25. Nữ nhi hiền đức, hưởng hồng ân!
Cứ sống giữ gìn hạnh chánh chân,
Nay lúc ta cần về thượng giới,
Vui mừng vì diện kiến tôn nhan.
2059. Appossukkodāni tuvaṃ kapota vihaṅgama na tava bhojanattho, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko kapoto.
2059. “Này chim bồ câu, giờ đây ngươi ít ham muốn. Này chim, phải chăng đối với ngươi không có nhu cầu về vật thực? Này bạn, vì sao chim bồ câu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
1. Ta chắc giờ chim thiểu dục rồi,
Nay Bồ câu chẳng muốn tìm mồi,
Tại sao đành chịu nằm thèm khát,
Sao nguyện theo Trai giới hỡi ngài?
2060. Ahaṃ pure giddhigato kapotiyā asmiṃ padesasmiṃ ubho ramāma, athaggahī sākuṇiko kapotiṃ akāmako tāya vinā ahosiṃ.
2060. “Trước đây, tôi đã đi đến sự say đắm với chim bồ câu mái. Cả hai chúng tôi vui thú ở khu vực này. Rồi con diều hâu đã bắt đi chim bồ câu mái. Không có chim mái, tôi đã trở thành kẻ không còn ham muốn.
2. Xin đầy tham đắm, cặp uyên ương
Ðùa giỡn quanh đây tựa phượng loan,
Ưng ác chụp nàng, bay biến mất,
Chia lìa duyên kiếp đã tan hoang!
2061. Nānābhavā vippayogena tassā manomayaṃ vedanaṃ vediyāmi, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi rāgo mamaṃ mā punarāgamāsi.
2061. Do trạng thái xa cách bởi sự tách rời của chim mái, tôi cảm nhận rằng cảm thọ được tạo thành bởi ý. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự luyến ái chớ quay lại với tôi.”
3. Con biết niềm mất mát phủ phàng,
Bạo tàn, khốc liệt biết bao đường,
Con nhìn mọi vật, lòng đau đớn;
Vì thế con tìm đến náu nương
Nhờ giới hạnh, thề nguyền ái dục
Chẳng bao giờ trở lại lòng con.
2062. Anujjugāmi uraga dvijivha dāṭhāvudho ghoravisosi sappa, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko nu dīgho.
2062. “Này con vật có sự di chuyển ngoằn ngoèo, này con vật di chuyển bằng ngực, này con vật có hai lưỡi, này rắn, ngươi có răng nanh là vũ khí, có nọc độc dữ dội. Này bạn, vì sao rắn lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
4. Vật ở cây, bò sát cuộn mình,
Ðầy răng nhọn hoắc, nọc truyền nhanh,
Rắn sao muốn giữ truyền Trai giới,
Sao đói khát cam chịu cố tình?
2063. Usabho ahū balavā gāmikassa calakkakū vaṇṇabalūpapanno, maṃ akkami taṃ kupito aḍaṃsiṃ dukkhābhituṇṇo maraṇaṃ upāgami.
2063. “Con bò mộng của chủ làng có sức mạnh, có cục bướu rung rinh, đã đạt được tướng mạo và sức vóc. Nó đã đạp lên tôi. Bị tức giận, tôi đã cắn nó. Bị giày vò bởi nỗi đau đớn, nó đã đi đến sự chết.
5. Con bò thôn trưởng thật oai hùng,
Dáng đẹp, lưng gù cứ chuyển rung,
Bò gầm lên, con hờn cắn nó,
Ðau đớn, bò chết ngã lăn đùng!
2064. Tato janā nikkhamitvāna gāmā kanditvā roditva apakkamiṃsu, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi kodho mamaṃ mā punarāgamāsi.
2064. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng, than van, khóc lóc, rồi đã bỏ đi. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự giận dữ chớ quay lại với tôi.”
6. Dân làng mọi kẻ đổ ra đường,
Than khóc vì trông thấy tận tường,
Vì vậy con nương nhờ giới hạnh,
Thề sân hận chẳng trở về con.
2065. Matāna maṃsāni bahū susāne manuññarūpaṃ tava bhojanetaṃ, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko sigālo.
2065. “Có nhiều thịt của những xác chết ở bãi tha ma. Thức ăn này có vẻ hợp ý đối với ngươi. Này bạn, vì sao chó rừng lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
7. Xác chết, thức ăn quý sẵn đầy,
Nằm trong nghĩa địa rã tan thây,
Chó rừng, sao chịu đành thèm khát,
Sao lại thề tuân giới hạnh này?
2066. Pavissa kucchiṃ mahato gajassa kuṇape rato hatthamaṃse pagiddho, uṇho ca vāto tikhiṇā ca rasmiyo te sosayuṃ tassa karīsamaggaṃ.
2066. “Vui thích với xác chết, bị khởi tham đắm với thịt voi, tôi đã đi vào bụng của một con voi to lớn. Sức nóng, gió, và ánh nắng gay gắt, chúng đã làm khô héo hậu môn của con voi.
8. Tìm được voi và thích thịt ngon,
Con vào bụng nó ở lỳ luôn
Song nhiều gió mạnh, trời gay gắt
Làm héo khô khe hở chó chun!
2067. Kiso ca paṇḍū ca ahaṃ bhadante na me ahū nikkhamanāya maggo, mahā ca megho sahasā pavassi so temayī tassa karīsamaggaṃ.
2067. Thưa bậc đáng kính, tôi trở nên gầy ốm và vàng vọt. Con đường trở ra của tôi đã không còn. Và có đám mây lớn đã đổ mưa dữ dội; nó đã làm ẩm ướt hậu môn của con voi.
9. Tôn giả, con vàng võ, ốm gầy,
Vì không lối thoát, phải nằm đây,
Rồi cơn bão nọ bùng vang dội
Làm ướt, mềm đi ngã hậu này.
2068. Tato ahaṃ nikkhamissaṃ bhadante cando yathā rāhumukhā pamutto, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi lobho mamaṃ mā punarāgamāsi.
2068. Thưa bậc đáng kính, do đó, tôi đã đi ra khỏi, giống như mặt trăng đã được thoát khỏi miệng của Rāhu (nguyệt thực). Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự tham lam chớ quay lại với tôi.”
10. Ðể thoát ra, con chẳng chậm đâu
Như trăng thoát khỏi vuốt la-hầu,
Nên con chạy đến nhờ Trai giới,
Con nguyện tham tâm tránh chạy mau.
2069. Vammika thūpasmiṃ kipillikāni nippothayanto tuvaṃ pure carāsi, khudaṃ pipāsaṃ adhivāsayanto kasmā bhavaṃ posathiko nu accho.
2069. “Trước đây, ngươi sống trong khi ăn các con mối ở gò mối. Này bạn, vì sao gấu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
11. Ngài có thói xưa vẫn kiếm mồi
Nằm trên tổ kiến, Gấu Ông ơi,
Sao nay lại chịu nằm thèm khát,
Sao muốn thề nguyền Trai giới thôi?
2070. Sakaṃ niketaṃ atihīlayāno atricchatāya malataṃ agañchiṃ, tato janā nikkhamitvāna gāmā kodaṇḍakena paripothayiṃsu maṃ.
2070. “Trong khi nguyền rủa thậm tệ chỗ ở của mình, tôi đã đi đến Malatā vì cơn đói dữ dội. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng và đã đánh tôi tới tấp bằng gậy gộc, đùi cui.
12. Bỏ nhà vì quá đói trong lòng,
Con đến Mal-la, chạy vội vàng
Dân chúng trong làng đều đổ đến,
Dùng cung, gậy, chúng đánh hung tàn.
2071. So bhinnasīso ruhiramakkhitaṅgo paccāgamāsiṃ sakaṃ niketaṃ, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi atricchatā mā punarāgamāsi.
2071. Với đầu bị vỡ, với thân thể bị lem luốc máu me, tôi đã đi về lại chỗ ở của mình. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng cơn đói dữ dội chớ quay lại với tôi.”
13. Mình con vấy máu, vỡ tan đầu,
Con chạy về nơi trú ẩn mau,
Vì vậy con nguyền theo giới hạnh,
Dục tham chẳng kéo đến ngày sau.
2072. Yaṃ no apucchittha tuvaṃ bhadante sabbeva vyākarimha yathāpajānaṃ, mayampi pucchāma tavaṃ bhadante kasmā bhavaṃ posathiko nu brahme.
2072. “Thưa bậc đáng kính, việc mà ngài đã hỏi chúng tôi, tất cả chúng tôi đã trả lời theo sự hiểu biết. Thưa bậc đáng kính, chúng tôi cũng xin hỏi ngài. Thưa vị Bà-la-môn, vì sao ngài lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
14. Ðiều ấy, ngài mong muốn giải bày,
Mọi điều con biết, đã thưa thầy,
Song nay đến lượt mình, xin hỏi:
Tôn giả sao theo hạnh nguyện này?
2073. Anūpalitto mama assamamhi paccekabuddho muhuttaṃ nisīdi, so maṃ avedi gatimāgatiñca nāmañca gottaṃ caraṇañca sabbaṃ.
2073. “Một vị Độc Giác Phật, bậc không bị ô nhiễm, đã ngồi chốc lát ở khu ẩn cư của ta. Vị ấy đã cho ta biết về nơi đi và nơi đến, danh tánh, dòng họ, và tất cả tánh hạnh (của ta trong tương lai).
15. Một vì Ðộc Giác Phật qua đây
Chốc lát trong am, đã giải bày
Mọi việc vãng lai, danh tiếng, hiệu,
Gia đình và đạo lộ sau này.
2074. Evampahaṃ naggahe tassa pāde a cāpi naṃ mānagatena pucchiṃ, tasmā ahaṃ posathaṃ pālayāmi māno mamaṃ mā punarāgamāsī ”ti.
7. Pañcuposathajātakaṃ.
2074. Dầu là như vậy, ta đã không sờ vào bàn chân của vị ấy, và ta cũng đã không hỏi ngài, bởi vì đã bị ngã mạn chế ngự. Vì thế, ta gìn giữ ngày trai giới, mong rằng ngã mạn chớ quay lại với ta.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada