15. Vậy khi nhiều kẻ đạt thanh tâm
Tại chính nơi đây, giữa cõi trần,
Người thiện thấy toàn là bậc Thánh,
Chẳng hề hỏi huyết thống nguồn căn.

2010. Assaṃ gavaṃ rajataṃ jātarūpaṃ bhariyañca so idha labhataṃ manāpaṃ, puttehi dārehi samaṅgi hotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.

2010. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy ở đời này hãy đạt được ngựa, voi, bạc, vàng, và người vợ hợp ý; cầu cho gã hãy có nhiều con, có nhiều vợ.”

1. Mong nhiều trâu ngựa, lắm kim ngân,
Vợ quý, nó giữ gìn luyến thương,
Mong nó sinh nhiều trai gái đủ,
Kẻ ăn phần trộm của La-môn!

2011. Mālañca so kāsikacandanañca dhāretu puttassa bahū bhavantu, kāmesu tibbaṃ kurutaṃ apekkhaṃ
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2011. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy mang tràng hoa, mặc vải Kāsi, và thoa bột trầm hương; cầu cho kẻ này hãy có nhiều con; cầu cho gã hãy thể hiện sự ham muốn tột độ ở các dục.”

2. Mong nó nhiều con, lắm áo quần,
Vòng hoa tay khoác, ngát chiên-đàn,
Tâm tư sôi sục đầy tham dục,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2012. Pahūtadhañño kasimā yasassī putte gihī dhanimā sabbakāme, vayaṃ apassaṃ gharamāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2012. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người nông dân có nhiều thóc lúa, có danh tiếng; hãy là người tại gia có nhiều con cái, có tài sản, đạt được tất cả các dục; cầu cho gã hãy trú ngụ ở nhà, không nhận biết tuổi tác của bản thân.”

3. Mong nó nhiều danh vọng, ruộng vườn,
Nhà kho, con cái, sẵn sàng dâng,
Nó không hiểu tháng năm dần mất,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2013. So khattiyo hotu pasayhakārī rājābhirājā balavā yasassī, sacāturantaṃ mahimāvasātu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2013. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Sát-đế-lỵ có hành động bạo lực, là vị vua trên các vị vua, có sức mạnh, có danh tiếng; cầu cho gã trú ngụ ở trái đất bao gồm cả bốn phương.”

4. Mong nó lừng danh đại tướng quân,
Ðế vương tối thượng ngự huy hoàng,
Thế gian bốn cõi đều phần nó,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðạo nhân!

2014. So brāhmaṇo hotu avītarāgo muhuttanakkhattapathesu yutto, pūjetu naṃ raṭṭhapatī yasassī bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2014. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Bà-la-môn chưa xa lìa luyến ái, chuyên chú vào thời khắc và đường đi của các vì sao; cầu cho vị chúa của vương quốc có danh tiếng hãy tôn vinh kẻ ấy.”

5. Mong nó trở thành một Ðạo nhân,
Mà không chế ngự được tham sân,
Chỉ tin tinh tú, ngày lành tốt,
Ðược hiển vinh nhờ các đế vương
Ân thưởng, kẻ ăn phần trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2015. Ajjhāyakaṃ sabbasamattavedaṃ tapassinaṃ maññatu sabbaloko, pūjentu taṃ jānapadā samecca
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2015. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho tất cả thế gian hãy quý trọng kẻ có sự khắc khổ, chuyên học tập trọn vẹn đầy đủ bộ Kinh Vệ Đà; cầu cho dân chúng sau khi hiểu rõ hãy tôn vinh kẻ ấy.”

6. Vệ-đà, mong nó học uyên thâm,
Người quý trọng đức độ Thánh nhân,
Mong nó được muôn người bái phục,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2016. Catussadaṃ gāmavaraṃ samiddhaṃ dinnaṃ hi bhuñjatu vāsavena, avītarāgo maraṇaṃ upetu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2016. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy hưởng thụ ngôi làng cao quý, thịnh vượng, có bốn sự dư thừa (về nhân lực, thóc lúa, củi, nước), bởi vì đã được ban tặng bởi vị Chúa của chư Thiên; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết lúc vẫn chưa xa lìa luyến ái.

7. Ơn trời cho nó được ngôi làng,
Có đủ giàu sang, bốn loại hàng,
Khi chết, dục tham không chế ngự,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2017. So gāmaṇī hotu sahāyamajjhe naccehi gītehi pamodamāno, mā rājato vyasanamalatthakiñci bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.

2017. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người trưởng làng đang vui sướng với các điệu vũ, với các lời ca ở giữa bạn bè; cầu cho gã chớ gánh chịu bất cứ sự bất hạnh nào từ phía đức vua.” 

8. Nó làm lý trưởng, bạn quây quần,
Vũ khúc, hoan ca, nhạc đắm hồn,
Mong nó đầy tràn ơn lộc chúa,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2018. Yaṃ ekarājā paṭhaviṃ vijetvā itthī sahassassa ṭhapetu aggaṃ, sīmantinīnaṃ pavarā bhavātu bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.  

2018. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho vị vua độc nhất đã chinh phục trái đất hãy thiết lập cô nàng vào ngôi vị chánh hậu trong số một ngàn nữ nhân; cầu cho cô nàng hãy là người quý phái trong số các phụ nữ.”

9. Mong nàng làm tuyệt thế giai nhân,
Chúa tể thế gian chọn má hồng,
Chánh hậu giữa muôn người toại ý,
Kẻ ăn phần trộm, hỡi La-môn!

2019. Isīnaṃ hi sā sabbasamāgatānaṃ bhuñjeyya sāduṃ avikampamānā, carātu lābhena vikatthamānā
bhisāni te brāhmaṇa yā ahāsi.  

2019. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho cô nàng ấy có thể thọ dụng thức ăn ngon ngọt một cách thản nhiên ở giữa tất cả các nữ tỳ đã tụ hội lại; cầu cho cô nàng hãy sống phô trương về lợi lộc.”

10. Khi mọi nữ tỳ tập họp xong,
Mong nàng oai vệ ngự ngai vàng,
Cao lương mỹ vị đầy ngon ngọt,
Kiêu hãnh vì ân phước của nàng,
Người đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2020. Āvāsiko hotu mahāvihāre navakammiko hotu kajaṅgalāyaṃ, ālokasandhiṃ divasā karotu
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2020. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho gã hãy là vị thường trú ở ngôi tự viện lớn; cầu cho gã hãy là người làm công việc xây dựng tại thành phố Kajaṅgalā (rộng một do-tuần); cầu cho gã hãy kiến thiết cửa sổ nội trong một ngày.”

11. Mong nó bảo tồn viện Ka-jan,
Trùng tu quang cảnh đã tiêu tàn,
Hàng ngày làm cửa song nhà mới,
Kẻ trộm phần ngài, hỡi Ðại nhân!

2021. So bajjhataṃ pāsasatehi chamhi rammā vanā nīyatu rājadhāniṃ, tuttehi so haññatu pācanehi
bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2021. “Thưa vị Bà-la- môn, con voi nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó hãy bị trói buộc bởi một trăm sợi xích ở sáu chỗ (bốn chân, cổ, và hông); cầu cho nó hãy bị dẫn đi từ khu rừng đáng yêu đến kinh thành; cầu cho nó hãy bị hành hạ bởi những cây giáo nhọn, bởi những gậy móc câu.”

12. Mong nó bị người bắt lấy thân,
Sáu trăm dây trói tự rừng hoang
Mang về thành, bị người vây đánh
Bằng gậy, giáo, gươm, phải phát cuồng!
Kẻ đã lấy phần ăn trộm đó,
Hỡi ngài, Tôn giả Bà-la-môn!

2022. Alakkamālī tipukaṇṇaviddho laṭṭhihato sappamukhaṃ upetu, sakkaccabaddho visikhaṃ carātu bhisāni te brāhmaṇa yo ahāsi.  

2022. “Thưa vị Bà-la- môn, con khỉ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó có đeo vòng hoa bạch tiền, bị chì xuyên thủng lỗ tai, bị hành hạ bởi roi vọt; cầu cho nó hãy đi đến gần miệng rắn (ở trò biểu diễn khỉ và rắn); cầu cho nó hãy đi lang thang ở đường phố, bị cột trói cẩn thận.”

13. Vòng hoa trên cổ, thiếc đeo tai,
Mong nó đi đường, khiếp sợ oai
Chiếc gậy luyện chơi gần lũ rắn,
Kẻ ăn phần trộm ấy, thưa ngài!

2023. Yo ve anaṭṭhaṃ naṭṭhanti cāha kāmeva so labhataṃ bhuñjatañca agāramajjhe maraṇaṃ upetu yo cā bhonto saṅkati kañcideva.  

2023. “Thật vậy, kẻ nào đối với vật không bị mất mà đã nói là: ‘Bị mất,’ cầu cho kẻ ấy hãy nhận được và hưởng thụ các dục; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết ở giữa ngôi nhà (vì đã không được xuất gia). Và thưa các ngài, kẻ nào trong số các vị nghi ngờ về bất cứ ai (thì cũng gánh chịu như vậy).

14. Ai thề thực phẩm biến đi rồi,
Mà nếu không mất mát, vậy thời
Mong nó hưởng tràn đầy dục lạc,
Và mang kết quả việc kia hoài,
Ước mong cái chết đầy phàm tục
Số phận dành cho nó cuối đời,
Ðiều ấy cũng dành cho quí vị,
Nếu bây giờ quí vị nghi tôi!

2024. Yadesamānā vicaranti loke iṭṭhañca kantañca bahunnametaṃ, piyaṃ manuññaṃ idha jīvaloke kasmā isayo nappasaṃsanti kāme.

2024. “Chúng lang thang ở trên đời, trong khi tầm cầu vật ưa thích và vật mong muốn, là vật được yêu quý, vật làm vừa lòng đối với số đông ở tại nơi này, ở thế gian của cuộc sống. Vì sao các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục?” 

15. Người kiếm tìm luôn ở cõi trần
Cái điều vui đẹp, thiết thân lòng
Ðược nhiều kẻ ước mong mê mẩn.
Như vậy, vì sao các Thánh nhân
Lại chẳng tán dương nhiều sự việc
Vẫn thường ham muốn bởi phàm nhân?

2025. Kāmesu ce haññare bajjhare ca kāmesu dukkhañca bhayañca jātaṃ, kāmesu bhūtādhipatī pamattā pāpāni kammāni karonti mohā.  

2025. “Thật vậy, chúng bị hành hạ và bị trói buộc ở các dục; khổ đau và nguy hiểm được sanh ra ở các dục; các vị quân vương bị say đắm ở các dục; vì si mê, chúng làm các hành động xấu xa.

16. Tham dục là tai họa chết người,
Là dây xiềng xích trói trên đời,
Ở trong ác dục, ta tìm thấy
Ðau khổ và kinh hãi cả thôi.
Khi bị dục tham nào cám dỗ,
Vua thường phạm tội, đắm say hoài!

2026. Te pāpadhammā pasavetvā pāpaṃ kāyassa bhedā nirayaṃ vajanti, ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
tasmā isayo nappasaṃsanti kāme.  

2026. Sau khi tạo ra tội ác do bản chất xấu xa, do sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục, vì thế, các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục.”

17. Phải vào địa ngục, các phàm nhân
Gây tội, khi tan rã nhục thân,
Vì biết khổ đau trong ác dục,
Bậc hiền chê trách, chẳng đồng lòng.

2027. Vīmaṃsamāno isino bhisāni tīre gahetvāna thale nidhesiṃ, suddhā apāpā isayo vasanti etāni te brāhmacārī bhisāni.  

2027. “Trong khi xem xét các củ sen của vị ẩn sĩ, ta đã cầm lấy chúngở bờ hồ và đã cất giấu ở trong đất. Các vị ẩn sĩ sống trong sạch, không xấu xa. Thưa vị thực hành Phạm hạnh, các củ sen này là của ngài.”

18. Chính ta trộm, thử các hiền nhân,
Ta đặt bên hồ các thức ăn,
Bậc trí thật hiền lương thánh thiện,
Hỡi người Phạm hạnh, hãy nhìn phần!

2028. Na te naṭā no pana kīḷaneyyā na bandhavā no pana te sahāyā, kismiṃ paratthambha sahassanetta isīhi tvaṃ kīḷasi devarāja.  

2028. “Chúng tôi không phải là các vũ công của ngài, hơn nữa không là những người có thể đùa giỡn. Chúng tôi không là bà con, hơn nữa không là bạn bè của ông. Thưa vị nâng đỡ kẻ khác, thưa bậc có ngàn mắt, thưa đấng Thiên Vương, liên quan đến việc gì mà ông đùa giỡn với các bậc ẩn sĩ?”

19. Chúng ta không múa rối vui chơi,
Làm các trò tiêu khiển với ngài,
Chẳng quyến thuộc ngài, hay bạn hữu,
Tại sao vậy thế, hỡi vua trời?
Thưa ngài Ngàn mắt, sao ngài nghĩ
Bậc trí bày trò giải trí thôi?

2029. Ācariyo mesi pitā ca mayhaṃ esā patiṭṭhā khalitassa brahme, ekāparādhaṃ khama bhūripañña
na paṇḍitā kodhabalā bhavanti.

2029. “Ngài là vị thầy của ta, và là người cha của ta. Thưa vị Bà-la- môn, nơi nương tựa này là dành cho người bị phạm lỗi lầm. Thưa vị có trí tuệ uyên bác, xin ngài hãy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có năng lực của sự giận dữ.”

20. Ngài chính là Sư trưởng đại nhân,
Chính ngài là một vị cha thân,
Chở che cho trẫm đà sai phạm,
Xin hãy thứ tha trót lỗi lầm;
Chẳng có bao giờ, thưa Thánh giá,
Bậc hiền lại phát khởi lòng sân!

2030. Suvositaṃ isinaṃ ekarattaṃ yaṃ vāsavaṃ bhūtapatiṃ addasāma, sabbeva bhonto sumanā bhavantu
yaṃ brāhmaṇo paccapādī bhisāni.  

2030. “Một đêm của các vị ẩn sĩ đã được trải qua tốt đẹp! Là việc chúng ta đã gặp được đấng Thiên Chủ, chúa của các Thiên thần. Thưa các vị, xin tất cả các vị hãy hoan hỷ, bởi vì vị Bà-la- môn đã nhận lại các củ sen.”

21. An lạc một đêm với Thánh nhân,
Chúng ta hội kiến đấng Thiên vương,
Chư Hiền, hãy đẹp lòng khi thấy
Thực phẩm mất, nay được phục hoàn.

2031. Ahañca sāriputto ca moggallāno ca kassapo, anuruddho puṇṇo ānando tadāsuṃ satta bhātaro.  

2031. “Khi ấy, Ta cùng với Sāriputta, Moggallāna, Kassapa, Anuruddha, Puṇṇa, và Ānanda đã là bảy anh em.

22. Mục-liên, Xá-lợi-phất và Ta,
Ca diếp, A-na-luật, Phú-na, (1),
Cùng với A-nan-đà thuở ấy
Thất Hiền Huynh Ðệ chốn kia mà.

2032. Bhaginī uppalavaṇṇā dāsī khujjuttarā tadā, citto gahapati dāso yakkho sātāgiro tadā.  

2032. Khi ấy, Uppalavaṇṇā đã là cô em gái,  Khujjuttarā đã là người tớ gái. Khi ấy, gia chủ Citta đã là người tôi trai, Sātāgira đã là Dạ-xoa.

23. Liên Hoa Sắc, tiểu muội ngày xưa,
Tỳ nữ, Khuj-ju (2), thuở bấy giờ,
Cổ thụ Thần kia, Sà-tá (3) đó,
Cit-ta Gia chủ, chính gia nô.

2033. Pārileyyo tadā nāgo madhudo seṭṭhavānaro, kāḷudāyī tadā sakko evaṃ dhāretha jātakan ”ti.

5. Bhisajātakaṃ.

2033. Khi ấy, voi Pārileyya đã là con voi,  Madhuda đã là con khỉ thủ lãnh. Khi ấy, Kāḷudāyī đã là Thiên Chủ Sakka. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như vậy.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada