṃ vadeyya, tathā phalaṃ sukatadukkatānaṃ dattupaññattañca kathaṃ bhaveyya.

2085. “Quả đúng vậy, lời nói ấy của ngài là sự thật. Bởi vì, làm sao có thể nói bố thí là không có quả báo? Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy (làm sao lại không có). Và tại sao sự bố thí lại có thể là trạng thái trí tuệ của người ngu si?

11. Ðiều này ngài nói quả là chân,
Sao có người kia lại bảo rằng:
"Bố thí không mang về kết quả?
Rằng đây, ngay ở cõi phàm trần.
Người ta gặt quả lành hay dữ,
Bố thí là công việc độn đần?"

2086. Kathaṃ karo kintikaro kimācaraṃ kiṃ sevamāno kena tapoguṇena, kkhāhi me morarājetamatthaṃ yathā ahaṃ no nirayaṃ pateyyaṃ.

2086. Làm như thế nào? Làm việc gì? Thực hành điều gì? Trong khi thân cận cái gì? Với loại khắc khổ gì? Này vua của loài công, xin Công hãy giải thích cho tôi để tôi không phải đọa vào địa ngục.”

12. Cách nào nên sống, phải làm gì?
Thánh đạo là đâu, phải bước đi?
Công chúa, xin ngài cho lão biết,
Pháp môn khổ hạnh phải hành trì,
Cầu mong lão được chim Công chúa
Cứu khỏi chim vào địa ngục kia!

2087. Ye keci atthi samaṇā pathavyā kāsāvavatthā anagāriyā te, pātova piṇḍāya caranti kāle vikālacariyā viratā hi santo.

2087. “Có những vị Sa- môn ở trái đất, các vị ấy mặc vải màu ca-sa, sống không nhà, đi khất thực đúng thời vào lúc sáng sớm, bởi vì các bậc an tịnh kiêng cử việc khất thực phi thời.

13. Người truyền khổ hạnh ở trần gian,
Chằng ở nhà đâu, đắp áo vàng,
Sáng sớm đi ra đường khất thực,
Không đi chiều tối: chính hiền nhân.

2088. Te tattha kālenupasaṅkamitvā pucchasi yante manaso piyaṃ siyā, te te pavakkhanti yathā pajānaṃ imassa lokassa parassa catthaṃ.

2088. Ông hãy đi đến gặp các vị ấy ở nơi ấy vào lúc hợp thời và hãy hỏi điều ông yêu thích ở trong tâm. Các vị ấy sẽ giải thích các điều ấy và ý nghĩa của thế gian này và thế gian khác theo sự hiểu biết.”

14. Ðúng thời thăm các thiện nhân vầy,
Bạn sẽ vui lòng, dẫu hỏi ai
Giải vấn đề, vì chư vị biết
Cõi trên kia với cõi đời náy.

2089. Tacaṃva jiṇṇaṃ urago purāṇaṃ paṇḍūpalāsaṃ harito dumova, esappahīno mama luddabhāvo pajahāmahaṃ luddakabhāvamajja.

2089. “Tựa như con rắn (lột bỏ) lớp da cũ đã bị già cỗi, ví như cây còn xanh (giũ bỏ) chiếc lá úa vàng, cuộc đời thợ săn này của tôi đã được dứt bỏ. Hôm nay, tôi dứt bỏ cuộc đời thợ săn.

15. Như rắn lột quăng lớp vỏ tàn,
Lá khô cây trút lúc xanh dần,
Hôm nay ta bỏ nghề săn bắn,
Mãi mãi xa lìa nghiệp thợ săn.

2090. Ye cāpi me sakuṇā atthi baddhā satāni nekāni nivesanasmiṃ, tesaṃpahaṃ jīvitaṃ ajja dammi mokkhañca te patto sakaṃ niketaṃ.

2090. Và luôn cả những con chim đã bị tôi giam giữ là có đến hàng trăm ở chỗ trú ngụ của tôi. Hôm nay, tôi ban tặng cuộc sống cho chúng, và tôi đã đạt được sự giải thoát, còn chúng bay về chỗ ở của mình.”

16. Tất cả chim nào ta đã giam
Trong nhà, ta có đến hàng trăm,
Nay ta trả cuộc đời cho chúng
Về tổ, bầy chim được thoát nạn.

2091. Luddo carī pāsahattho araññe bādhetuṃ morādhipatiṃ yasassiṃ, bandhitva morādhipatiṃ yasassiṃ dukkhā pamucci yathāhaṃ pamutto ”ti.

8. Mahāmorajātakaṃ.

2091. “Người thợ săn đã đi lại ở trong khu rừng, tay cầm bẫy thú để bắt con chim công chúa có danh tiếng. Sau khi bắt được con chim công chúa có danh tiếng, người ấy đã được thoát khỏi khổ, giống như Ta đã được giải thoát.”

8. Bổn sanh Con Chim Công Vĩ Đại. [491]

17. Thợ săn xuyên suốt khắp rừng cây
Tìm kiếm chúa Công, bẫy dưới tay,
Ðã giải thoát đau cho Khổng tước
Khi vừa bị bắt, giống Ta đây.

2092. Yadesamānā vicarimha pabbatāni vanāni ca, anvesaṃ vicariṃ ñātī teme adhigatā mayā.

2092. “Chúng tôi đã đi lang thang tìm kiếm ở các ngọn núi và các khu rừng, tôi đã đi lang thang tìm kiếm các thân quyến, những vị này đây đã đi đến với tôi.

1. Lang thang tìm kiếm khắp xa gần
Ðồi núi chung quanh, các khóm rừng,
Thơ thẩn ta đi tìm quyến thuộc,
Kìa! Ta tìm thấy đám thân bằng!

2093. Bahuṃ idaṃ mūlaphalaṃ bhakkho cāyaṃ anappako, rammā cimā giri nadiyo phāsu vāso bhavissati.

2093. Rễ và trái cây này có nhiều, thức ăn này không phải là ít, ngọn núi và các con sông này là đáng yêu; việc cư ngụ sẽ là thoải mái.

2. Ðây, củ quả rừng phong phú sao
Với kho thực phẩm thật đồi dào!
Núi đồi khe suối xinh tươi quá,
Sống ở đây đời đẹp biết bao!

2094. Idhevāhaṃ vasissāmi saha sabbehi ñātihi, appossukko nirāsaṅkī asoko akutobhayo.

2094. Tôi sẽ trú ngụ ở tại nơi này với tất cả thân quyến. Tôi không năng nỗ, không ngờ vực, không sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”

3. Ta sống đây toàn quyến thuộc thân,
Hưởng thư nhàn, chẳng phải băn khoăn,
Cũng không lo lắng và kinh hãi,
Dù chuyện gì do phía địch quân.

2095. Aññaṃ hi lenaṃ pariyesa sattu no idha vijjati, so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.

2095. “Bạn nên tìm kiếm chỗ trú khác đi. Kẻ thù của chúng ta có mặt ở nơi này. Này heo Taccha, gã ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”

4. Cừu địch là đây! Ở chốn nào,
Xin tìm đường lối ẩn thân vào,
Nó thường giết hại, này Thợ mộc,
Lợn đẹp nhất đàn, loại tối cao!

2096. Ko namhākaṃ idha sattu ko ñātī susamāgate, appadhaṃse padhaṃseti tamme akkhātha pucchitā.

2096. “Vậy ai là kẻ thù của chúng ta ở nơi này? Kẻ nào quấy nhiễu các thân quyến đã khéo tụ tập lại, còn chưa bị quấy nhiễu? Được hỏi, xin các vị hãy giải thích điều ấy cho tôi.”

5. Kẻ thù các bạn ấy đâu đây?
Nói thật cho ta, hạnh ngộ thay!
Kẻ giết họ hàng, ai đó vậy?
Dù là chưa giết trọn luôn bầy.

2097. Uddhaggarājī migarājā balī dāṭhāvudho migo, so taccha sūkare hanti idhāgantvā varaṃ varaṃ.

2097. “Là con thú có các đường sọc đứng ở thân, chúa của loài thú, có sức mạnh, có răng nanh là vũ khí. Này heo Taccha, kẻ ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”

6. Ðó chính là vua của thú rừng!
Với răng để cắn, sọc đen vằn,
Ấy là mãnh thú oai hùng quá,
Thường giết lợn uu tú nhất đàn!

2098. Na no dāṭhā na vijjanti balaṃ kāye samūhataṃ, sabbe samaggā hutvāna vasaṃ kāhāma ekakaṃ.

2098. “Không phải các răng nanh của chúng ta không có, không phải sức mạnh của chúng ta ở cơ thể bị tiêu hoại. Tất cả chúng ta, sau khi hợp nhất lại, sẽ tạo thành một sức mạnh duy nhất.

7. Thân thể ta tàn hết lực chăng?
Thế sao ta lại chẳng nhe răng?
Nếu ta chung sức thì nhờ vậy
Ta sẽ thắng ngay chú Cọp vằn!

2099. Hadayaṅgamaṃ kaṇṇasukhaṃ vācaṃ bhāsasi tacchaka, yopi yuddhe palāyetha tampi pacchā hanāmase.

2099. “Này heo Taccha, ông nói lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai. Thậm chí kẻ nào trốn chạy ở chiến trận, sau này chúng ta sẽ giết chết kẻ ấy.”

8. Lời nói này nghe tuyệt diệu thay!
Tượng công, ta thích nói như vầy,
Ðừng cho chú lợn nào đi trốn,
Hoặc bị giết sau trận đấu này.

2100. Pāṇātipātā virato nu ajja abhayaṃ nu te sabbabhūtesu dinnaṃ, dāṭhā nu te miga viriyaṃ na santi yo saṅghapatto kapaṇova jhāyasi.

2100. “Phải chăng hôm nay ngươi kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ngươi ban phát cho tất cả chúng sanh? Này con thú, phải chăng các răng nanh của ngươi không có sự nỗ lực? Là kẻ đã đạt được bầy heo mà ngươi lại trầm tư như là kẻ ăn mày?”

9. Cọp thề bỏ giết mọi loài chăng?
Cọp đã cho muôn vật vạn toàn,
Chắc hẳn hàm răng không bén nữa,
Ðàn heo đã gặp, lại xin ăn?

2101. Na me dāṭhā na vijjanti balaṃ kāye samūhataṃ, ñātī ca disvāna samaṅgi ekato tasmā jhāyāmi vanamhi ekato.

2101. “Không phải các răng nanh của tôi không có, không phải sức mạnh của tôi ở cơ thể bị tiêu hoại. Nhưng sau khi nhìn thấy các thân quyến có sự chiếm cứ phía bên kia, vì thế, tôi trầm tư ở khu rừng, phía bên này.

10. Răng của ta không cắn được rồi,
Sức ta đà kiệt quệ mà thôi,
Cùng nhau, chúng đứng toàn huynh đệ,
Vì thế ta phiêu bạt lẻ loi.

2102. Imassudaṃ yanti disodisaṃ pure bhayadditā lenagavesino puthū, tedāni saṅgamma vasanti ekako yatthaṭṭhitā duppasahajja te mayā.

2102. Trước đây, những con heo này chạy tứ tán. Bị khốn khổ vì sợ hãi, chúng tìm kiếm nơi nương náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, sống thành một khối. Hôm nay, tôi khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.

11. Xưa, chúng ngược xuôi, bại tẩu nhanh,
Tìm hang tháo chạy, phách hồn kinh,
Nhưng nay chúng rống, vòng vây chặt,
địch, đấu tranh giáp mặt mình!

2103. Pariṇāyakasampannā sahitā ekavādino, te maṃ samaggā hiṃseyyuṃ tasmā tesaṃ na patthaye.

2103. Đã đạt được người lãnh đạo, đã kết hợp lại, chung một lập trường, có sự hợp nhất, chúng có thể hãm hại tôi; vì thế, đối với chúng, tôi không màng.”

12. Bây giờ chúng thỏa thuận đồng tâm,
Chúng đã bầu lên một tướng quân,
Chúng hại thân này khi hiệp lực,
Nên ta thấy chúng, cũng không cần!

2104. Ekova indo asure jināti ekova seno hanti dije pasayha, ekova vyaggho migasaṅghapatto varaṃ varaṃ hanti balaṃ hi tādisaṃ.

2104. “Chỉ một vị thần Inda chiến thắng các A-tu-la. Chỉ một chim điều hâu giết chết các con chim bằng võ lực. Chỉ một con cọp đạt được bầy thú rồi giết chết con mập nhất, ngon nhất, bởi vì sức mạnh của nó là như thế ấy.”

13. Diều hâu đơn độc giết đàn chim,
Chiến thắng La thần bởi Ðế thiên,
Khi mãnh hổ nhìn bầy dã thú,
Lựa con đẹp nhất, giết êm liền!

2105. Na heva indo na seno napi vyaggho migādhipo, samagge sahite ñātī vyagghe ca kurute vase.

2105. “Tuy nhiên, không phải vị thần Inda, không phải chim điều hâu, cũng không phải con cọp chúa tể loài thú, mà là các thân quyến, khi có sự hợp nhất, khi đã kết hợp lại, có thể tạo ra quyền lực đối với con cọp.”

14. Chẳng diều, chẳng hổ, chúa sơn lâm,
Thiên chủ, làm sao đủ lực thần
Khống chế cả bầy heo đánh Hổ,
Họ hàng hiệp lực để tranh hùng!

2106. Kumbhilakā sakuṇikā saṅghino gaṇacārino, sammodamānā ekajjhaṃ uppatanti ḍayanti ca.

2106. “Những con chim nhỏ kumbhilaka sống theo bầy, di chuyển theo nhóm, vui vẻ cùng nhau nhảy nhót và bay lượn.

15. Con chim bé bỏng phủ đầy lông,
Bay nhảy từng đàn lũ thật đông,
Tụ tập trên cao thành đám lớn,
Cùng nhau lướt nhẹ khoảng trời không.

2107. Tesañca ḍayamānānaṃ ekettha apavattati, tañca seno nitāḷeti veyyagghiyeva sā gati.

2107. Và trong khi chúng đang bay lượn, một con nào trong số đó tách khỏi bầy, chim diều hâu chộp lấy con chim ấy; đường lối ấy phù hợp với cọp.”

16. Một mình đáp xuống, chú diều hâu,
Trong lúc cả bầy chúng giỡn nhau,
Tàn sát chúng ngay như ý muốn,
Ðó là cách Hổ phải theo mau!

2108. Ussāhito jaṭilena luddenāmisacakkhunā, dāṭhī dāṭhīsu pakkhandi maññamāno yathā pure.

2108. “Được khích lệ bởi gã đạo sĩ bện tóc hung bạo, quan tâm vật chất, con thú có răng nanh đã nhảy bổ vào những con thú có răng nanh, nghĩ rằng giống như trước đây.”

17. Với con mắt ác độc thèm ăn,
Cọp tưởng lời này quả thật chân,
Can đảm mồm nhe răng nhọn hoắc,
Nhảy vào đám lợn cũng đầy răng!

2109. Sādhu sambahulā ñātī api rukkhā araññajā, sūkarehi samaggehi vyaggho ekāyane hato.

2109. “Thật là tốt đẹp có nhiều thân quyến, luôn cả các cây cối mọc trong rừng! Con cọp đã bị giết chết ở cái hố bởi những con heo rừng có sự hợp nhất.”

18. Bạn bè hiệp lực tựa cây rừng
Ðó thật là quang cảnh đáng mừng,
Bầy lợn hợp quần, làm nhiệm vụ
Giết ngay Cọp chúa trọn thành công.

2110. Brāhmaṇañceva vyagghañca ubho hantvāna sūkarā, ānandino pamuditā mahānādañca nādisuṃ.

2110. “Sau khi giết chết cả hai là người Bà-la-môn và con cọp, các con heo rừng trở nên hoan hỷ, vui mừng, và chúng đã rống lên tiếng rống lớn. 19. Bầy lợn thế là đã diệt tan
Bà-la-môn với Cọp đen vằn,
Rồi gầm thét, chúng la vang dội
Trong nỗi lòng vui sướng ngập tràn.

2111. Te su udumbaramūlasmiṃ sūkarā susamāgatā, tacchakaṃ abhisiñciṃsu tvaṃ no rājāsi issaro ”ti.

9. Tacchasūkarajātaka.

2111. Rồi ở nơi gốc cây sung, các con heo rừng ấy đã làm lễ rưới nước đăng quang cho con heo rừng Taccha: ‘Ngài là đức vua, là chúa tể của chúng tôi.’”

9. Bổn sanh Heo Rừng Taccha. [492]

20. Bầy heo ở dưới gốc sung rừng
Ðổ nước thánh đầy để tấn phong
Chú Lợn rừng con người Thợ mộc,
Ðồng hô: "Chúa tể của thần dân!"

2112. Vāṇijā samitiṃ katvā nānāraṭṭhato āgatā, dhanāhārā pakkamiṃsu ekaṃ katvāna gāmaṇiṃ.

2112. “Các thương buôn đi đến từ nhiều quốc độ khác nhau, sau khi lập thành đoàn và bầu lên một người thủ lãnh, họ đã khởi hành mang theo tài sản và lương thực.

1. Từ nhiều quốc độ, các thương nhân
Ðến họp cùng nhau cả một đoàn,
Bầu chọn trưởng đoàn và thẳng tiến
Lên đường tìm kiếm một kho tàng.

2113. Te taṃ kantāramāgamma appabhakkhaṃ anodakaṃ, mahānigrodhamaddakkhuṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ.

2113. Sau khi đi đến khu rừng hoang vu ấy, bị thiếu thức ăn, không còn nước, họ đã nhìn thấy cây đa to lớn, có bóng mát, làm thích ý.

2. Ðoàn lữ hành kia thiếu thức ăn
Ðến rừng khô cháy nắng oi nồng,
Chợt nhìn thấy gốc đa hùng vĩ,
Với bóng cây che mát dịu lòng.

2114. Te ca tattha nisīditvā tassa rukkhassa chādiyā, vāṇijā samacintesu bālā mohena pārutā.

2114. Và họ đã ngồi xuống tại đó, ở bóng mát của cây đa ấy. Các thương buôn là những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ rằng:

3. Thế rồi dưới tán là cây che,
Cả bọn thương nhân thảy dựa kề,
Lý luận như vầy vì ám độn,
Nghèo nàn trí tuệ, hóa u mê:

2115. Addāyate ayaṃ rukkho api vāri ca sandati, iṅghassa purimaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.

2115. ‘Cây này bị ẩm ướt, và cũng có nước chảy. Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía đông của cây này.’

4. "Cây này đầy ẩm ướt bên trong
Từ đó hình như nước có dòng,
Ta hãy chặt từ cây một nhánh,
Cành nào đã mọc hướng về Ðông".

2116. Sā ca chinnāva pagghari acchaṃ vāriṃ anāvilaṃ, te tattha nahātvā ca pivitvā ca yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2116. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nước trong sạch, không bị vẩn đục. Các thương buôn ấy, tại đó, đã tắm rửa, đã uống nước cho đến khi đã thỏa ước muốn.

5. Cành kia được chặt, nước tuôn dòng,
Từng giọt tinh nguyên, thật sáng trong,
Cả bọn thương nhân cùng tắm rửa,
Uống cho đến lúc thỏa thuê lòng.

2117. Dutiyaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅghassa dakkhiṇaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā.

2117. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ nhì rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía nam của cây này.’

6. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn
Vì sự ngu si đã cản ngăn,
Chúng bảo: "Phía Nam còn một nhánh,
Chúng ta hãy đến cắt nhanh chân".

2118. Sā ca chinnāva pagghari sālimaṃsodanaṃ bahuṃ, appodavaṇṇe kummāse siṅgiṃ bidalasūpiyo.

2118. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều lúa sāli, thịt, cơm, cháo chua kiểu ít nước, mứt gừng, các loại xúp đậu.

7. Cành này vừa chặt xuống liền mang
Lúa gạo, thức ăn cứ chảy tràn,
Cháo đặc, nghệ gừng, cùng xúp đậu
Và nhiều thức ăn khác thật vô vàn.

2119. Te tattha bhutvā khāditvā yāvaticchiṃsu vāṇijā, tatiyaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā.

2119. Các thương buôn ấy, tại đó, đã ăn, đã nhai cho đến khi đã thỏa ước muốn. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ ba rằng:

8. Bọn thương nhân uống uống ăn ăn,
Chúng nhét vào đầy bụng thật căng,
Rồi bảo với lòng đầy ám độn
Và vì trí tuệ quá nghèo nàn:

2120. Iṅghassa pacchimaṃ sākhaṃ mayaṃ chindāma vāṇijā, sā ca chinnāva paggari nāriyo samalaṅkatā.

2120. ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía tây của cây này.’ Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra những nữ nhân đã được trang điểm.

9. "Mau lên các bạn phú thương này,
Ta hãy cắt cành lá phía Tây",
Mỹ nữ cả bầy ùa tứ phía,
Xiêm y lộng lẫy diễm kiều thay!

2121. Vicitra vatthābharaṇā āmuttamaṇikuṇḍalā, apisu vāṇijā ekā nāriyo paṇṇavīsati.

2121. Các nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni. Mỗi thương buôn được một nữ nhân, và hai mươi lăm nữ nhân (thuộc về người thủ lãnh).

10. Kìa! Xiêm y có đủ muôn màu,
Lủng lẳng vòng vàng với bảo châu,
Trong số cả trăm người mỗi một,
Mỗi chàng chiếm một gái xinh sao!

2122. Samantā parikariṃsu tassa rukkhassa chādiyā, te tāhi paricāresuṃ yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2122. Họ đã quây quần xung quanh, ở bóng râm của cây ấy. Các thương buôn ấy đã tiêu khiển với các nàng ấy cho đến khi đã thỏa ước muốn.

11. Cùng đứng bên nhau cả bọn này
Quây quần dưới bóng mát tàn cây,
Ðám thương nhân thảy đều vào giữa,
Ðùa giỡn bày trò thích thú thay!

2123. Catutthaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅghassa uttaraṃ sākhaṃ chindāma vāṇijā.

2123. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ tư rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía bắc của cây này.’

12. Lại vì trí tuệ chúng nghèo nàn,
Vì sự ngu si đã cản ngăn
Chúng bảo: "Bắc phương còn một nhánh
Chúng ta hãy chặt xuống lìa thân".

2124. Sā ca chinnāva paggari muttā veḷuriye bahū, rajataṃ jātarūpañca kuttiyo paṭiyāni ca.

2124. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều ngọc trai, ngọc bích, bạc, và vàng, các thảm lót và các tấm trải bằng sợi len.

13. Khi cành hướng Bắc chặt vừa xong,
Vàng bỗng tuôn ra cả một dòng,
Bạc chảy đầy tay và thảm quý,
Bào ngọc, trân châu nói chẳng cùng.

2125. Kāsikāni ca vatthāni uddiyāne ca kambale, te tattha bhāre bandhitvā yāvaticchiṃsu vāṇijā.

2125. Các thương buôn ấy, tại đó, đã buộc các tấm vải xứ Kāsi và các tấm mền xứ Uddiya thành các kiện hàng cho đến khi đã thỏa ước muốn.

14. Trang phục Ba-la-nại mượt mà,
Chăn màn dày mỏng thực xa hoa,
Thương nhân lúc ấy liền hành sự
Cuộn hết thành bao lớp lụa là.

2126. Pañcamaṃ samacintesuṃ bālā mohena pārutā, iṅgassa mūlaṃ chindāma api bhiyyo labhāmase.

2126. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ năm rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt gốc của cây này. Thậm chí chúng ta có thể nhận được nhiều hơn.’

15. Cũng vì ngu muội với si mê,
Chúng lại bảo nhau, như trước kia:
"Ta hãy chặt cây từ gốc rễ,
Chắc càng thâu của cải tràn trề".

2127. Athuṭṭhahi satthavāho yācamāno katañjalī, nigrodhe kiṃ aparajjhatha vāṇijā bhaddamatthu te.

2127. Khi ấy, vị trưởng đoàn đã đứng dậy, chắp tay yêu cầu rằng: ‘Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.

16. Kìa vội đứng lên, vị trưởng đoàn
Cúi đầu cung kính, lại thưa rằng:
"Cây đa làm hại gì chư vị,
Mong ước trời cho hưởng phước phần!

2128. Vāridā purimā sākhā annapānaṃ ca dakkhiṇā, nāridā pacchimā sākhā sabbakāme ca uttarā nigrodhe kiṃ aparajjhatha4 vāṇijā bhaddamatthu te.

2128. Cành cây phía đông cho nước, phía nam cho cơm nước, cành phía tây cho phụ nữ, và phía bắc cho tất cả các dục. Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.’

17. Cành hướng Ðông cho nước chảy tràn,
Cành Nam cho thực phẩm ta ăn
Cành Tây cho các nàng kiều nữ,
Cành Bắc cho tơ lụa bạc vàng,
Cây đó hại gì cho quý vị,
Cầu chư vị hưởng phước trời ban!

2129. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.

2129. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ hãm hại bạn bè là kẻ ác xấu.’

18. Cây này cho bóng mát an nhàn,
Nằm nghỉ, ngồi chơi, những lúc cần,
Không được phá tan cành đổ hết,
Hành vi bừa bãi thực hung tàn!"

2130. Te ca tassa anāditvā ekassa vacanaṃ bahū, nisitāhi kuṭhārīhi mūlato taṃ upakkamuṃ.

2130. Và chúng với số đông đã không nghe theo lời nói của vị ấy có một mình. Chúng đã khởi sự chặt cây đa ấy ở gốc bằng những cái rìu sắc bén.

19. Song ngài chỉ một, chúng từng bầy,
Tiếng nói ngài sao cản chúng đây:
Chúng nện những dao rìu sắc bén
Vào phần gốc để đốn thân cây.

2131. Tato nāgā nikkhamiṃsu sannaddhā paṇṇavīsati, dhanuggahānaṃ tisatā chasahassā ca vammino.

2131. Sau đó, các con rồng đã tiến ra, hai mươi lăm con được vũ trang, ba trăm con cầm cung, và sáu ngàn con cầm tấm chắn.

20. Rắn mặc giáp bào đủ bách quân,
Ðứng lên cùng giữ vững sa trường,
Ba trăm xạ thủ, sáu ngàn nữa
Trang bị mộc khiên với kiếm thần.

2132. Ete hanatha bandhatha mā vo muñcittha jīvitaṃ, ṭhapetvā satthavāhaṃ sabbe bhasmīkarotha te.

2132. ‘Các ngươi hãy giết chết, hãy trói những kẻ này lại. Các ngươi chớ tha cho kẻ nào sống, ngoại trừ vị trưởng đoàn. Các người hãy làm cho tất cả bọn chúng biến thành tro.’

21. Bắn hạ bọn kia, trói chặt mau,
Chẳng tha mạng sống một tên nào,
Ðốt thành tro bụi trừ đoàn trưởng,
Như thế hoàn thành việc đã giao.

2133. Tasmā hi paṇḍito poso sampassaṃ atthamattano, lobhassa na vasaṃ gacche haneyya disataṃ manaṃ.

2133. Chính vì thế, con người sáng suốt, trong khi nhìn thấy lợi ích cho bản thân, không nên rơi vào quyền lực của tham, nên tiêu diệt ý nghĩ thù nghịch.

22. Vậy trí nhân nên thấy thiện hành,
Chẳng bao giờ để bản tâm thành
Tôi đòi nô lệ lòng tham dục,
Phá vỡ mục tiêu đối thủ mình.

2134. Etamādīnavaṃ ñatvā taṇhā dukkhassa sambhavaṃ, vītataṇho anādāno sato bhikkhu paribbaje ”ti.

10. Mahāvāijajātaka.

2134. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đã được xa lìa, không có nắm giữ, có niệm, nên sống hạnh du sĩ.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada