18. Chim Ưng tìm được bậc anh hùng
Ðể đóng vai chim bạn thiết thân,
Ưng hỡi, như đôi ta hạnh phúc,
Chim kia cũng hạnh phúc trong lòng.

1994. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā dummukharūpā ye me japanti, kaccinnu te mānusake payoge idaṃ vidū parimuttā apāyā.

1994. “Có y da dê thô cứng, tóc bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này lẩm nhẩm. Phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đã được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?

1. Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm lời thánh đạo bình an,
Chẳng từ nan nhiều phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

1995. Pāpāni kammāni karotha rāja bahussuto ce na careyya dhammaṃ, sahassavedāpi na taṃ paṭicca
dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā.  

1995. Tâu bệ hạ, nếu người có nhiều kiến thức làm các hành động xấu xa, và không thực hành thiện pháp, người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau.”

2. Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

1996. Sahassavedopi na taṃ paṭicca dukkhā pamucce caraṇaṃ apatvā, maññāmi vedā aphalā bhavanti
sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.

1996. “Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý.”

3. Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người nguy khốn:
Kinh Vệ-đà hẳn là đồ vô dụng,
Chánh đạo là: làm chánh, tự điều thân.

1997. Na heva vedā aphalā bhavanti sasaṃyamaṃ caraṇaññeva saccaṃ, kittiṃ hi pappoti adhicca vede
santiṃ puṇoti caraṇena danto.

1997. “Các sự hiểu biết không hẳn là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý. Bởi vì người sau khi học tập các sự hiểu biết thì đạt được danh tiếng, còn với sự thực hành, người đã được huấn luyện đạt đến sự an tịnh.”

4. Không phải thế, Vệ-đà không vô dụng,
Dù tự điều thân là đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt tối an nhờ chánh hạnh.

1998. Bhaccā mātā pitā bandhū yena jāto sayeva so, uddālako ahaṃ bhoto sotthiyākulavaṃsako.

1998. “Người mẹ, người cha, các quyến thuộc là những người cưu mang. Kẻ đã được sanh ra từ người nào thì đương nhiên thuộc về người ấy. Con là Uddālaka, là người thuộc dòng dõi gia tộc Sotthiya của ngài.”

5. Cha mẹ và thân quyến họ hàng
Ðòi ta chăm sóc với yêu thương,
Mẹ cha là bản thân con đó,
Con Ud-da-la chính búp non
Từ gốc rễ nhà ngài quý tộc,
Thưa ngài, Tôn giả Bà-la-môn.

1999. Kathaṃ bho brāhmaṇo hoti kathaṃ bhavati kevalī, kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.

1999. “Này con, thế nào là vị Bà-la-môn? Thế nào là người có sự toàn hảo? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”

6. Ðiều gì thành tựu một La-môn,
Vị ấy làm sao được thiện toàn?
Hãy nói thế nào người chánh hạnh,
Làm sao đạt hạnh phúc Niết-bàn?

2000. Niraṃ katvā aggimādāya brāhmaṇo āposijaṃ yajamusseti yūpaṃ, evaṃ karo brāhmaṇo hoti khemi
dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.

2000. “Sau khi khước từ (thế gian) và thờ phượng thần lửa, trong khi hành lễ rưới nước, trong khi dâng hiến, vị Bà-la-môn nâng cao cây gậy tế thần. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”

7. Bỏ đời, sùng bái lửa thiêng hồng,
Vung gậy tế đàn, rảy nước trong,
Phận sự làm xong, người tán tụng,
La-môn như vậy được an lòng.

2001. Na suddhi secanenatthi napi kevalī brāhmaṇo, na khanti napi soraccaṃ napi so parinibbuto.

2001. “Không có sự trong sạch với việc hành lễ rưới nước, vị Bà-la-môn cũng không có sự toàn hảo, không có sự nhẫn nại, cũng không có sự hiền hòa; vị ấy cũng không được hoàn toàn diệt tắt.”

8. Rảy nước không làm sạch Ðạo nhân,
Thiện toàn chẳng phải việc đăng đàn,
Cũng không an ổn và thân ái,
Chẳng đạt tối cao, lạc Niết-bàn.

2002. Kathaṃ so brāhmaṇo hoti kathaṃ bhavati kevalī, kathañca parinibbānaṃ dhammaṭṭho kinti vuccati.

2002. “Vị Bà-la-môn ấy là thế nào? Người có sự toàn hảo là thế nào? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”

9. Ðiều gì thành tựu hạnh La-môn
Vị ấy làm sao được thiện toàn,
Xin bảo thế nào người chánh hạnh,
Làm sao thành tựu lạc Niết-bàn?

2003. Akkhettabandhu amamo nirāso nillobhapāpo bhavalobhakhīṇo, evaṃ karo brāhmano hoti khemi dhamme ṭhitaṃ tena amāpayiṃsu.

2003. “Là người không ruộng vườn, không bà con, không ích kỷ, không mong cầu, không tham lam xấu xa, đã được cạn kiệt tham ái trong các hữu. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”

10. Người không của cải, chẳng nương đồng,
Không có họ hàng, chẳng ước mong,
Chẳng thiết cuộc đời, không ái dục,
Hoặc không ác hạnh, thảy đều không.
Ðạo nhân vậy đạt tâm thanh tịnh,
Giữ phận chánh chân, được tán đồng.

2004. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍālapukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā, sabbesaṃ sītibhūtānaṃ atthi seyyova pāpiyo.

 2004. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, phải chăng có vị tốt hơn, có vị kém thua?”

11. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn.
Vậy ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các Thánh hiền tối thượng chăng?

2005. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍāla pukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā, sabbesaṃ sītibhūtānaṃ natthi seyyova6 pāpiyo.

2005. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua.”

12. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người đầy trắc ẩn,
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,
Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân.

2006. Khattiyā brāhmaṇā vessā suddā caṇḍālapukkusā, sabbeva soratā dantā sabbeva parinibbutā.  

2006. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt.

13. Công, nông, giáo sĩ, đến vua quan,
Nô lệ, Chiên-đà, các tiện dân,
Tất cả những người này đức hạnh
Ðều thành tựu cực lạc Niết-bàn,

2007. Sabbesaṃ sītibhūtānaṃ natthi seyyova pāpiyo, panaṭṭhaṃ carasi brahmaññaṃ sotthiyākulavaṃsataṃ.

2007. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua, vậy Bà-la-môn hạnh, tính chất dòng dõi gia tộc Sotthiya, mà ngài thực hành đều bị mất đi.

14.”Chẳng ai cao trọng, ai hèn kém,
Giữa các bậc hiền Thánh đại nhân;
Giáo sĩ, vậy ngài vô tích sự,
Hư danh địa vị, hẳn rồi chăng?

2008. Nānārattehi vatthehi vimānaṃ bhavati chāditaṃ, na tesaṃ chāyāvatthānaṃ so rāgo apanujjatha.  

2008. “Đền đài, cung điện trở nên bị che khuất bởi những tấm vải nhuộm nhiều màu. Bóng che không phải là của những tấm vải ấy, mà màu sắc ấy làm nhòa đi.

14. Với tấm vải thô nhuộm đủ màu,
Ngôi đình được dựng, mái đình cao,
Ðỉnh tròn, rực rỡ đầy màu sắc,
Bóng đổ một màu vẫn giống nhau.

2009. Evameva manussesu yadā sujjhanti mānavā, na tesaṃ jātiṃ pucchanti dhammamaññāya subbatā ”ti.

4. Uddālakajātaka.

2009. Tương tự như vậy ở loài người, khi những người trẻ tuổi được trong sạch sau khi hiểu thông Giáo Pháp và trở thành những vị có sự hành trì tốt đẹp, người ta không hỏi về xuất thân của các vị ấy.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada