24. Con Voi ngày trước chính Par-ley (4)
Con Khỉ là Ma-dhu-sét đây, (5)
Ðế Thích là Ka-lu (6) thuở ấy,
Chúng Tăng giờ hiểu Tiền thân này.---------------Chú thích: (1) Punna; (2) Khujjutarà; (3) Satàgira; (4) Pàrileyya; (5) Madhuvasettha; (6) Kàludàyi

2034. Mahesī rucino bhariyā ānītā paṭhamaṃ ahaṃ, dasavassasahassāni yaṃ maṃ surucimānayi.  

2034. “Thiếp là chánh hậu của đức vua Ruci, người vợ đã được cưới về đầu tiên; đức vua Suruci đã cưới thiếp về được mười ngàn năm.

1. Thiếp là chành hậu chúa Ru-ci,
Vương hậu đầu tiên chúa cưới về,
Với chúa Su-ru-ci vạn tuế,
Thiếp đã sống trọn đạo hiền thê.

2035. Sāhaṃ brāhmaṇa rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ, nābhijānāmi kāyena vācāya udacetasā, suruciṃ atimaññittho āvivā yadivā raho.  

2035. Thưa vị Bà-la-môn, thiếp đây không biết rõ đức vua, người chủ quản kinh thành Mithilā, xứ Videha. Thiếp đã không khi dễ đức vua Suruci bằng thân, bằng lời, hay bằng ý, công khai hay kín đáo.

2. Huy Hoàng chúa tể ở My-la,
Là chính kinh thành của quốc gia,
Thiếp chẳng hề xem thường thánh ý,
Chẳng chê ngài thấp kém, sai ngoa,
Dù sau lưng chúa, hay ngoài mặt,
Về khẩu, ý, thân, đủ cả ba.

2036. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2036. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

3. Thánh giả, điều này nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2037. Bhattumanāpassa pitā mātā cāpi suvāmino, te maṃ brāhme vinetāro yāva aṭṭhaṃsu jīvite.  

2037. Thưa vị Bà-la-môn, cha, mẹ, và luôn cả thầy của người chồng hợp ý, họ đã là những người hướng dẫn cho thiếp trong khi họ còn sống.

4. Phụ hoàng, mẫu hậu của vương quân,
Hai đấng sinh thành ngự trị dân,
Trong lúc các ngài còn tại thế,
Vẫn thường dạy thiếp Ðạo hiền nhân.

2038. Sāhaṃ ahiṃsāratinī kāmaso dhammacāriṇī, sakkaccaṃ te upaṭṭhāsiṃ rattindivamatanditā.  

2038. Thiếp đây có sự ưa thích việc không hãm hại, có sự thực hành thiện pháp một cách tự nguyện. Thiếp đã hầu hạ cha mẹ chồng một cách nghiêm chỉnh, đêm ngày không biếng nhác.

5. Thiếp ước không làm hại mạng ai,
Quyết lòng hành động chánh chân hoài,
Ân cần tận tụy hầu hai vị,
Không mệt mỏi cho dẫu tối ngày.

2039. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2039. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

6. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2040. Soḷasitthisahassāni sahabhariyāni brāhmaṇa, tāsu issā vā kodho vā nāhu mayhaṃ kudācanaṃ.  

2040. Thưa vị Bà-la-môn, có mười sáu ngàn vương phi. Thiếp đã không bao giờ có sự ganh tỵ hay giận dữ đối với các nàng ấy.

7. Thứ phi sau thiếp cứ tăng dần,
Mời sáu ngàn không thiếu một nàng,
Tuy thế, chẳng hề, thưa Thánh giả,
Xảy hờn ghen giữa đám hồng quân.

2041. Hitena tāsaṃ nandāmi na ca me kāci appiyā, attānaṃ vānukampāmi sadā sabbā sapattiyo.  

2041. Thiếp vui mừng với việc các nàng ấy có được điều tốt đẹp, và không nàng nào là không được thiếp yêu thương. Thiếp luôn luôn cảm thông với tất cả các cô vợ chung chồng tựa như với chính bản thân mình.

8. Thiếp mừng khi chúng được an lành,
Với mọi cung phi, thắm thiết tình,
Lòng thiếp nhân từ cùng tất cả,
Khác nào đối với bản thân mình.

2042. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.

2042. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

9. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2043. Dāse kammakare pesse ye caññe anujīvino, posemi sahadhammena sadā pamuditindriyā.  

2043. Đối với các nô bộc, các người làm công, các người hầu, và những người khác có cuộc sống phụ thuộc, thiếp chu cấp cho họ một cách hợp lý, luôn luôn có thần thái vui vẻ.

10. Nô tỳ, thị giả, mọi gia nhân,
Tất cả nơi đây ở hợp quần,
Thiếp đối ân cần, ban thực phẩm,
Tươi cười nét mặt tạo hân hoan.

2044. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2044. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

11. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2045. Samaṇe brāhmaṇe cāpi aññe vāpi vaṇibbake, tappemi annapānena sadā payatapāṇinī.

2045. Đối với các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, hoặc luôn cả những người nghèo khổ, thiếp làm cho họ toại ý với cơm ăn và nước uống, luôn luôn là người có bàn tay mở ra.

12. Các nhà ẩn sĩ, Bà-la-môn,
Hễ thấy người nào đến khẩn van,
Thiếp đãi uống ăn đều khắp cả,
Ðôi bàn tay rửa sạch hoàn toàn.

2046. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2046. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.

13. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cấu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2047. Cātuddasi paṇṇarasi yāva pakkhassa aṭṭhami, pāṭihāriyapakkhañca aṭṭhaṅgasusamāhitaṃ, uposathaṃ upavasāmi sadā sīlesu saṃvutā.  

2047. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, với cả ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng, thiếp hành trì ngày trai giới được tốt đẹp trọn vẹn tám điều, luôn luôn thu thúc trong các giới.

14. Vào ngày mống tám, nửa tuần trăng,
Mười bốn, mười lăm, các buổi rằm,
Thiếp vẫn chuyên tâm trì giới luật,
Bước theo Thánh đạo của hiền nhân.

2048. Etena saccavajjena putto uppajjataṃ ise, musā me bhaṇamānāya muddhā phalatu sattadhā.  

2048. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”

15. Thánh giả, điều này, nếu thật chân,
Cầu mong vương tử được ngài ban,
Còn khua môi thiếp toàn hư vọng,
Bảy mảnh đầu này phải vỡ tan.

2049. Sabbeva te dhammaguṇā rājaputti yasassini, saṃvijjanti tayi bhadde ye tvaṃ kittesi attani.  

2049. “Này nàng công chúa có danh tiếng, toàn bộ tất cả các đức hạnh mà nàng tán dương về bản thân, này người nữ hiền thục, các đức hạnh ấy được tìm thấy ở nàng.

16. Nương nương hỡi, Chánh hậu Huy Hoàng,
Công đức này cao trọng thập toàn
Ðều thấy trong nàng, này Chánh hậu,
Chính nàng ca ngợi đại danh nàng.

2050. Khattiyo jātisampanno abhijāto yasassimā, dhammarājā videhānaṃ putto uppajjate tavaṃ.  

2050. Một vị Sát-đế-lỵ thành tựu về dòng dõi, được sanh ra tốt đẹp, có danh tiếng, vị vua công chính của xứ sở Videha, sẽ là người con trai được sanh lên cho nàng.”

17. Một hoàng nam chính thống cao sang,
Muôn vẻ vinh quang, trí vẹn toàn,
Ðại đế Vi-đề-ha chánh trực,
Sắp ra đời đó chính con nàng.

2051. Rummi rajojalladharo aghe vehāsayaṃ ṭhito, manuññaṃ bhāsasi vācaṃ yaṃ mayhaṃ hadayaṅgamaṃ.  

2051. “Dơ bẩn, mang theo bụi bặm và cáu ghét, đứng ở không trung trên bầu trời, ngài nói lời nói làm thích ý, có sự chạm đến trái tim của thiếp.

18. Bụi bẩn, lấm lem tóc rối bồng,
Hình ngài lơ lửng ở trên không,
Nói bằng một giọng đầy thân ái,
Lám thiếp cảm rung tận cõi lòng.

2052. Devatānusi saggamhā isivāsi mahiddhiko, kovāsi tvaṃ anuppatto attānaṃ me pavedaya.

2052. Phải chăng ngài là vị Thiên nhân từ cõi Trời, hay là vị ẩn sĩ có đại thần lực? Ngài là ai mà đã ngự đến đây? Xin ngài hãy cho thiếp biết về bản thân ngài.”

19. Có phải ngài Thiên đế đại hùng,
Trên trời ngài ngự, hỡi hiền nhân?
Xin cho thiếp biết từ đâu đến,
Cho biết là ai đó giáng trần?

2053. Yaṃ devasaṅghā vandanti sudhammāyaṃ samāgatā, sohaṃ sakko sahassakkho āgatosmi tavantike.

2053. “Hội chúng chư Thiên hội tụ ở giảng đường Sudhammā đảnh lễ vị nào, thì vị ấy chính là ta, Thiên Chủ Sakkha, vị có ngàn mắt, ta đã đi đến gặp nàng.

20. "Thiên nhãn Sak-ka" nàng thấy đây,
Vì Thiên chúng vẫn gọi như vầy.
Những khi Thiên chúng đều đoàn tụ
Trong Thiện pháp đường mỹ diệu thay.

2054. Itthiyo jīvalokasmiṃ yā honti samacārinī, medhāvinī sīlavatī sassudevā patibbatā.

2054. Các người nữ ở thế gian của cuộc sống là những người sống yên tịnh, có trí tuệ, có giữ giới, kính mẹ chồng như Thiên thần, chung thủy.

21. Khi nữ nhân hiền đức vẹn toàn,
Tại đây được thấy giữa trần gian,
Chánh chân nội tướng đầy nhân ái
Với mẹ chồng, như phận sự nàng.

2055. Tādisāya sumedhāya sucikammāya nāriyā, devā dassanamāyanti mānusiyā amānusā.

2055. Với người nữ thông minh, có việc làm trong sạch như thế ấy, chư Thiên, hạng không phải là người, đi đến gặp nàng, thuộc hạng người.

22. Khi chư Thiên biết một hồng nhan,
Lòng trí cao minh, nghiệp thiện toàn,
Dù nữ nhi, mà từ thượng giới,
Thiên chúng đích thân đến với nàng.

2056. Tvañca bhadde suciṇṇena pubbe sucaritena ca, idha rājakule jātā sabbakāmasamiddhinī.

2056. Này người nữ hiền thục, với thiện hạnh đã khéo được thực hành trước đây, nàng đã được sanh vào gia tộc vua chúa ở nơi này, là người nữ có sự thành tựu mọi ước muốn.

23. Giữ đời đức hạnh, hỡi Nương nương,
Nhờ tích trữ toàn việc thiện lương,
Công chúa xuất thân, đà đạt được
Trọn niềm hạnh phúc vẫn cầu mong.

2057. Ayañca te rājaputti ubhayattha kaṭaggaho, devalokūpapatti ca kitti ca idha jīvite.

2057. Hỡi nàng công chúa, đây là vận mệnh tốt đẹp của nàng ở cả hai nơi: sự sanh lên thế giới chư Thiên và danh tiếng ở cuộc sống tại nơi này.

24. Vậy nàng gặt hái nghiệp duyên nàng
Bằng cảnh huy hoàng ở thế gian,
Công chúa, về sau trên thượng giới
Tái sinh nàng được hóa Thiên thần.

2058. Ciraṃ sumedhe sukhinī dhammaṃ pālayamattani, esāhaṃ tidivaṃ yāmi piyamme tava dassanan ”ti.

6. Surucijātaka.

2058. Này người nữ thông minh, này người nữ có hạnh phúc, nàng hãy gìn giữ thiện pháp lâu dài ở bản thân. Ta đây đi về cõi Trời. Việc gặp gỡ nàng là đáng quý đối với ta.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada